Có một nghệ sĩ đã viết trong một tác phẩm văn xuôi của mình: “… Ca khúc là để ca ngợi tình yêu, ca ngợi tình người. Ca khúc là để than khóc, để trách móc. Ca khúc là để ước mơ, để đau đớn. Ca khúc là để chửi rủa, để van xin. Nếu đề cập đến một cái gì khác những điều đó, ca khúc không còn là ca khúc nữa, phải thế không? Vì thế khi chúng tôi hát lên: Có những điều muốn nói mà không nói được Vì gia đình tôi… Có những điều không muốn nói mà tôi vẫn nói Vì tôi hèn nhát… Vì thế trong đời tôi đã nhiều lần dối trá Vì thế trong đời tôi đã nhiều lần dối lòng… Tôi cảm nhận rất rõ ràng cái thân phận con rối của tôi, tôi thấy rất rõ cái thụ động của mỗi con người trong cuộc đời này, những trói buộc của hoàn cảnh xã hội của hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân… đã hướng dẫn hành động con người và tạo nên những tác động torng đời sống chúng ta.
… Tôi đã viết rất nhiều tình ca và tôi yêu tất cả những bài tình ca đã từng có trên trái đất này, nó như những dòng nước trong, nó chính là hy vọng của chúng ta trong cuộc sống. Nhưng tôi cũng biết rằng những rác rến sẽ làm bẩn dòng nước đó dễ dàng ra sao và những hy vọng của chúng ta, những ước mơ của chúng ta sẽ dễ dàng bị vẩn đục như thế nào. Một hy vọng bị vẩn đục đó là một thất vọng. Một ước mơ bị vẩn đục đó là một thực tại. Một tình yêu bị vẩn đục đó là sự thù ghét. Những điều đó không phải là hai mặt của một đồng tiền, không phải là cái đối nghịch nhau - Có cái này thì không có cái kia - vậy thôi. Trước đây, những bài tình ca của tôi được viết từ phía này, phía của dòng nước trong; giờ đây những bài tình ca của tôi được viết từ phía kia, phía của dòng nước đục. Nếu trước đây, tôi đã viết về hy vọng thì giờ đây là thất vọng, nếu trước đây tôi đã viết về những giấc mơ thì giờ đây là một thực tại, nếu trước đây tôi viết về tình yêu thì giờ đây là sự thù ghét. Có phải vì thế mà những bài ca của tôi đã trở thành xa lạ với khán giả của mình không?
Người nghệ sĩ ấy là Lê Uyên Phương, là mênh mang tâm sự trong lời ca ý nhạc. Và Không Có Mây trên Thành Phố Los Angeles là một tập gồm truyện ngắn và tùy bút bên cạnh các tuyển tập ca khúc nổi danh như Yêu Nhau Khi Còn Thơ, Khi Loài Thú Xa Nhau, Uyên Ương Trong Lồng, Bầu Trời Vẫn Còn Xanh, Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo, Biển Kẻ Phán Xét Cuối Cùng, Trại Tị Nạn và Các Thành Phố Lớn, Trái Tim Kẻ Lạ, Lục Diệp Tố.
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương mất ngày 29 tháng 6, năm 1999, đến ngày hôm nay, 29 tháng 6 năm 2018 là ngày giỗ thứ mười chín. Nhưng, nhạc của ông vẫn như là của ngày sinh nhật, vẫn được hát và được nghe với một sức sống tích cực đến lạ kỳ. Nhạc như lời tâm sự của những người sống trong một thời đại chiến tranh với những bản tình ca vút lên từ thân phận con người… Tự nhiên, khi nghe nhạc Lê Uyên Phương, tôi lại nhớ về Ðà Lạt. Thành phố ấy, những giấc mơ thanh xuân, những ước vọng tuổi trẻ. Tôi tưởng tượng như khi mình đang sống giữa thành phố sương mù. Con đường rào rạt tiếng thông reo của những bình minh vừa ửng hồng. Giữa cái trong veo của thiên nhiên, thấy lòng trải ra những kỷ niệm. Xuống con dốc, qua chợ Hòa Bình, đến thung lũng thấp hơn, khu Hồ Xuân Hương, bến xe. Leo lên con dốc nữa, Nhà thờ Con gà. Những cảnh gợi nhớ đến người, có lẽ hoài hoài trong trí nhớ…
Thành phố ấy, là nơi Lê Uyên Phương viết những bản nhạc đầu tiên Khi Loài Thú Xa Nhau. Lúc tuổi trẻ, nhạc có nét hoang sơ của những lũng vắng, của mùi mật cỏ, của vị da thịt người tình. Bằng âm nhạc, bằng ngôn ngữ, là những bước chân khám phá giây phút linh thiêng lạ lùng của bà Eva cắn miếng táo cấm đầu tiên. Nhiều người phê phán sự ví von này. Tại sao lại hạ thấp vị trí của con người như vậy. Nhưng phần đông, nhất là giới trẻ, lại ưa thích nồng nhiệt những bài hát mang cái tâm tư khắc khoải cùng những ước vọng, những đam mê rất thường, rất người. Những bài hát có một lúc đã thành một hiện tượng âm nhạc…
Trong bài viết Hát Trong Quán Cà Phê, Lê Uyên Phương đã viết về một thời thế mà anh đã viết thành ca khúc những nỗi niềm tâm sự của cả một thế hệ lớn lên và sống cùng chiến tranh.
“ … Bấy giờ là thời kỳ mà cuộc chiến đang vô cùng sôi sục quanh những ly cà phê đen, người ta nói nhiều về những bạn bè đangở trên các mặt trận, người ta nói nhiều về cuộc sống và cái chết, về cái phải và cái không phải trong cuộc chiến đang xảy ra, người ta nói nhiều về những sự việc trong một quân trường hay trong một trại nhập ngũ nào đó và đôi lúc cả những nhà văn được giải Nobel lúc bấy giờ, xen lẫn với những mẫu chuyện về một cô gái xinh đẹp nào trong thành phố. Sự lo lắng về một tương lai bất định của thời chiến quả đã là một ám ảnh lớn cho tất cả chúng tôi lúc bấy giờ. Những giọt cà phê nhiều khi đã không được uống vì cái vị đắng của nó mà vì cái vị đắng của cuộc chiến kéo dài tưởng như vô tận so với cuộc đời hết sức ngắn ngủi của chúng ta - một người bạn vừa hy sinh ở góc rừng nào đó, không những để lại cho người thân của anh ta những nỗi buồn phiền bất tận mà còn thêm vào trong cái khói thuốc của căn phòng bé nhỏ vuông vức của những quán cà phê một sự y ám lạnh lẽo không cùng. Chúng tôi đã nhiều lần ngồi thở dài để đưa tiễn một người bạn lên đường và trong những câu chuyện chúng tôi đã luôn luôn cố gắng để giải thích cho chính mình mọi sự dấn thân của chúng tôi lúc đó. H. Là một sinh viên ghiền ma túy. Một hôm trời đã khuya, chúng tôi đang lúc vui đùa ồn ào với nhau trong quán, H. bỗng ra dấu cho mọi người yên lặng anh cầm cái thẻ sinh viên của anh đưa lên cao cho chúng tôi nhìn thấy rõ rồi xé làm đôi, anh tuyên bố từ hôm nay anh chặt đứt mọi hệ lụy trong quá khứ của mình, ngày mai anh lên đường đi trình diện tình nguyện nhập ngũ - Chiến tranh đôi lúc đã giải quyết cho chúng tôi một cách hữu hiệu những vấn đề cá nhân như thế. Biết bao chuyện đã xảy ra trong quán cà phê, ở đó đôi lúc đã là nơi mà những khúc quanh của một đời người bỗng mở ra trước mắt…”
Nghe nhạc Lê Uyên Phương, những lúc buồn hay những khi vui, vẫn là một nhịp của trái tim hối hả. Tình yêu, khó mường tượng. Có lúc, là mượt mà da thịt của người nữ, gợi cảm, mời gọi. Nó gợi nhớ đến những giọt mồ hôi lóng lánh trên làn da mướt lông măng. Nhưng, cũng có lúc, là những cánh chim đơn lẻ chíu chít trên con phố sương mù, của bâng khuâng thoảng đến trong tâm thức. Khi yêu nhau, bóng với hình lẫn lộn, thực lẫn mộng chỉ có tấc gang và bất hạnh cùng hạnh phúc kề cận nhau trong niềm nhòa nhạt của cuộc sống . Nghe nhạc Lê Uyên Phương, trái tim trẻ hoài, trẻ mãi… Khi tuổi đã lớn, ngẫm nghĩ từ ca từ, lắng nghe từng nốt nhạc, vẫn tìm thấy nhiều điều kỳ thú, mới lạ. Nhịp đập trái tim có khác với suy tư của lý trí? Hay xúc cảm có nhiều ngã rẽ, nhiều bước ngoặt. Từ trước, có nhiều người tìm hiểu và định nghĩa tình yêu. Và, hình như, đều có chung những kết luận không đầy đủ. Một sự bất lực của lý trí để giải nghĩa cho cảm xúc của con tim.
Cách nay hơn bốn chục năm, năm 1973 ở Ðà Lạt, Lê Uyên Phương đã viết những lời nhạc trong “Cất Tiếng Hát Giữa Ðời”:
Trong tập nhạc thuở ấy, “Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo”, nhạc sĩ đặt nhiều câu hỏi. Tùy mỗi người, câu trả lời sẽ dễ dàng hay khó khăn theo từng cá nhân cảm nhận. Với mọi người, câu trả lời đi gần với lý lẽ tự nhiên, kiểu như “cuộc đời nó như thế, như vậy”. Nhưng, nếu ở người mà xúc cảm căng lên cao độ, như nhạc sĩ Lê Uyên Phương mà những nốt nhạc thăng hoa thành cao ngất cảm giác, thì khác. Bầu trời xanh, cơn mưa đầu mùa, những lời ngỏ của bài hát tình, những câu đối thoại vu vơ ngơ ngẩn, những chiều mưa một mình con dốc,… tất cả thành khuôn cửa mở ra một lãnh thổ của tưởng tượng. Ở đó, ngôn ngữ văn chương và cung bậc âm nhạc giao hòa, tưởng như ngàn xa vọng về. Hạt mưa, sợi nắng, chiếc lá, ngọn gió,… không đơn thuần là vật chất, mà còn là tượng hình của cảm giác nào xa xôi lắm nhưng lại thân gần. Như hạt mưa, không chỉ là thuần túy hạt nước rơi xuống từ trời cao, mà, nó gợi lại những nhịp điệu của âm vọng tiếng mưa trên mái tôn thuở thơ ấu nào. Hay giọt nắng, không phải chỉ là mầu vàng phai lóng lánh, mà còn gợi nhớ đến buổi sáng nào dìu em trên ngọn dốc, nghe mùi nhựa thông thoang thoảng giữa đất trời…
Lê Uyên Phương đã viết về ngày xưa, lúc anh vừa viết những bản tình ca cho tuổi trẻ muôn năm. Không phải là không khí của những phòng trà nồng nặc mùi khói thuốc của những trang sách hiện sinh vẽ ra. Mà, lúc ấy, còn có bóng dáng của chiến tranh, của những nỗi niềm tuổi trẻ. Viết về Ðà Lạt, nhạc sĩ như người trở về thánh địa xưa của mình, của hồi ức mang mang, của những phút giây chẳng thể nào quên được: “… không thể nào quên được những đêm thật tuyệt vời của Ðà Lạt vào những năm của thập niên 60. chúng tôi, như phần đông những người trẻ lúc đó, thường hay la cà khắp các quán cà phê ở Ðà Lạt, nhất là cà phê Tùng gần chợ Hòa Bình. Cái phòng vuông vức với những hàng ghế liền bọc plastic đỏ, những chiếc bàn thật thấp, trên tường có một bức tranh lớn vẽ một người chơi guitar theo lối nửa lập thể, nửa ấn tượng, và cái không gian đầy khói thuốc trộn lẫn với âm nhạc nhẹ phát ra từ chiếc loa không lớn lắm đặt trên cao, tất cả đã trở thành một thứ ma túy đối với chúng tôi…
… một bài hát mà lúc bấy giờ chúng tôi ai cũng ưa thích, bài “J’Entend Soufflet le Train”, tôi không nhớ ai đã hát bài hát đó, nhưng cái âm hưởng vừa gần gũi vừa xa vắng của bài hát – như một tiếng còi tàu - đã thể hiện đúng tâm trạng của chúng tôi lúc bấy giờ. Phải chăng trong sự thôi thúc của đời sống, trái tim ta đôi lúc cũng bắt gặp được cái nhịp đập bất thường rất kỳ diệu của cuộc đời và trong mỗi khối óc của chúng ta, một số những tế bào não bộ đã hiểu biết được đôi điều về cái đẹp vô cùng của sự não nề trong kiếp sống.
Trong cái bấp bênh của cuộc sống lúc bấy giờ và trong cái xao xuyến không cùng của trí óc, âm nhạc đã tự nhiên có sức quyến rũ đặc biệt đối với chúng tôi. Không có thời kỳ nào mà âm nhạc lại đóng vai trò tuyệt vời đến như thế, nó thâm nhập vào con tim chúng ta và biến mọi lo âu của cuộc đời thành một niềm hoan lạc mới:
… Những quán cà phê lúc bấy giờ đã thực sự trở thành cái nhà của chúng tôi, ngoài giờ đi làm, đi học ra, quán cà phê là nơi chúng tôi thường xuyên có mặt, bất kể ngày đêm, ở đó chúng tôi có thể tìm gặp những người hiểu được mình và có thể thổ lộ mọi điều riêng tư mà không ai phàn nàn gì cả.
Hồi đó, nhiều người bạn của tôi đã dùng quán cà phê làm nơi viết lách của họ, anh Lê Trung Trang đọc cho chúng tôi nghe những mẩu truyện dài, truyện ngắn của anh trong cái không gian đầy khói thuốc đó, nhiều bài thơ của HKP, của LK, của PV cũng đã được viết nơi đây, và chính tôi, tôi đã dựng lên Lục Huyền Cầm cũng vì cái mục tiêu để viết lách đó. Mỗi buổi sáng khi sương mù vẫn còn dày đặc trong các lùm cây và làm mờ các cửa kính trong quán, mẹ tôi thường thức dậy từ rất sớm cụ luôn luôn pha sẵn cho tôi một bình nước trà thật đậm; ở một góc quán nhìn ra trước sân, những khóm tường vi bám đầy hàng rào, tỏa mùi hương ngào ngạt, tôi bắt đầu soạn những tập bản thảo của tôi và để hàng giờ trôi qua trong cái không gian yên lặng đó. Đến gần trưa, thường có một người bạn ghé lại quán và chúng tôi cứ thế để cho thời gian trôi qua với những mẫ chuyện không đâu. Đó là không khí của những quán cà phê Đà Lạt và đó là những gì mà cuộc sống đã tiếp đãi chúng ta như những người khách quí và đã tặng cho chúng ta cái tặng vật vô giá của nó sau khi đã thử thách chúng ta bằng những dằn vặt khôn nguôi…”
Bây giờ, tôi đang nằm nghe nhạc Lê Uyên Phương. Một người bạn, rất yêu nhạc của anh đã thu tất cả những bản nhạc anh thành một bộ tặng tôi. Trong căn nhà vắng lặng, qua cửa kính nhìn thấy trời và biển, dõi những con chim chao lượn,thấy nhạc và lời như có ý vị hơn. Con tim như có khi xao xuyến. Một thưở nào, như sống lại, thoảng khi…
Tự nhiên, nhớ lại lúc còn trẻ, lúc mà các quán cà phê hầu như ở toàn miền Nam đều mở nhạc Lê Uyên Phương. Những năm của thập niên 70.Những tối mưa dầm ở Pleiku, tôi đã nghe “Khi Loài Thú Xa Nhau”, đã nghe “Yêu Nhau Khi Còn Thơ”. Mưa sùi sụt nỉ non làm ẩm ướt cả ngày cái phố núi lạnh căm. Cả bọn ghé vào quán cà phê. Thật kỳ lạ, dường như nhạc của Phương phải để cho Lê Uyên hát. Giọng hát hơi khàn có pha ma túy của mê đắm tình yêu, khiến sự giao cảm thành giác quan rung động. Những nốt láy, những dấu nhấn, những lên cao và xuống thấp thành òa vỡ cảm nhận đến độ rợn người lúc ấy. Bên ngoài trời mưa, gió ào ào qua khuôn cửa, ngồi chung với mấy đứa bạn, thấy cuộc sống như có chút gì tạm bợ, chút gì bâng khuâng. Ngày mai, có đứa ở trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng phải trở về đơn vị vào trong tôi ngủ nhờ. Nó vừa cười vừa hỏi “Ðêm nay có mục gì không? hay là gọi một em cho vui…”. Câu thơ Nguyễn Bắc Sơn lại trở về với tôi trong trí nhớ. Lúc ấy, thời buổi chiến tranh, nào biết được đứa nào còn đứa nào mất. Chuyện hiện tại, chỉ biết được đến ngày hôm nay. Ðời sống ngắn ngủi nên tình yêu cũng vội vàng. Nghe nhạc Lê Uyên Phương như nghe một thông điệp nào mà mọi người đồng vọng. Cất tiếng hát, dù chỉ trong một sát na, mà, sao vang vọng vô tận muôn năm. Bài “Cất Tiếng Hát Giữa Đời”:
“Ngày em thắp sao trời
Ðến lúc nhắm mắt lìa đời, dường như anh vẫn còn mải mê với nhiều cơn mộng. Dù một thời kỳ đã qua, một đời người đã xong, nhưng vẫn còn đó những bài hát, còn đó những phím đàn. Vẫn còn những ca khúc cất lên trong sôi nổi hào hứng của tuổi trẻ. Như khi tóc còn mướt xanh và mắt còn biếc thắm.
Anh Lộc, bây giờ chắc anh gần gũi lắm với suối nhạc của Bach, của Strauss, của Schuberg, của Beethoven,… Có khi nào anh trở về, ngồi lại và ghé thăm ngọn đồi thấp gần trường Tiểu Học thị xã “trước mặt là con đường dốc dẫn xuống Hồ Xuân Hương, dọc hai bên đường những cây mai hồng đang nở rộ, trông như những khóm bông gòn màu hồng nhạt lúc nào cũng tưởng chừng như sắp rời ra từng mảnh nhỏ dưới cơn gió chiều hiu hiu của Ðà Lạt…?
Nguyễn Mạnh Trinh