Còn Nho, Nho dạy chữ Nho chơi.
Nào ai muốn học thì Nho dạy,
Nho chẳng nài ai, chẳng ép ai.
(Phó Bảng Nguyễn Can Mộng Giáo sư Hán Tự và Việt Văn (1922-23) trường Bưởi – Hà Nội)
Dẫn Nhập:
1. Năm 1847, Hải Quân Trung Tá Rigault de Genouilly đem tàu chiến vào bắn phá cửa biển Đà Nẵng, và để rồi năm 1859, uy hiếp Gia Định … Trước sức mạnh đại bác của thực dân Pháp, sĩ phu Việt Nam không sờn lòng. Thế nhưng: “Hôm nay xin đánh, ngày mai xin đánh. Đánh mà không thắng thì đặt trẫm vào đâu?!. Thế là:
– Vua Tự Đức (1847-1883) và Triều Đình Huế phải ký Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 (12 khoản, mà khoản 2 quan trọng hơn cả là nhường đứt cho Pháp 3 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa và Định Tường). Rồi Hòa Ước Giáp Tuất 1874 với 22 khoản – đau đớn nhất là khoản 5: Nước Nam phải nhường đứt 6 tỉnh Nam Kỳ (Nam Kỳ Lục Tỉnh) cho người Pháp!.
– Và nhất là Hòa Ước Quý Mùi 1883 với 27 khoản – mà ngay khoản 1: “Nước Nam phải chịu nước Pháp bảo hộ”!
Đau đớn thay – phận An Nam,
Để cho Đại Pháp – nó làm thịt dân!.
2. Để cho nền bảo hộ được hoàn hảo:
– Với danh nghĩa “Văn minh hóa người Việt” (Mission Civilisatrice), và cũng là “đồng hóa dân bản xứ (cultural assimilation), người Pháp đem những tiến bộ khoa học kỹ thuật (STEM) phổ biến khắp Đại Nam. Vào thời điểm đó – quả thật – Paris là kinh đô ánh sáng.
– Cụ thể – ngay từ những năm cuối thế kỷ 19 – giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ (1862 – 1945) là giáo dục Mẫu Quốc. Vì là thuộc địa (Colonie d’Exploitation) nên khó khăn hơn và hạn chế nhiều (điển hình, tổ tiên chúng ta phải học lớp nhì = cours moyen – 2 năm!).
* Trong nỗ lực muốn cho dân bản xứ đọc, nghe, hiểu được tin tức từ chánh quyền thuộc địa, và mong muốn đào tạo gấp rút một số cán bộ sơ cấp để dễ dàng dùng người Việt trị người Việt, người Pháp đã mở một số trường Pháp Việt (ban đầu ở Nam Phần, rồi đầu thế kỷ 20 là Bắc và Trung Phần).
Ngay từ năm 1861, tại Nam Kỳ, Đại Pháp mở trường Collège d’Adran nhằm đào tạo người Việt làm thông ngôn và dạy cho người Pháp muốn học tiếng Việt. Hiệu trưởng đầu tiên (1861-66) là Linh Mục Croc, rồi Trương Vĩnh Ký (1866-68)..
* Năm 1887, Phủ Toàn Quyền Đông Pháp (gồm 5 xứ bảo hộ: Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Ai Lao và Cao Miên) được thành lập. Hệ thống giáo dục thay đổi tùy theo chánh sách của vị Toàn Quyền (Governeur Général) và tình thế. Dưới thời Toàn Quyền Paul Beau (1902-08) chủ yếu là phát triễn bậc tiểu học. Năm 1906, ông ký nghị định thành lập Nha Giám Đốc Học Chánh (Direction de l’Enseigment) và Hội Đồng Cải Thiện Giáo Dục Bản Xứ (Conseil de Perfectionement de l’Enseignment Indigène). Toàn Quyền Albert Sarraut (1911-14) và (1917-20) chú trọng nhiều đến phát triển hệ thống trung học và cao đẳng. Ông được trí thức Vạn Xuân đương thời gọi là Đại Nhân.
3. Giáo dục Việt Nam thời Pháp Thuộc là từ những năm cuối thế kỷ 19 đến ngày 9 tháng 3 năm 1945 (Nhật lật đổ Pháp và đại sứ Yokoyama “Xin dâng nền độc lập lên Hoàng Đế Bảo Đại và dân tộc Việt Nam”). Dân tộc Lạc Hồng xứng đáng cho “Độc Lập Xứ Sở”.
I. Trường Pháp Việt bậc Tiểu Học: học chữ Quốc Ngữ, học chữ Pháp và nói tiếng Tây:
Tiểu Học lại chia ra: Sơ Cấp (lớp năm tới lớp ba) và Tiểu Học (lớp nhì, lớp nhất):
1. Sau Sơ Cấp (lớp ba), học sinh thi bằng Tuyển Sanh (Sơ Học Yếu Lược, Primaire Élémentaire)
– Lớp năm (đồng ấu, cours enfantin), học trò phải thuộc vần Quốc Ngữ ngay trong tháng đầu tiên, học làm toán cộng, toán trừ.. và học cửu chương bằng chữ Hán (cửu cửu bát nhất 9, 9, 81; bát cửu thất nhị 8, 9, 72 …). Học trò còn phải học ngữ vựng (Vocabulaire) tiếng Pháp – học hàng ngày và số giờ là 20% thời lượng mỗi ngày).
– Lớp tư (dự bị, cours presparatoire): học chữ Pháp nhiều hơn (50%).
– Lớp ba (sơ đẳng, cours élémentaire): học tiếng Pháp nhiều hơn nữa (70%).
– Các trường ở phủ, huyện (district) chỉ dạy đến lớp ba. Đó là trường Sơ Học (école élémentaire). Cuối năm lớp ba, học trò thi bằng Sơ Học Yếu Lược (Tuyển Sanh). Bài thi gồm có:
* Thi viết: Một bài dictée (chánh tả) Pháp Ngữ, 2 hay 3 bài luận Pháp văn và một bài luận chữ Quốc Ngữ.
* Thi vấn đáp: hỏi về cửu chương (bằng chữ Hán – thất cửu lục tam 7, 9, 63).
Học sinh trường Tiểu Học
2. Sau lớp nhất, học sinh thi bằng Khóa Sanh (về sau đổi là Tiểu Học), còn gọi là Ri Me = Certificat d’Etudes Primaires Franco – Indigènes = CEPFI hay bằng Xéc.
– Lớp nhì (trung đẳng, cours moyen): Năm 1924, Toàn Quyền Martial Merlin (1923-26) chia là hai lớp nhì (cours moyen première année và cours moyen deuxième année) như để ngăn chặn bước tiến của thanh thiếu niên nước ta. Tiểu Học 6 năm!
– Lớp nhất (cao đẳng, cours supérieur):
* Các môn học của lớp nhì và lớp nhất được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Mỗi tuần lễ có 2 giờ học chữ Nho.
* Các trường ở tỉnh lỵ mới có lớp nhì, lớp nhất. Đó là trường tiểu học (école primaire). Sau năm 1924, còn được gọi là école de plein exercice – vì rất nhiều bài học, bài làm, thể dục (gymnastique mà huấn luyện viên là thầy Cai lính khố xanh – hàm chánh cửu phẩm – trong khi Chánh Tổng= le chef de canton chỉ là Tòng cửu phẩm), với bảng xếp hạng hàng tháng, và lục cá nguyệt. Học sinh phải mặc áo dài, con trai phải hớt tóc ngắn…
* Cuối năm lớp nhất, học trò phải thi bằng Khóa Sanh – đây là kỳ thi khó vì giám khảo là người Pháp.
* Thi viết: 1 bài chánh tả tiếng Pháp, 2 bài toán đố, 1 bài luận ( dissertation) Pháp và 1 bài luận Việt Ngữ.
* Thi vấn đáp: (oral): sử ký, địa lý.
Thang điểm là 10 (maximum). Tỉ lệ thi đỗ là 40%.
* Thí dụ một bài dictée thi bằng Xéc (CEPFI) tháng 6 năm 1924 tại Quảng Ngãi (dài hơn nửa trang giấy thi).
Les Norias de Quang Ngai
“Acun Spectacle de la province ne renseigne mieux sur l’esprit ingénieux du paysan d’AnNam, et se cause pareille surprise aux yeux curieux du voyager.
Accouplées par demi-douzaines, elles attaignent parfois, ces norias géantes, une hauteur de dix metres etc …”
Học sinh trường tỉnh
3. Cho tới những năm đầu thế kỷ 20, trường nhà nước bảo hộ còn ít học trò – dù nhà trường cung cấp đầy đủ học cụ (bút mực, giấy …) – ngay cả mũ trắng đội đầu cho nam sinh. Niên khóa 1909-10, trường ở tỉnh lỵ Quảng Ngãi (là một tỉnh trung bình) chỉ có 20 học sinh (lớp năm: 7 trò, lớp tư: 7 trò, lớp ba: 6, lớp nhì và lớp nhất không có học trò.) Năm học 1911-12, lớp năm có 10 trò (tuổi từ 8 đến 20). Thế nhưng sau thế chiến thứ I (1914-18) số học sinh tăng rất nhanh và niên khóa 1919-20, trường có đủ 5 lớp và mỗi lớp có khoảng 40 học trò. Cả trường có khoảng 200 học sinh tiểu học.
4. Với bằng Xéc hay Ri Me (Certificat d’Études Primaire) người học trò (nhiều người ở tuổi 24, 25) có thể xin là thầy trợ giáo, (dạy sơ cấp: lớp năm, bốn , ba), làm thông ngôn hay ký lục – với lương tháng 5 đồng (lính khố xanh: 2 đồng, bộ đồ Âu Phục: 2.5 đồng). Để khuyến khích việc học chữ Tây, nhiều công sứ Pháp (Le Résident) cho tổ chức lễ vinh quy bái tổ và rước thầy Khóa Sanh về làng – với cờ đuôi nheo, chiêng trống .. như đón ông Nghè ngày xưa.
5. Trình độ Pháp Ngữ (nói) của học trò lớp nhất khi chúc Tết thầy đầu năm học (trưởng lớp đọc):
Monsieur et Cher Mâitre
A l’occasion du Nouvel An qui va venir, nous, vos petits elèves respectueux et obéisssants, avons l’honneur de vous adresser, ainsi qu’à votre honorable famille, nos voeux les plus fervents de Bonheur, de Richesse et de Longévité.
Nous vous prions de vouloir bien pardnner notre language maladroit, Mais notre respect est grand a voter égard, notre gratitude est profonde, Dáns notre vie nous ne pourrons jamais oublier notre Mâitre bien aimé.
Vvos elève tres dévoués du Cour supérieur.
Tết 1921.
Một lớp học thời Pháp Thuộc
– Chữ Hán, phải học mất 8, 9 năm mới hiểu được chữ nghĩa của Khổng Mạnh. Trong khi tiếng Tây chỉ cần học từ 3 đến 5 năm (hết lớp ba với bằng Sơ Học Yếu Lược) là người học trò có thể làm việc tại các cơ quan hành chánh trong tỉnh như thơ ký, thầy lục lộ, kiểm lâm, nhà thương, kho bạc, dây thép … (tiếng Pháp “ba xí ba tú” lắm, còn nói ngọng vì lớn tuổi mới đi học). Làm gì mà thanh thiếu niên nước Nam chẳng “quẳng bút lông đi lấy viết chì” mà theo học trường nhà nước bảo hộ.
– Ấy thế mà chữ nho (Hán học) cũng còn thịnh hành. Cho dù phải trả tiền – phụ huynh vẫn gởi con em đến trường ông Khóa, Thầy Tú để sôi kinh nấu sử và ngâm nga:
Quân tại Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy.
Lớp học chữ Nho
6. Năm 1925, Trung Kỳ với dân số gần 7 triệu (cả nước Nam là 25 triệu dân) có số học sinh học trường nhà nước như sau:
1910: 1,595 trò.
1915: 2,442 trò.
1920: 30,349 trò.
1925: 41,062 trò.
1930: 62,558 trò , trong số nầy có khoảng 2,000 trò nữ và phân phối như sau:
470 cô ở trường Sư Phạm
494 cô ở trường Cao Đẳng Tiểu Học để thi Diplôme (Thành Chung)
1,445 cô học Tiểu Học.
– Có bằng Xéc mà còn ít tuổi (14,15) học trò thường được công sứ các tỉnh cấp học bổng mà học lên 3 hay 4 năm nữa để thi lấy bằng Thành Chung. Học bổng là 2 đồng mỗi tháng, tương đương với 2,000 đồng thời VNCH, vào thời điểm 1969 – lúc đó 1 tô phở hay 1 lít xăng là 10 đồng).
– Công sử phát học bổng thường theo đề nghị của Đốc Học (Hiệu Trưởng). Mà Đốc Học cũng như thầy giáo thì rất nghiêm khắc, “hay chữ dữ đòn” bằng những cái bạt tay nẩy lữa khi học sinh vi phạm kỷ luật hay bằng hình phạt cuối tuần: consignes hay pensum. Ngay thời VNCH, những năm đầu của thập niên 19(6) vẫn còn hình phạt đến trường cuối tuần:
“Bốn công xi, cô giáo già ác quá,
Còn bắt em chép phạt mấy trăm lần” (Nhất Tuấn).
– Dưới thời Pháp thuộc, giáo dục phát triển rất chậm chạp. Nam kỳ là thuộc địa của Pháp thế nhưng cuối thế kỷ thứ 19 cũng chỉ có 5,000 học trò Tiểu Học (dân số là 1.5 triệu).
II. Trường Cao Đẳng Tiểu Học (Écoles Primaires Superieures): Hoàn toàn dạy bằng tiếng Pháp:
1. Những trường Cao Đẳng Tiểu Học đầu tiên: chỉ là trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp mà thôi.
– Ba trường dành riêng cho học sinh người Pháp (gốc Gaulois) và con cái người Việt thân Pháp:
* Chasseloup Laubat (Saigon, 1874)
* Albert Sarraut (Hanoi, 1919-1965)
* Lycée Yersin (Dalat, 1935)
Lycée Albert Sarraut (Hanoi 1919)
– Ba trường dành cho nữ sinh:
* College des Jeunes Filles Indegènes (Saigon, 1915), sau nầy đổi tên là trường Gia Long.
* Trường Đồng Khánh (Hanoi).
* Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh Huế (Huế, 1917). Ban đầu các cô mặc áo dài màu tím (tượng trưng cho sự tinh khiết của phụ nữ).
– Những trường khác:
* Collège Le Myre de Vilers (Mỹ Tho, 1879).
* Collège de Cantho (Cần Thơ).
* Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký (Saigon, 1928)
* Trung học Bảo Hộ Bưởi (Hanoi, 1909), ban đầu là Collège du Protectorat, sau đổi là Lycée du Protectorat. Năm học 1915 -16 có gần 600 học trò cho 4 cấp.
* Collège Jules Ferry (Nam Định), chương trình 3 năm.
* Collège de Haiphong (Hải Phòng).
* Trường Quốc Học Huế (Huế), mở từ năm 1896 nhưng chỉ phát triển mạnh từ 1909.
* Collège de Vinh (Vinh, 1920).
* Collège de Quynhon (Quy Nhơn, 1921), niên khóa 1924-25 có 600 học trò. với 5 giáo sư Annam, tốt nghiệp từ trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, và 5 giáo sư người Pháp đậu Brevet Supérieur = Tú Tài Toàn Phần ở Pháp.
Lớp đệ Tứ niên (là lớp đệ tứ hay lớp 9) của trường Bưởi – Lycée du Protectorat Hà Nội 1918-19 Người có dấu X là Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ (Chủ Tịch Quốc Hội thời VNCH - năm 1964) Hàng ghế đầu là quý vị giáo sư người Pháp (Hình lấy từ hồi ký BS Nguyễn Xuân Chữ website www.newvietart.com)
2. Chương trình giảng dạy là 4 năm (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ niên) với nhiều môn học.
– Toán (Số Học, Đại Số, Hình Học)
– Vật Lý, Hóa Học
– Địa Dư (vẽ bản đồ 5 châu, 4 biển)
– Vẽ và Tập Viết.
– Lịch sử nước Pháp (Cách Mạng 1789, tự do, bình đẳng, bác ái, chánh sách thuộc địa… 2 giờ/tuần)
– Pháp Văn (Chánh tả, Văn phạm, Luận văn, bình giảng, học thuộc lòng thơ Pháp …).
– Luân Lý (moral).
– Sử Ký Việt Nam (dạy bằng tiếng Pháp – 1 giờ/tuần).
– Quốc Văn (2 giờ/tuần).
– Thể Dục.
– Thang điểm là 20, học một ngày 2 buổi (nghỉ buổi trưa).
– Thi Tam Cá Nguyệt và xếp thứ bậc trong học bạ với lời phê của Giáo sư.
Giờ học môn Địa Lý Giờ học môn Hoá Học
3. Sau lớp đệ tứ niên học sinh thi bằng Thành Chung hay Díp Lôm (Diplôme de Fin d’Études Primaires Supérieures Indochinois = DEPSI).
– Có đến 30% học trò bỏ học và đi làm sau đệ nhất, đệ nhị niên / Cao Đẳng Tiểu Học, phần vì hoàn cảnh gia đình, phần vì bài vở khó (Toán, Lý Hóa (đã chẳng dễ dàng)).
– Đậu được bằng Diplôme, học sinh theo học trường Cao Đẳng Đông Dương, làm thầy giáo (dạy lớp nhì, lớp nhất), hay đi làm thông ngôn chánh, thông phán hạng nhứt tòa Sứ. Lương mỗi tháng là 10 đồng.
– Sau 10 năm học hỏi (6+4), tiếng Pháp đã nói trôi chảy, nếu ở các tỉnh thì là thành phần trí thức nhất (đó là thời điểm 1920) với bằng Diplôme.
– Có theo đến cùng (đệ tứ niên) và cố gắng thi là có đỗ. Tỉ lệ là trên dưới 40%.
– Để được nhập học trường Cao Đẳng Tiểu Học, học trò phải qua kỳ thi tuyển concours rất khó ở đệ nhất niên (là thi tuyển vào đệ Thất sau nầy). Tỉ lệ trúng tuyển chỉ khoảng 2%.
4. Trước Đại Chiến Thứ Hai (1939-450 dân số Việt Nam có 35 triệu người. Với tổng số học trò ở bậc Cao Đẳng Tiểu Học (5,637) và Tiểu Học (386,525) chúng ta có kết quả sau (chỉ tính những học sinh thuộc hệ thống trường công của nhà nước bảo hộ):
* 5,637/35,000,000= 0.00016 lấy tròn là 0.0002. Tỉ lệ là 0.02%. (cao đẳng tiểu học).
* 386,525/35,000,000= 0.01104 lấy tròn là 0.011. Tỉ lệ là 1.1% (trình độ tiểu học).
* Cả hai tỉ lệ đều không thể chấp nhận được!. Sứ mạng “văn minh hóa thất bại”.
5. Bên cạnh những trường Cao Đẳng Tiểu Học thuộc chánh quyền bảo hộ, chúng ta còn có nhiều trường tư thục lớn (dạy thi Diplôme) do giáo hội Thiên Chúa và tư nhân như: Gia Long, Thăng Long, Văn Lang… (Hà Nội) Pellerin, Providence… (Huế), Phan bá Lân, Victor Hugo… (Saigon).
Một tư thục nổi tiếng là trường Văn Lang: dạy từ tiểu học – cao đẳng tiểu học – đến trung học đệ nhị cấp tại số 52 phố Lamblot Hanoi. Hiệu trưởng là một giáo sư lỗi lạc: Nguyễn Khắc Kham (1908-2007), Cử Nhân Văn Khoa – đại học Sorbonne và Cử Nhân Luật – đại học Luật Khoa Paris, 1934.
III. Trường Trung Học (1): học thi Tú Tài (Baccalauréat) là Brevet Supérieur ở Pháp, 3 năm.
1. Tú Tài Pháp hay Baccalauréat Métropolitain (gọi tắt là Bac Métro)
– Đó là 2 trường dạy hoàn toàn theo chương trình Pháp, thi bằng Tú Tài Pháp. Saigon với Lycéum Chasseloup Laubat, Hanoi là Lycée Albert Sarraut. Năm học 1935-36, có thêm Lycée Yersin Dalat. Xin lưu ý, đây là trường Trung Học Đệ II Cấp (Enseignement Secondaire)
– Dành riêng cho học sinh Pháp và một số con nhà giàu có người Việt, con cháu quý vị Thượng Thư, Tổng Đốc, Tuần Phủ … thuộc Nam Triều.
– Học xong hai năm (lớp second = đệ tam, lớp premire= đệ nhị) phải thi Tú Tài I (Baccalauréat Premiere Partie) Đỗ Tú Tài phần thứ nhất xong mới được học tiếp năm thứ ba nhưng phải chọn 1 trong 3 ban: Triết (Philosophie), Khoa Học Thực Nghiệm (Science Expérimentales) và Toán (Mathématiques Élémentaires). Học hết class terminal là thi Tú Tài II.
2. Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat Local):
– Đó là những trường Pháp Bổn Xứ (École France – Indigènes) dạy theo chương trình Pháp nhưng thay ngoại ngữ bằng việt Ngữ, và cổ điển La Hy bằng Triết Học Đông Phương (Trung Hoa, Ấn Độ), Cận Đông (Do Thái …). Xin được nhắc nhở: Francais et Seulement Francais.
– Ban đầu chỉ có 2 trường: Lycée de Bươi (Hanoi, sau nầy là trường Chu văn An) và Pétrus Ký (Saigon)
– Sau 2 năm, thi Tú Tài Bản Xứ phần I. Sau lớp đệ Nhất (classe terminal) thi Tú Tài Toàn Phần.
3. Do nhu cầu của nền hành chánh thuộc địa là cần những chuyên viên cao cấp – từ Tú Tài trở lên – từ năm học 1915-26, các trường cao đẳng tiểu học được phát triển rộng rãi với 3 lớp trung học (Enseignement Secondaire) – luyện thi Tú Tài trên toàn bán đảo Đông Dương. Đó là các trường: Quốc Học Huế, Hải Phòng, Quy Nhơn, Collège Le Myre de Vilers, Cantho…
Cũng như bậc Cao Đẳng Tiểu Học (thi Diplôme), học trò trung học, học từ 8 giờ sáng thứ hai đến 6 giờ chiều thứ bảy nhưng được nghỉ trưa. Học từ 28 đến 30 giờ mỗi tuần.
4. Với bằng Tú Tài Toàn Phần, người học trò có căn bản vững chắc, nói và viết tiếng Pháp rất giỏi (ngay cả Baccalauréat Local), có thể học lên Đại Học Đông Dương (đại học duy nhất cho cả 3 nước Việt, Miên, Lào) hay đi du học bên Pháp (đương nhiên được ghi danh), hay đi dạy học ở các trường Cao Đẳng Tiểu Học (ngạch trật và lương bổng ngang Đốc Học= Giáo Sư là quý vị có bằng Thành Chung và học 3 năm trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội), làm công chức ở Phủ Toàn Quyền, Tòa Thống Đốc Nam Kỳ, Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ, Tòa Khâm Sứ Trung Kỳ …
– Thế nhưng thi vào học ở những trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp- vẫn là lý tưởng – cho sinh viên nghèo ở nước ta (phi cao đẳng bất thành phu phụ). Trước năm 1925, trường Cao Đẳng tuyển sinh viên, chỉ là bằng Thành Chung. Bây giờ thì ứng viên phải có Tú Tài Tòan Phần. Đó là các trường cao đẳng chuyên nghiệp ở Hà Nội như: Sư Phạm, Công Chánh, Thú Y, Canh Nông, Mỹ Thuật… Sinh viên được huấn luyện ba năm, sau khi tốt nghiệp (là trình độ Cử Nhân= Licencié) trở thành những cán bộ nòng cốt (cao cấp) cho nền đô hộ Pháp tại Việt Nam.
5. Bên cạnh những trường Cao Đẳng Tiểu Học, và trường trung học (đệ nhị cấp), nhà nước bảo hộ còn mở trường Thông Ngôn và trường Hậu Bổ.
– Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) được thiết lập ở Sài gòn năm 1864 và Hà Nội năm 1905. Những năm 1915, đỗ Diplôme (Trung Học Đệ Nhất Cấp) là quý lắm!. Uyên bác như Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng chỉ có bằng Thành Chung (đệ Tứ). Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) , Phạm Duy Tốn (1883-1924) cũng ở trình độ đó. Cả ba vị đều tốt nghiệp trường Thông Ngôn rồi làm việc hành chánh cho Pháp. Đa số các nhà văn, nhà báo… có bằng Diplôme. Hiếm hoi lắm mới có người đậu Tú Tài. Ngay đến những năm 1925, tình trạng trí thức cũng không khá hơn. Cử nhân thì hiếm quá. Trường Thông Ngôn lúc đầu tuyển lựa sinh viên ở trình độ có bằng Xéc vì phải thông thạo 2 thứ tiếng Việt, Pháp. Thông ngôn là nhịp cầu nối giữa nhà nước bảo hộ và dân bổn xứ.
- Trường Hậu Bổ (2) (Écoles des Mandarins = École d’Administration) được thành lập ở Hà Nội năm 1903 và ở Huế năm 1911. Năm 1912, đổi tên là Trường Sĩ Hoạn, và năm 1917, bị giải thể mà thay thế vào là trường Pháp Chánh Đông Dương (École de Droit et d’Aministration) đào tạo công chức ngạch Tây.
* Là trường để quý vị cử nhân (thi Hương), trong khi chờ đợi lệnh bổ nhiệm được huấn luyện hành chánh và học tiếng Pháp. Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam Độc Lập (ngày 9/3/1945) Trần Trọng Kim là Giáo Sư của Trường Hậu Bổ
* Quý vị có Tú Tài (thi Hương) và ấm sinh (con quan) muốn học phải qua một kỳ thi khảo hạch.
6. Ở bậc Diplôme hay Tú Tài, giáo sư (rất ít cô giáo) rất nghiêm khắc và bài vở thật nhiều (như nhồi sọ để thanh thiếu niên Việt Nam không còn giây phút nào nghĩ đến cách mạng giải phóng quê hương). Chương trình Bac Local còn nặng hơn Bac Metro!. Thế nhưng, phần vì truyền thống Nho giáo, phần vì tủi nhục thân phận con dân nước bị trị, học trò An Nam vốn dĩ thông minh lại chăm chỉ, và lễ độ nên học giỏi lắm (điểm 18=90% là giỏi, 19=95% thì giỏi lắm, và 20=100% là giỏi quá – theo thang điểm 20). Đôi khi thầy khảo bài mà lỡ ấp úng bị quả trứng zero thì lấy làm xấu hổ lắm!. Hễ có dịp sang Pháp du học thì luôn luôn làm vẻ vang dòng giống Lạc Hồng. Điển hình là:
*Tiến Sĩ Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997). Ông đậu 2 bằng Tiến Sĩ (Luật và Văn Chương) tại Pháp năm 1932 lúc mới 23 tuổi!
* Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm (1908-1974): Agrégé de Grammaire năm 1935.
* Triết Gia Trần Đức Thảo (1917-1993): Agrégé de Philosophie năm 1943.
Lưỡng Khoa Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường lúc còn học ở Pháp
Hai vị Thạc Sĩ đều được học bổng học trường Cao Đẳng Sư Phạm Paris (École Normal Supérieure) nơi quy tụ những tinh hoa của nước Pháp (cũng như École Nationale des Pont et Chaussées). Quý vị tiền bối đã cho con cháu Văn Lang một gương sáng chói lọi:
“Đã không cầm bút thì thôi,
Học cho đài các cho đời (3) biết tay!”
Tiếc thay nhà nước bảo hộ đã không cấp phát những học bổng cho du sinh Việt Nam học những môn thực dụng, khoa học kỹ thuật (STEM) đó là những ngành “do more than talk”, ngõ hầu khi thành tài trở về Việt Nam phát minh và sáng chế những sản phẩm kỹ nghệ, đóng góp thực tế cho phát triển kinh tế quốc gia và cho tiến bộ của nhân loại. Tiếc lắm!

