Tranh Thi sĩ Hồ Xuân Hươngcủa họa sĩ Phùng Dzi Thuần.
Mối tình cuối cùng của Hồ Xuân Hương là với Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển vào khoảng năm 1814 -1818, đây có lẽ là thời gian hạnh phúc nhất của bà.
Nữ sĩ họ Hồ là một tài thơ hiếm thấy và có mối kết giao rộng rãi với các bậc văn nhân tài tử đương thời. Xuân Hương từng kết bạn với Nguyễn Du, Tốn Phong Thị, Chiêu Hổ, Tham hiệp trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tỉnh.... và đã làm lẽ vài lần.
Những mối tình của bà luôn gắn với những giai thoại lưu truyền trong dân gian và trong thơ ca. Mối tình cuối cùng của Hồ Xuân Hương là với Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Hồ Xuân Hương làm vợ lẽ Trần Phúc Hiển vào khoảng năm 1814 đến 1818, và đây có lẽ là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của bà.
Tranh minh họa thơ Hồ Xuân Hương của Bùi Xuân Phái
Trần Phúc Hiển là người đàng trong. Ông vốn con nhà thi thư, năm Gia Long thứ 2 (1803), được bổ chức Hàn lâm viện thi thư, sau đó làm Tri phủ Tam Đái thuộc trấn Sơn Tây. Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Trần Phúc Hiển được thăng chức Tham hiệp trấn Yên Quảng, trấn lị Yên Quảng bấy giờ đóng tại Quảng Yên, nay là thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh. Trần Phúc Hiển khi đó đã có vợ ở quê nhưng người vợ không theo chồng ra Bắc nên đã lấy lẽ Hồ Xuân Hương và đến sống ở Quảng Yên.
Trong thời gian yêu và lấy Trần Phúc Hiển, Xuân Hương đã vài lần phải tạm xa chồng, bằng chứng là có hai bài thơ Nôm trong tập Lưu Hương ký ghi lại việc này. Bài thơ vừa đề tặng và cũng để nhắc nhở đấng phu quân chớ quên tình nghĩa vợ chồng.
Bạch Đằng giang tặng biệt (Tặng bạn khi chia tay ở sông Bạch Đằng)
Khi chồng giữ chức Tham hiệp trấn Yên Quảng, Xuân Hương đã được chồng nhờ giúp các công việc hành chính ở công đường và nổi tiếng là một tài nữ.
Trong thời gian sống cùng chồng ở Yên Quảng, Xuân Hương đã đi thăm nhiều nơi. Trấn Yên Quảng khi đó có phủ Hải Đông gồm 3 huyện (Yên Hưng, Hải Đông, Hoành Bồ) và 3 châu (Tiên Yên, Vạn Ninh, Vân Đồn) với 16 tổng, 123 phường, phố, vạn, xóm.
Vịnh Hạ Long - vũng Hoa Phong đã gây cho bà những ấn tượng đặc biệt, chùm thơ chữ Hán của Xuân Hương viết về vịnh Hạ Long là cảm nhận riêng về cảnh vật, con người và những hoạt động trên vùng quê sông nước.
Năm bài thơ chữ Hán đó là Độ Hoa Phong (Qua vũng Hoa Phong), Trạo Ca Thanh (Trỗi tiếng ca chèo), Nhãn Phóng Thanh (Mắt tỏa màu xanh), Thủy Vân Hương (Về chốn nước mây) và Hải Ốc Trù (Nghóng đỉnh Toan Ngoan). Cả năm bài thơ về Vịnh Hạ Long đều ghi lại những cảnh đẹp khác nhau của vùng biển và con người nơi đây. Dưới đây là bài Độ Hoa Phong (Qua vũng Hoa Phong):
Uông Triều