User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
Lịch sử quê hương Việt chứng tỏ rằng mặc dù sống dưới chế độ nô lệ Bắc thuộc trên ngàn năm, các sách vở Việt bị đốt hết, chữ viết Việt bị tiệu diệt, đơn từ giao dịch chỉ bằng chữ Hán, nhưng dân tộc tính Việt vẫn tồn tại, vì người Việt cứ nói tiếng Việt, đồng thời cứ xử dụng văn học truyền khẩu liên lạc với nhau trong các sinh hoạt hàng ngày.
 
Ngày nay người Việt đang sống ở hải ngoại, nơi mà ngôn ngữ hàng ngày của dân địa phương là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức thì tất nhiên tiếng Việt dần dần sẽ bị quên lãng và dân tộc tính dần dần sẽ mất đi. Như vậy, môi trường sống hiện tại phần nào giống môi trường thời Bắc thuộc nếu đứng về mặt văn hóa mà nói.
 
chuhieu
Để có thể sống ở hải ngoại, hưởng tiện nghi của đời sống văn minh với thế giới năm châu, mà vẫn còn Dân Tộc Tính Việt, thì người Việt phải tiếp tục cứ nói tiếng Việt và cứ sử dụng văn học truyền khẩu Việt khi có những sinh hoạt trong cộng đồng của mình.
 
I- Cứ Nói Tiếng Việt
 
Việc Cứ nói tiếng Việt cần đến sự quan tâm của các bậc cha mẹ, của các bậc lãnh đạo tinh thần tôn giáo, của Cộng đồng người Việt, và của các cơ quan truyền thông Việt như các đài Phát Thanh Việt và các đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt.

1/ Các bậc Ông Bà Cha mẹ
 
kechuyen
 
Các con em Việt suốt ngày sống trong học đường, học văn hóa Tây Phương, sử dụng tiếng Anh, tiếng Pháp trong các sinh hoạt v.v.v . Giới trẻ đi làm công sở, hoặc xưởng thợ, thường ngày giao tiếp với xã hội bằng tiếng Anh tiếng Pháp. Chiều tối hay vào những ngày cuối tuần, những thành viên trong gia đình mới có thời gian ngắn ngủi gặp gỡ nhau. Các chủ gia đình hãy làm cách nào để cho mọi lứa tuổi trong gia đình cứ nói tiếng Việt với nhau để hiểu nhau: cháu chắt nói chuyện với ông bà, con cái nói chuyện với cha mẹ. Có như vậy, thì tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ và ông bà, sự tôn kính tổ tiên, và tình mẫu tử tình phụ tử mới bền chặt và gia đình mới đầm ấm.
 
2/ Các bậc lãnh đạo tinh thần tôn giáo.
 
Các quí vị lãnh đạo tinh thần tôn giáo đều công nhận rằng giáo đường và chùa chiền là những nơi nuôi dưỡng tinh thần đạo đức của các tín đồ. Các quí vị đều biết rằng đạo nắm phần quan trọng trong đời sống đạo đức của mọi người. Có đạo đức, thì các con em mới yêu mến cha mẹ ông bà, tôn kính tổ tiên, thương anh em chị em trong gia đình. Bởi vậy, giáo đường và chùa chiền cần phải động viên cho có nhiều người đến. Xin quí vị kiên nhẫn và sáng kiến tìm những cách qui tụ các em lại để các em sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của quí vị. Khi hướng dẫn các em, các quí vị cứ nói tiếng Việt càng nhiều càng tốt, và kích động các em cứ nói tiếng Việt.
 
3/ Các vị lãnh đạo Cộng Đồng
 
Các quí vị có cơ hội qui tụ các bậc gia trưởng, các hội đoàn chung nhau xây dựng cộng đồng lớn mạnh trong tinh thần đồng hương, thương yêu, đoàn kết giúp đỡ nhau. Một khi cộng đồng lớn mạnh trong tinh thần đó, thì giới trẻ và con em của quí vị sẽ thích tham gia, sinh hoạt và đương nhiên giới trẻ và các em được kích động cứ nói tiếng Việt với nhau một cách hồ hởi. Xin các quí vị hãy cố gắng nhắc nhở cho các bậc gia trưởng, cho các hội đoàn trưởng kích động mọi người Việt đạt tới tinh thần nêu trên. Xin các quí vị lãnh đạo cộng đồng kiên trì tổ chức các lớp học truyền bá quốc ngữ, tổ chức các cuộc thi đua cứ nói tiếng Việt với nhau, và tổ chức các buổi thuyết trình bằng tiếng Việt.
 
4/ Các đài truyền hình và các đài phát thanh Việt
 
Các quí vị có cơ hội nắm ngành truyền thông Việt, đương nhiên là các quí vị có sứ mệnh truyền bá, bảo trì văn hóa Việt, củng cố dân tộc tính quê hương tại hải ngoại. Các quí vị có thể bàn đến chính trị. Làm chính trị là một phần nghĩa vụ yêu nước. Điều đó tốt. Các quí vị có thể quảng cáo nhiều dịch vụ để có thêm đồng tiền chi phí. Điều đó cũng tốt thôi. Nhưng các quí vị quên sứ mệnh của ngành truyền thông là phải phục vụ lợi ích văn hóa của cộng đồng Việt. Thực tế các quí vị dành trọn thời gian cho chính trị và quảng cáo mà bỏ rơi hoàn toàn lãnh vực truyền bá văn hóa Việt cho giới trẻ Việt. Các quí vị quên rằng chính trị chỉ có giá trị nhất thời, còn vấn đề phát huy và bảo trì văn hóa nơi con em và giới trẻ hải ngoại mới có giá trị trường cửu. Vậy xin các quí vị hoạch định chương trình văn hóa cho giới trẻ, đồng thời kích động giới trẻ cứ nói tiếng Việt, tạo cơ hôi cho các em phát biểu trên đài bằng tiếng Việt. Đấy là sứ mệnh của các vị lãnh nhiệm vụ truyền thông.

II- Cứ Sử Dụng Văn Học Truyền Khẩu
 
Văn học truyền khẩu là điều kiện hình thành dân tộc tính mạnh nhất. Nếu được nghe và được cơ hội thực hành nội dung văn học này, trẻ em sẽ thấm nhuần dân tộc tính Việt. Bởi vậy, các bậc cha mẹ, các vị lãnh đạo cộng đồng và tôn giáo, các vị nắm giữ ngành truyền thông nên quan tâm phát động phổ biến văn học truyền khẩu một cách quy mô và rộng rãi.
 
Thuộc nhóm Văn học truyền khẩu, chúng ta thường nghe nói tới: Truyện Cổ Tích (folk tales), Tục ngữ, Ca Dao, Dân Ca . Xin giới thiệu sơ qua:
 
1- Truyện Cổ Tích
 
Truyện Cổ Tích gồm:
 
- Những chuyện ngụ ngôn để răn đời và những chuyện dựng lên trên truyền thuyết hay huyền thoại về thần linh, về vũ trụ, về biến cố lịch sử. Những chuyện Lạc Long Quân trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, Thánh Tản Viên (Sơn Tinh) ngăn nước lụt... có thể xếp vào loại thần thoại về sự chinh phục thiên nhiên và kỳ tích của anh hùng.
 
Những truyện "Cóc kiện trời", "Tại sao hổ có vằn", "Sự tích loài khỉ", "Sự tích con tu hú", "Sự tích con dã tràng"... có thể xếp vào loại cổ tích về loài vật.
 
- Những truyện về Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Bánh dầy bánh chưng, Quả dưa đỏ, Sơn tinh, Thủy tinh, Thần Kim quy và nỏ thần, Thiếu phụ Nam xương... Tô Thị vọng phu... có thể xếp vào loại cổ tích lịch sử.
 
- Những truyện Trầu cau, Tấm Cám, Ba vị đầu rau, Túi ba gang (hai anh em và cây khế), Cây tre trăm đốt, Lưu Bình Dương Lễ, Cái cân thủy ngân, Giết chó dạy chồng... có thể xếp vào loại truyện luân lý.
 
- Những chuyện về sự dối trá của thằng Cuội, Trạng Quỳnh lỡm chúa Trịnh, Trạng Lợn gặp may, cũng như những giai thoại về Ba Giai, Tú Xuất... có thể xếp vào loại truyện hài hước.
 
Thêm vào đó, dân Việt còn có những truyện thần kỳ, thoát tục như Tú Uyên gặp tiên, Từ Thức lên tiên, và một số truyện ái tình thuần túy như Trương Chi-Mỵ Nương. 

- Một số truyện cổ tích (như các truyện Trăm trứng trăm con, Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa.) cũng là truyện cổ tích của nhiều sắc dân thiểu số Việt.
 
Một đặc điểm đáng lưu ý của các truyện cổ tích là không có văn bản nhất định. Mỗi người kể lại đều có thể thêm bớt, thay đổi đôi chút cho hợp với khung cảnh và trình độ, thành phần thính giả.

2- Tục ngữ
 
ancom
Tục= thói quen có đã lâu đời; ngữ= lời nói. Tục ngữ là những câu nói ngắn, gọn, giàu ý nghĩa, được dùng trong lời nói hàng ngày và lưu truyền từ đời nọ qua đời kia.
 
Học thầy không tày học bạn.
Lửa thử vàng, gian nan thử sức
Ăn trông nồi ngồi trông hướng.

Nguồn gốc:
 
a/- Phần lớn các tục ngữ nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Ban đầu, có khi chỉ là một câu nói thường nhưng nhờ có ý nghĩa xác đáng, lời lẽ cô đọng, dễ nhớ, được người khác thích thú, nhắc đi nhắc lại. Dần dần, câu nói được trau chuốt và phổ biến rộng hơn.
 
b/- Có những câu vốn là thơ ca có tác giả nhưng nhờ ý đúng, lời hay, được nhiều người lưu tâm một cách đặc biệt rồi tách riêng để truyền tụng. Những câu như:
 
Thương người như thể thương thân (trong Gia huấn ca)
Chữ "tài" liền với chữ "tai" một vần (trong Truyện Kiều)
 
c/- Có những câu tục ngữ được dịch từ ngạn ngữ nước ngoài như:
 
Ở hiền gặp lành (Tích thiện phùng thiện - Trung hoa)
Có công mài sắt, có ngày nên kim (Ma chử thành châm - Trung hoa)
Lửa cháy đổ dầu thêm (Hỏa thượng thiêm du - Trung hoa)
Thời giờ là tiền bạc (Time is money - Anh)
Muốn là được (Vouloir, c'est pouvoir - Pháp)
 
Hình thức

a/- Không vần, chỉ có ý đối
 
Giơ cao, đánh sẽ.
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
No nên bụt, đói ra ma
 
b/- Không vần, không đối, chỉ cốt ý đúng, lời gọn:
 
Mật ngọt chết ruồi
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
 
c/- Có vần, thường là vần lưng (yêu vận)
 
Ăn cây nào rào cây ấy
Phép vua thua lệ làng
Con có cha như nhà có nóc
Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy
 
d/- Đôi khi có cả vần chân (cước vận)
 
Khôn cho người rái,
Dở dở ương ương,
Dại cho người thương,
Tổ cho người ghét.
 
Xin lưu ý
 
1/- Tục ngữ còn được gọi là ngạn ngữ nếu lời trong câu tục ngữ được coi là lời người xưa truyền lại. Ngạn ngữ thường là những câu không dài lắm nhưng ý nghĩa thật hàm súc, tất nhiên phải là "lời hay ý đẹp".
 
Những câu sau đây thì được coi là ngạn ngữ:
 
- Điểu tận cung tàng, thố tử cẩu phanh (Hết chim thì cung bị đem cất, thỏ chết thì chó săn bị làm thịt; ý nói thói đời bội bạc)
 
- Phú nhuận ốc, đức nhuận thân (Của cải làm cho nhà cửa thành đẹp đẽ; đức độ khiến con người trở nên tươi tắn).
 
2/- Thành ngữ là một loại tục ngữ đặc biệt, tự nó chưa có ý nghĩa đầy đủ. Thành ngữ chỉ là những cách nói đã định sẵn (set expressions) để mô tả sự vật chứ không biểu thị một ý phán đoán hay khuyên răn nào, chẳng hạn
 
Đàn gảy tai trâu,
Đáy bể mò kim,
Nói hươu nói vượn
Gần đất xa trời,
Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa,
Ngậm bồ hòn làm ngọt
Cảnh trứng chọi với đá,
Chốn miệng hùm nọc rắn,
Xứ tiền rừng bạc biển..
 
Xếp vào loại thành ngữ những Câu ví:

Lạnh như tiền,
Thẳng như ruột ngựa,
Chắc như đinh đóng cột,
Dốt đặc cán mai,
Lúng túng như thợ vụng mất kim.
3/- Phương ngôn là những câu nói có ý nghĩa hẹp hơn tục ngữ được dùng trong một vùng, một địa phương chứ không phổ biến khắp nước
 
4/- Cách ngôn, Châm ngôn
 
"Cách" là phương thức, "Châm" là lời răn bảo. Cách ngôn, Châm ngôn là những câu tục ngữ có ý khuyên dạy luân lý.Chúng là những lời nói mẫu mực, đáng noi theo. Đây là những câu Cách ngôn, Châm ngôn:
 
- Tiên học lễ, hậu học văn;
Đói cho sạch, rách cho thơm...
 
3- Ca Dao & Dân Ca
(Ca: là bài hát thành chương khúc; Dao: là bài hát ngắn, không thành chương khúc). Ca dao là những câu hát theo giọng điệu tự nhiên lưu hành trong dân gian, thường diễn tả ý nghĩ, tình cảm, nếp sinh hoạt của đại chúng bình dân.

Ca dao còn được gọi là phong dao ("phong" là phong tục). Người xưa cho rằng qua ca dao có thể nhận biết phong tục tốt, xấu của một xứ, một vùng. Ca dao được dùng để ca hát trong nhân dân cho nên cũng gọi là dân ca..
 
Đại để ca dao thường làm theo các thể sau đây:
 
1*- Nói lối (mỗi câu 4 chữ):

Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp

conco
 
2*- Lục bát chính thức:

Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
 
3*- Lục bát biến thể:
 
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi vào!
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo, thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
 
4*- Song thất lục bát chính thức:
 
Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc
Con chàng còn trứng nước thơ ngây
Có hay chàng ở đâu đây
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng
 
5*- Song thất lục bát biến thể:
 
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay!
 
6*- Phối hợp nhiều thể khác nhau:

Từ khi gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thương chàng cha mẹ nào hay
Có hay thì nhất đánh nhì đày Hai lẽ mà thôi
Thủy chung em giữ trọn mấy lời
Chết em chịu chết, lìa đôi em không lìa.
 
Dân Ca
 
Dân Ca là bài Ca dao được dùng để ca hát trong nhân dân
 
1/ Dân Ca biệt loại
 
a/- Đồng Dao

Biệt loại thứ nhất của ca dao là đồng dao ("đồng": trẻ con). Đồng dao là những bài hát dành cho trẻ con, toàn bài nhiều khi chỉ là một số câu có vần ghép lại với nhau, không có ý nghĩa rõ rệt. Tuy nhiên, đồng dao có thể giúp trẻ học một số danh từ về các vật thường gặp. Chẳng hạn:

Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cửa nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp...

b/- Hát Ru
 
Hát ru là hát ru con, chỉ có mẹ và con, bà và cháu hay chị và em. Hát ru không cần âm nhạc hòa hợp.
 
Công thầy ngãi mẹ
Đừng tiếng băm nặng lời
Đừng cả tiếng rộng hơi
Mắng trả người sao nên
 
Điệu Ru
 
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng
 
c/- Hát Ví
 
Lấy truyện này để ví, hay khêu gợi truyện khác ví người nọ với người kia. Theo Tự Điển Khai Trí Tiến Đức, Ví là so sánh. đôi khi rõ ràng, đôi khi so sánh kín đáo, Chẳng
hạn

'Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
 
Ví có thể là hò hát, đối đáp giữa nam và nữ, là lối hát huê tình cho nên có người mỉa mai hát ví:

Ví ví von von
Anh cho một cái cõng con về nhà.

2/ Thể loại Dân Ca

được gọi tên tùy theo:- lời ca của bài ca , - động tác sinh hoạt , - nghệ thuật kết cấu câu ca
 
Về lời ca thì có hò mái nhì, hò mái đẩy, hò khoan, hò hụi. Người ta gọi hát cò lả vì khởi đầu có câu Con cò bay lả bay la.
 
Về động tác sinh hoạt thì có hát đò đưa, hát quan họ, hát trống quân.

Hát quan họ là sinh hoạt đối đáp giữa nam và nữ có các quan viên các nơi tới tham dự. Quan là những người có chức quyền, làm việc trong triều đình hoặc các bộ viện hay xã thôn. Quan có thể là những quý khách.

Họ là họ hàng. Họ cũng có nghĩa là một nhóm đông, một tập thể như họ đạo. Họ có thể do chữ Hội mà ra會 là hội họp, tụ hội.

Còn trống quân là nam nữ ca hát có cái trống ở giữa, vừa hát vừa đánh trống thì thùng, đệm cho câu hát.
 
Về nghệ thuật kết cấu câu ca thì có hát dặm hay dậm.

Mở đầu thường có cặp lục bát, sau mới đến bài ngũ ngôn, Có những câu lập lại cho nên lối hát này là lối hát dặm hay dậm.(Dặm hay Dậm là thêm vào, lập lại, đan vào, chêm vào).
 
Trong ba thể loại Dân Ca nêu trên thường có ba bước.

1/- Bước thứ nhất là chào hỏi
2/- bước thứ hai là tỏ tình
3/ -bước thứ ba là kết thúc để ra về
 
Ở bước thứ hai là tỏ tình, thì nam nữ thường hát đối đáp, mà phần lớn là đối đáp. Đây là trò chơi trí tuệ, cũng nằm trong loại câu đố của văn chương truyền khẩu nước ta. Loại đối đáp này đều phổ thông trong các dân ca ba miền. Các loại hát đối đáp có thể chia làm hai loại: đơn ca hay hợp ca. Có thể vừa đơn ca vừa hợp ca. Ngày nay, trong nhiều clip là hợp ca nhưng thực tế e không phải thế. Vì khi đối đáp, có những cá nhân đặt ra câu mới thì bên phe khác cũng phải tìm câu mới mà trả lời, cho nên không có hợp ca trong trường hợp này. Thường thì hợp ca lúc mới vào và lúc ra về
 
3/ Thể thơ trong Dân Ca

Nói chung các loại dân ca dùng các thể lục bát và các thể khác mà Ca Dao xử dụng . Các loại này là ca hát, là văn nghệ trong quần chúng hay trong các lễ hội cho nên đôi khi có nhạc, và có nam nữ hai phe đối đáp.
 
3/ Sử dụng một bài Dân Ca

Cùng một bài ca dao, người ta có thể dùng để hát dặm, hát trống quân, hát quan họ, hát xẫm thiên hóa vạn biến. ……

Xin liệt kê một bài Dân Ca
 
Nữ hò:
 
Khoan ơi khoan mời bạn khoan là hò lơ ơ ơ......
hờ hờ ơ ơ... hết Hạ, Thu sang mùa màng rộn rã, chừ ở đây tui mở lời chào tất cả con lại bà con hò ơ.......
Muốn thân nhau mượn câu hò tiếng hát, tâm sự đổi trao
Chừ xin mời thanh niên nữ với nam, hò ơ ơ ơ....
Thanh niên nam nữ ta mạnh dạn bước vào chơi là hò chơi hò ơ ơ ơ.....
Này hỡi anh ơi, chừ em hỏi anh nì
Trong trăm loại dầu có dầu chi là dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp có bắp chi là bắp không rang
Trong ngàn thứ than có than chi là than không quạt
Trong hàng thứ bạc có bạc chi là loại bạc không đổi tiêu mà không tiêu ?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng
Dải lụa điều (đào) trao là em trao.
hò ơ....
 
Nam hò:
 
Trong trăm loại dầu có nắng dãi mưa dầu là loại dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp có lắp bắp mồm lắp bắp miệng là bắp không rang
Trong ngàn thứ than có than thở thở than là than không quạt
Trong hàng loại bạc có bạc tình bạc nghĩa là bạc không đổi tiêu mà không tiêu
rai nam nhi anh đã đối đặng
thì dải lụa điều đâu có đâu lại có đâu
hò ơ.....
 
Nữ hò:
 
Chứ em hỏi anh nì
Chữ chi là chữ chôn xuống đất
Chữ chi là chữ cất lên cao
Chữ chi nặng mà không ai mang nỗi
Chữ chi mà gió thổi bay là không bay?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng
Miếng trầu cay hò ơ ơ ơ..... là cho chàng 
 
Nam hò:
 
Hai chữ tiền tài anh bỏ xuống đất
Hai chữ nhân nghĩa anh cất trên cao
Hai chữ nhớ thương muốn tha không nỗi
Chữ tình chữ nghĩa gió thổi bay cũng không bay
 
Trai nam nhi anh đà đối đặng
Gái xuân thời em tính răng?
hò lờ ơ ơ... là hò là khoan
 
III- Cứ Còn Dân Tộc Tính Việt

khantotien
 
Cứ nói tiếng Việt, cứ nghe cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca Việt: đấy chính là cửa sổ, mà giới trẻ và các em thấy được vẻ đẹp trong căn nhà văn hóa Việt. Vẻ đẹp đó chính là dân tộc tính quê hương. Dân tộc tính dần dần thấm nhuần vào trí óc các em để cuối cùng các em biết và nhớ nguồn gốc của mình: mình sinh ra bởi cha mẹ, cha mẹ sinh ra bởi ông bà, ông bà sinh ra bởi tổ tiên. Tổ tiên cao nhất chính là Nguyên Tổ của người Việt. Chúng ta người Việt đều là con cháu của Nguyên Tổ. Vì vậy mọi người Việt đều cùng máu mủ, được mang danh là đồng bào.
 
Dân tộc tính đó được thể hiện bằng: tâm hồn biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo với cha mẹ tổ tiên, yêu thương và đùm bọc anh chị em, tình nghĩa thắm thiết vợ chồng, và lòng tận trung với quê hương, tổ quốc.
 
Vì có dân tộc tính, mà người Việt có câu:
 
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
 
Vì có dân tộc tính, mà Cụ Đồ Chiểu, trong cuốn Lục Vân Tiên có câu:
 
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Vì có dân tộc tính, mà Hội Nghị Diên Hồng có câu.
 
Toàn dân nghe chăng
Sơn hà nguy biến
Hận thù đằng đằng
Biên thùy rung chuyển
Vì có dân tộc tính, mà tác giả bài Hịch Bình Ngô Đại Cáo có câu.
 
“Đem Đại nghĩa để thắng hung tàn.
Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo”

IV- Kết luận
 
Cứ Nói Tiếng Việt và Cứ Sử Dụng Văn Học Truyền Khẩu là hai điều kiện gắn bó keo sơn để phát sinh Dân Tộc Tính quê hương. Tổ tiên Việt xa xưa đã cương quyết nói Tiếng Việt và vận dụng Văn Học Truyền Khẩu mà giành được nền độc lập cho Giang Sơn Gấm Vóc, thoát được sự đồng hóa dân Hán. Chúng ta con cháu tổ tiên Lạc Long hãy Cứ Nói Tiếng Việt và Cứ Sử Dụng Văn Học Truyền Khẩu nghĩa là cố gắng dùng những truyện Cổ Tích để kể cho con cháu chúng ta ở Hải Ngoại, chúng ta cố gắng dùng những câu Tục Ngữ, Ca Dao và những bài Dân Ca để kích động các em thấm nhuần Dân Tộc Tính quê hương Việt.
 
Nếu các quí vị đồng hương Việt nào muốn tìm hiểu thêm về Văn Học Truyền Khẩu, để sử dụng vào sứ mệnh giúp ích cho giới trẻ và con em Việt, thì xin theo dõi website www. Vanhoaviet.info. Website này chẳng những phong phú về chất liệu văn học truyền khẩu mà còn phong phú các tài liệu về văn hóa Việt nói chung.
 
Phạm Xuân Khuyến