User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
Thời Khởi Thủy
 
nslethuong
Nhạc sĩ Lê Thương
 
Trong mọi dân tộc, âm nhạc đã cũng phát khởi với quan niệm tôn giáo sơ khai là tin chuyện quỷ thần, do sự khiếp đảm của con người trước những hiện tượng của vũ trụ, và của ngũ hành linh động theo một nhịp tiết không cùng.
 
Dần dần những, người tri thức, nghĩ ngợi sâu xa tới cho âm nhạc là do một lý chí linh, chí diệu chủ tế mà sinh ra.
 
Người Trung quốc cho âm nhạc lấy nguyên lý ở luật Âm Dương, cũng như muôn vật đã lấy nguyên nhân trong sự sinh hóa trong vũ trụ.
 
Nhất là Khổng Tử, một bậc thượng trí đã có công định chế âm nhạc thành một hình thức lễ giáo và một phương châm chính trị. Ông đã phát  minh ra một học thuyết cao siêu chủ lấy thiên lý làm căn bản. Theo chủ nghĩa "Thiên địa vạn vật nhất thể" của ông thi âm nhạc cũng theo thống hệ của vũ trụ, nghĩa là lý nhất thể vẫn lưu hành mãi mãi, lẽ tương đối, tương điều hòa mà sinh sinh hóa hóa.
 
Theo ý tưởng người xưa thì lúc đầu vũ trụ chỉ là Hỗn mang, nghĩa là một khối mờ mịt hỗn độn.
 
Trong hỗn mang ấy có sẵn cái lý vô hình, mà linh điệu cường kiên là Thái cực.
 
Song đối với Thái cực huyền bí đơn nhất, tuyệt đối không sinh hóa được, mà ta cũng không thể xét sự biến hóa của vạn vật, mà biết được cái động thể của lý ấy.
 
Mà động thể chính của nó là Sinh hóa do sự phối hợp. Muốn sinh hóa phải có Đối, có tương đối có điều hòa. Vậy động thể của Thái cực phải phát hiện ra bởi hai cái thể khác nhau là Động và Tĩnh.
 
Động là Dương, Tĩnh là Âm (Vậy thái cực biến hóa thành ra Âm và Dương)
 
Dương lên đến cực độ lại biến ra Âm, và Âm lên đến cực độ lại biến ra Dương; Hai thể ấy cứ theo lẫn nhau, rồi tương đối tương hòa, biến hóa mà sinh ra trời đất, vn vật và âm nhạc qua các khí chất, đã thành hình là Ngũ hành: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là những biểu thị của sự sinh hóa Âm Dương.
 
Ngũ hành tương sinh, tương khắc chuyền động mãi mãi không cùng theo một nhịp tiết (Rythme) nhất định riêng.
 
Nhip tiết nhất định ấy chằng qua là một yếu tố của âm nhạc. - Vì bản chất của âm nhạc là nhịp tiết và âm thanh hòa hợp nhu theo một luật định thiên nhiên của vũ trụ.
 
Âm Nhạc Sơ Khởi
 
Vào thời sơ khởi, âm nhạc chỉ là một biểu thị thô sơ của tình cảm còn thô sơ. Con người thời Thái cổ nhin vũ trụ bao la bí hiểm, nhìn ngũ hành chuyển động mà lo sợ. Bị đè ép dưới sự kinh khủng trước những hiện tượng đó, con người Thái Cổ chỉ mong tránh cho mình những tai nạn mà sinh ra ý thức mong muốn các mãnh lực ấy điều hòa với cảnh yếu ớt đơn lẻ của mình.
 
Do tinh thần muốn điều hòa, muốn dung hợp mà sinh ra những cử chỉ khẩn cầu và nguyện tụng. Đó là tín ngưỡng phát khởi.
 
Từ tín ngưỡng đến sự phát biểu tính tình, con người lại có ngũ quan nhất là thị giác (Mắt) và thính giác (Tai) để tiếp xúc với tạo vật mà có sự chắt lọc các tình cảm mình, đ tìm một hình thức khả ái xứng đáng với hiện tượng oai linh mình sợ mà nguyện tụng.
 
Những hình thức được nhận thấy ở tạo vật là tiếng chim hót, tiếng sấm động, tiếng lá reo, tiếng mưa rơi, tiếng nước chảy v.v... (Riêng Đông Á, xứ gió Nồm lại giàu về hình thức ấy hơn đâu hết nên có nhạc trước người ta là phải).
 
Rạo rực trước những cảnh trạng của ngoại vật, lòng người vừa sẵn có một cuốn u linh rất biến hóa là tâm hồn, vừa nhận những ảnh hưởng thanh sắc bên ngoài mà sinh ra nhạc cảm.
 
Đến Đây Mới Có Thêm Sự Can Thiệp Của Ngôn Ngữ
 
Ngôn ngữ là âm thanh do miệng lưỡi phát ra để biểu lộ tư tưởng.
 
Mà đã là âm thanh, thì ngôn ngữ đã có một nhạc điệu riêng (riêng về ngôn ngữ Á Đông thì tiếng ta lại được kêu là một ngôn ngữ âm nhạc từ lâu).
 
Ta rất có thể căn cứ vào Âm giai gốc của Đông nhạc là Ngũ Âm (Cung, thương, giốc, trủy, vũ) mà luận rằng các thanh âm của tiếng Việt Nam và Trung Quốc là những chữ không dấu hay có 5 đấu: Nặng, Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã chẳng qua là ngũ âm mà người xưa đã tìm ra trong vũ trụ là đã chế định vào ngôn ngữ, nên nó mới có nhạc điệu như ta thường nói.
 
Xếp đặt lại ngũ âm, đối với 5 dấu của ngôn ngữ ta có thể thấy một hệ thống âm thề (Tonalité) như sau:
 
lethuong xetquanguyenlyamnhac mh
 
Căn cứ vào ngũ âm nguyên thủy này do Linh Luân tìm ra vào thế kỷ thứ 27 trước Tây lịch kỷ nguyên, từ trước đời Nghiêu Thuấn, thì Đông Nhạc đã có một âm giai (Gamme) đặt theo thứ tự thượng hành như sau:
 
lethuong xetquanguyenlyamnhac mh2
Đó là những phần tử sơ yếu lập ra âm nhạc như chữ A, B, C, ghép lại thành tiếng trong câu văn vậy.
 
Từ đó về sau đồng thời với ngôn ngữ, âm nhạc cứ theo lịch trình tiến triển của xã hội và văn minh mà đi đến sự toàn thiện của ngày nay.
 
Ngôn ngữ thiên về rõ rệt và như có vẻ thô thiển đối với âm nhạc chỉ có một giá trị ước hiệu (Valeur de Convention). Nó không thể biểu thị những cảm động tế nhị, tinh xảo và bay biến của tâm hồn bằng âm nhạc,
 
Vì lẽ này mà ngôn ngữ vẫn chịu thua âm nhạc về việc giao cảm nhanh chóng giữa các dân tộc khác giống khác nòi khác ngôn ngữ,
 
Vì đó mà người ta thường nói: Âm nhạc là một ngôn ngữ quốc tế.
 
*
Đặt xây một căn bản âm điệu chung cho âm nhạc và ngôn ngữ ta lại thấy suốt bao nghìn năm lịch sử của nhân loại, nhất là của Á Đông, âm nhạc đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ và đã gây cả một nền lễ giáo trân trọng.
 
Và ngược lại ngôn ngữ đã ảnh hưởng âm nhạc bằng cách chế định cung điệu bằng ngữ tự đi từ Tiết gồm 4 chữ "Ca dao, phong dao, thành ngữ v.v... câu 6 chữ trong thể lục bát" đến nhịp gồm 2 tiết theo nhau (8 chữ trong ca dao, hoặc câu 8 trong lục bát hoặc nhiều hơn trong các biến thể khác).
 
a)- Phần âm nhạc ảnh hưởng đến ngôn ngữ: Ta thấy mạnh nhất trong định luật về thể thơ (văn vần) vì nó phải theo âm luật bằng trắc và phải có nhịp tiết là số chữ số câu và có vần, nghĩa là nó dựng toàn vẹn 2 yếu tố của âm nhạc, Âm Thanh, Nhịp Tiết.
 
b)- Phần ngôn ngữ ảnh hưởng lại âm nhạc: Ta thấy mạnh nhất trong sự tiến triển các cung điệu do thơ cổ tử Nhạc Phủ, Từ khúc của Trung Quốc đến các loại hát xướng của Việt Nam thường căn cứ vào ca dao, phong dao v. v... đến thơ lục bát mà thêm những Tản thanh, Hiệp âm, những tiếng ngâm nga trầm bổng, những thể cách lắp đi lắp lại mà kết thành cung hát khác.
 
Đến những thời văn minh đã khá giả, sự sáng chế và cải hóa nhạc cụ lại gợi thêm những sáng kiến cho người có nhạc tưởng,
 
Rồi ta mới lại thấy âm nhạc lập được một căn bản riêng là Nhạc tấu do nhạc cụ diễn tả không còn cần đến ngôn ngữ.
 
Tinh xảo hơn ca xướng, nhạc tấu lần lần vạch lên cho mình một luật lệ thuần chất âm thanh mà cứ tiến triển về một giới trừu tượng mà vẫn hiện hình là âm sắc hòa hiệp là đối vị điểm (Contrepoint). Hòa âm học (Harmonie) trong đó Hòa ca (Chant cloral) đã khởi cuộc và sự năng-tiện của nhạc cụ mỗi ngày một cải thiện bù đắp thêm.
 
*
 
Thoáng Nhìn Cảnh Sôi Nổi Tuyệt Vời Của Nhạc Cảm Âu Mỹ, Một Thế Giới Siêu Hình Đang Muốn Quay Về Đơn Chuyên Của Lòng Dạ
 
sangtaobiaSáng Tạo số 1(Tháng 10 - 1956)
 
Phải chăng cái lý nhất thể đó của Á Đông vẫn lưu hành từ thượng cổ trong nhạc sử Đông Tây làm cho lẽ tương đối tương điều hòa vẫn ngự chế nhạc nghệ trong việc sinh sinh hóa hóa.
 
Nhạc Phương Tây từ gốc Hi Lạp, La Mã sang Tây Âu đã sống hơn ba nghìn năm trong đơn âm thể (Genre monodique). Đó là đời sống nông tang trong xã hội phong kiến làm cho lòng người đơn lẻ càng thấy mình cô đơn yếu ớt.
 
Ca dao nước ta phát huy trong đời sống nông tang lập trên khoảng đất hẹp hòi và bùn bụi cũng là đơn lẻ tuy có dồi dào về từ ngữ và ý tưởng nhưng khá nghèo về cung điệu (Airs, Melodies).
 
Khoảng từ thế kỷ 12 bên trời Âu, khi kinh tế các nước bên đó phát triển, đời sống xã hội có thể đến lúc xa hoa, biên thùy đã đến giờ chật hẹp mà cách phát minh như súng ống, nghề in, địa bàn, tờ giấy đã gây một thời phục hưng cho văn chương, các đế đô đã nuôi nổi nghệ sĩ thì lắm nhà nông chán cảnh bất an ở thôn dã cũng trở thành thị dân ham học hỏi mà sáng tác, mà biên chế, đem âm nhc lần ần vào đa âm thể (Genre Polyphonique) rồi vài thế kỷ sau mới phát triển và định luật lại cho thành hòa âm pháp (Harmonie).
 
Đó là đời sống mỗi quốc gia hết cô lập như đời sống mỗi cá nhân đã cần phải đoàn kết để chống trả đoàn thể khác, quốc gia khác do những tay lãnh đạo là vương chế muốn thống nhất các sơn hà để lập những cơ đồ trang trọng.
 
Nhưng qua một thời Tĩnh để chuyển sang Động, nhạc Âu đã biến từ Âm sang Dương sinh sinh hóa hóa theo lẽ tương quan, tương đối cứ lưu hành trong nhạc nghệ như trong lịch sử.
 
Ngay sau các thời biến chuyện này, âm nhạc đã đồng ý với văn chương mà muốn thoát ly ảnh hưởng của tôn giáo đ xông vào cảnh trời rộng là thế tục để tới một huy hoàng sau chót vào thế kỷ 18. Thời đi thịnh của nhạc hợp tấu (Musique polychonique) trong đó vang động các danh thơm nhạc nghệ hoàn cầu Haendel, J. S. Bach, Haydn, Mozart và Beethoven - các vương tôn của nhạc giới cổ kim.
 
Cái lẽ tương đối và điều hòa như chế ngự cuộc tiến triển vĩ đại ấy. Sự phồn thịnh của nhạc nghệ Âu Châu đi đôi với cảnh kiêu kỳ trong xã hội đã lên đến cực độ nên nó như thế Dương đến cực độ liền biến ra Âm mà mòn mỏi lần ngay sau Beethoven cho đến chỗ phức tạp và bế tắc của hiện thời (1945-56) đang băn khoăn trong Vô âm thể (Atonalité) hay Đa nguyên thể (Polytonalité) rồi Chuyển âm thể (Transtonalité) đề không chừng quay về cội rễ muôn đời của âm nhạc là Giai điệu (Melodie) nghĩa là tiếng lòng muôn thuở có âm dương hòa hợp mà sinh hóa không ngừng trong một vũ trụ cỏn con (Microcosme) nhà vĩ đại là nhân tâm, nhân quần, nhân vị.
 
Phải chăng nền nhạc hoàn cầu khám phá cảnh mênh mông của thanh âm, khai thác xong các biến chế muôn vàn về âm thể âm sắc lại bắt đầu lo sợ mình rớt vào cái nhịp tiết hao mòn của thể Động mà muốn quay về phút nghỉ ngơi trong thể Tĩnh để được hồi tưởng, được nhớ nhung, được làm con người sống xa máy móc, được làm bạn bè thông qua tình thân thiện.
 
Đó là lối đường về dân ca, một nguồn sinh lực dồi dào mà biến chuyển đã bắt đầu bên Âu từ hơn trăm năm nay và tiệm tiến trong nhạc cảm Việt Nam từ 10 năm vừa qua.
 
*
Thoáng Nhìn Cảnh Tĩnh Mịch Của Nhạc Sử Việt Nam Một Cõi Lòng Chưa Từng Mãn Nguyện
 
Nước Việt từ thế kỷ 11, chưa phong phú chi nhiều về cung điệu (Tôi muốn nói phần âm thanh trong ca khúc) mới tim đường sống về phía Nam (Cuộc Nam tiến bắt đầu với Lý Thái Tôn đánh Chiêm Thành năm 1044) đã thấy cần phải hấp thụ luồng nhạc Chàm để nuôi tâm hồn khi thiếu thốn. Soạn được Chiêm Thành điệu, không biết Lý Cao Tôn (1202) có biết việc Việt Nam hóa ấy là một miễn cưỡng không? Cả đến số phận một chàng Lý Nguyên Cát (1285) bị quân ta bắt được đã trở thành thầy dạy ta nghề Hát Bộ thi cũng là một mỉa mai cho lịch sử một dân tộc ham sống mà chưa từng được thỏa mãn về tâm hồn và thể xác.
 
Nghĩ lại mà lắm lúc đâm ra tủi phận con Rồng cháu Tiên trong nhạc nghệ. Lịch sử nín thinh như hũ nút về âm nhạc, đến đời Đường (618-907) mới nghe nói truyền sang nước ta hai điệu hát đưa ma, và hát tuồng. Nhà Tống gởi một đạo sĩ dy ta trò Phấn hỉ (968–980).
 
Dưới Lê Đại Hành thế kỷ 10 có hát mời rượu rồi ta Việt Nam hóa ngay cung điệu xứ Hời. Phải đợi đến nhà Trần, với thời văn chương phồn thịnh ta mới có chèo, vẫn ca song ngâm và hát ả đảo (Đào thị dưới Trần Thái Tôn, sau khi biết hát bộ (XIII) ta thấy biết hát vãn tự, hát dậm, (XIV) thì dân tộc mới tiến đến Thừa Thiên (bên này Bến Hải hiện giờ)- Sau cuộc giải phóng cuối cùng của Lê Lợi ta mới được mở mày mở mặt ít nhiều trong đời Hồng Đức (1470) với cuộc tổ chức nhạc nghệ hẳn hòi (Hai bộ đồng văn và nhã nhạc) và đời Quảng Hưng (1578) rồi ta lại bận việc Nam Bắc phân tranh nhấn chìm các hảo ý.
 
Nếu nhà Nguyễn có trao đổi nghề hát bộ tại Bình Định hay nhà Tây Sơn thích khao bình trong tiếng trống quân thì phần văn chương có mạnh tiến nhưng phần cung điệu vẫn chưa giàu cho hậu sinh chúng ta cứu xét.
 
Chậm trễ đến năm nay 1956 mà con nhà nhạc Việt Nam muốn quay đầu về nguyên bản và muốn hiểu thấu cõi trời âm thanh của tổ tiên cũng chưa có phần nhạc điệu xứng đáng với chí tìm hiểu ngoài một số cung Bắc, cung Nam, cung hát nồi niêu lối 36 giọng, hay vài thứ , thứ giao duyên hoặc các điệu hát cải lương nghe lắm cũng phải chán.
 
Tinh thần quốc gia trong ta vẫn dy ta tin ở cỗi nguồn, và ca tụng cỗi nguồn ấy nhưng xác nhận âm nhạc bằng mớ âm thanh đích đáng để mà học thì quả thật ta cũng chỉ thấy ta, còn người thế kỷ thứ 20, sửng sốt trước khoa học tuyệt vời của xứ người, tự kỷ ám thị khá nhiều về giá trị nhc nghệ cổ truyền nhà cho nó là thần tiên, là tuyệt tác nhưng vẫn âm thầm từ bỏ nó như mụ vợ già đang kém sắc.
 
Phải chăng nền nhạc Việt không còn lưu luyến thể Tĩnh của ngàn năm mà chuyển sang Động trong nền Tân nhạc để bước tới một độ đường xa, một chân trời khoáng rộng?
 
Từ 20 năm nay tình trạng xã hội và chính trị đã nêu vài cái "mấu" biến chuyển của nhạc cảm; thời mơ mộng (36-40) thời thanh niên lịch sử (1940-45) thời cách mạng (1945-1930) thời ổn định (1950-1956) v... v,.. là những danh hiệu “miễn cưỡng để dễ dàng phân loại hoặc phân tách xu hướng.
 
Kỳ thực nhạc cảm không lúc nào hết được mơ mộng, mà lòng nguời nói gì bằng âm thanh cũng không thể nào gọi thẳng được là cách mạng. Vì chung quy chỉ là những tình cảm hỉ, nộ, ái, ố, ... của thế gian từ muôn thuở phát huy bằng thanh âm kiểu này kiu nọ, mạnh hơn yếu hơn, nhiều hơn ít hơn chứ làm gì có việc lật đổ dễ dàng một hệ thống âm thanh tế nhị như lật đổ một chế độ chánh trị.
 
Nhạc cảm Việt Nam đang phải chịu cảnh phân tán của sơn hà mà chia ra Bắc Nam đôi ngả. Nó đang bị cuộc khủng hoảng tinh thần lớn lao trong hai ngả; đó là thể Tĩnh đang chuyển mạnh sang thể Động để mong sinh hóa lẫn nhau, nuốt sống lẫn nhau. Đó là mưu mô của trí não còn lụy máy móc của chủ nghĩa.
 
Nhạc cảm nào sẽ sống mãi trên sự hao mòn khô héo của phía khác? Lịch sử vẫn chứng minh là: Sự căm hờn, ganh ghét là những tình cảm tiêu cực (Negatifs) chỉ giá trị nhất thời và không xây dựng lâu đời.
 
Chỉ có những tình cảm tích cực như thương mến, tin tưởng, hy vọng, mới đáng gọi là lành mạnh xây dựng, vì nó là nguồn hứng sống cho toàn nhân loại từ thời khởi thủy cho đến ngày nay.
 
Lòng người vẫn là kho tàng phong phú của nhân loại vẫn phát biểu trong nền dân ca các nước.
Sự tiêu diệt lòng người không bao giờ có được, vì như thế trần gian sẽ không còn đáng sống, thi văn không còn lý lẽ biến hóa muôn màu, vì thiếu những phần cá tính sinh ra nó và người Việt Nam từ nông dân đang học lái chiếc máy cày để sản xuất kịp mùa, đến đám thị dân đang hướng về quốc sự, chúng ta đều có bổn phận chuyển hướng âm nhạc về lối đường mới mẻ và sâu rộng nhất là đem Nhạc Việt lên thành tiếng nói đ thông cảm với hợp quần Quốc Tế trong đó đặc tính Việt Nam giữ được vẻ độc sáng riêng tư của dân tộc.
 
Tôi nghĩ đó là cách cởi mở cho nhạc được chút nào thỏa mãn cái khát vọng theo thời từ trong thể thức (Forme) đến nội dung (Fond) mà thành một ngôn ngữ quốc tế trong cách giữ được màu sắc quốc gia.
Lê Thương
(Nguồn: Tạp chí Sáng Tạo số 1, Tháng 10.1956)
 
Nguồn: http://www.hocxa.com/Nhac/LeThuong_XetQuaNguyenLyAmNhacQuaCanBanNgonNgu.php