
I. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh năm 1892 tại tỉnh Long An và mất năm 1976 tại Bạc Liêu. Thuở nhỏ, ông học chữ Nho. Hết lớp Nhì (tức lớp Bốn ngày nay), ông quy y tại chùa Vĩnh Phước, Bạc Liêu. Sau khi rời cửa Phật, ông học Nhạc Lễ, và là một trong những môn đệ giỏi của nhạc sư Lê Tài Khị. Ông sử dụng rành rẽ đàn tranh, cò, kìm và trống lễ.
Nhắc đến Cao Văn Lầu, là người ta nhắc đến bản vọng cổ bất hủ Dạ Cổ Hoài Lang.
******
II. Hoàn Cảnh Ra Đời Của Bản Dạ Cổ Hoài Lang
Lý do ra đời bản vọng cổ Dạ Cổ Hoài Lang, được nhiều người truyền miệng và kể lại, nhưng đại loại như sau: Cao Văn Lầu viết bài này, xuất phát từ tình thương sâu đậm mà ông dành cho vợ.
Lúc viết bản nhạc, ông đã ăn ở cùng vợ ba năm rồi mà vẫn chưa có con. Năm ấy là năm 1920, ông tròn hai mươi tám tuổi. Người xưa phong kiến, chớ không như bây giờ, họ hay đàm tiếu, chê trách những phụ nữ không sinh được con, mà không cần biết, lý do tại sao, nguyên nhân từ đâu khiến vợ chồng hiếm muộn.
Gia đình ông Lầu, buộc ông thôi vợ, để còn lấy vợ khác, sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, nhưng ông không đành. Ông không bỏ vợ, chỉ âm thầm gởi vợ đến một gia đình tử tế, hiểu chuyện, và có tấm lòng nhân hậu, sẵn sàng cưu mang vợ ông khi ấy.
Vợ chồng bắt đầu xa cách. Sáu Lầu thường mượn tiếng đàn để làm vơi cơn phiền muộn. Dạ Cổ Hoài Lang đã ra đời như thế.
Ít lâu sau, vợ ông có thai, vợ chồng ông lại được tái hợp sau những ngang trái nợ duyên, và sau này, ông bà sanh được bảy người con cả thảy.
******
III. Những Câu Chuyện Truyền Miệng Về Tác Giả Và Bản Nhạc Dạ Cổ Hoài Lang
Theo một lời kể khác, thoạt đầu, bài Dạ Cổ Hoài Lang có hai mươi hai câu, và được nhạc sĩ Cao Văn Lầu đặt tên tạm là bản Hoài Lang, sáng tác từ năm 1917, theo chủ đề thịnh hành lúc bấy giờ, chinh phụ vọng chinh phu. Nhưng gặp cảnh vợ chồng bị rẽ thúy chia uyên, nên ông bỏ dở, bản nhạc vì thế chưa hoàn thành. Năm 1920, vợ chồng được tái hợp, ông mới tiếp tục hoàn chỉnh. Danh ca Bảy Kiên, khi hát, nhận ra, trong bài có vài câu bị trùng ý, đề nghị rút lại bớt, còn hai mươi câu thôi.
Người ta còn nói, nhan đề Dạ Cổ Hoài Lang là do sư Nguyệt Chiếu, một người rất tinh thâm Hán học và nhạc cổ truyền, đặt cho.
******
IV. Dạ Cổ Hoài Lang, Trước Khi Trở Thành Bài Vọng Cổ, Là Một Bản Nhạc Cổ
Hoài là nhớ. Lang là người trai. Hoài lang là nhớ chàng.
Dạ là đêm. Cổ là trống. Dạ cổ là tiếng trống đêm.
Dạ Cổ Hoài Lang, nghĩa là, nghe tiếng trống đêm khuya, nhớ chàng.
Dạ Cổ Hoài Lang, ra đời từ khoảng năm 1917 đến năm 1920, ban đầu là một bản nhạc cổ. Qua bao dâu bể thăng trầm, cùng với lòng yêu mến tài hoa của nhạc sĩ Cao văn Lầu, cùng với bản nhạc thê thiết do ông sáng tác, mà chỉ cần vừa cất giọng lên thôi, là đã gây được xúc động mạnh - ngày nay, hóa thành bản Vọng Cổ. Sự chuyển hóa này, đã tô điểm thêm cho loại hình nghệ thuật Cải Lương, ra đời năm 1916, vốn đặc sắc, lại càng thêm độc đáo.
******
V. Lời Gốc Của Bản Nhạc Dạ Cổ Hoài Lang
Từ, từ phu tướng
Báu kiếm sắc phán lên đàn
Vào ra luống trông thơ nhạn
Năm canh mơ màng
Trông tin chàng
Gan vàng càng lại thêm đau
Lòng dầu say ong bướm
Xin cũng đừng phụ nghĩa tào khang
Đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng luống trông tin chàng
Xin đó chớ phụ phàng
Chàng, chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắc cầm tình thương với nhau
Nguyện cho chàng
Đặng chữ bình an
Trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi với đó đây.
Ký Âm Cổ Nhạc: (bảy cung, thuộc hệ thang âm Ai, Oán)
Hò là xang xê cống
Ú líu cống líu cống xê xang
Hò xê liu cống xê xang là hò
Xê xang xê xang là hò
Liu xáng u liu xàng
Liu xáng xàng xề liu ú liu
Hò là xang xê cống
Xê liu xừ cống xê liu xừ xang
Hò xê cống xê xang xự
Xê liu xừ cống xê xừ xang
Xự xang xự cống xê xang là hò
Xề xang hề là hò xề là hò
Cống xê xàng hò xang cống xê
Xê liu xừ cống xê xừ xang
Ú líu cộng liu cộng xê xàng
Liu xáng xàng xề phạn liu ú liu
Hò xự cống xê xang là hò
Xê liu xừ cống xê liu xừ xang
Ú líu cộng liu cộng xê xàng
Liu xáng xàng xề phạn liu ú liu.
******
VI. Vọng Phu Vọng Luống Trông Tin Chàng
Toàn bộ bài ca cổ là nói về nỗi lòng của một người phụ nữ, ngày đêm ngóng chờ chồng nơi biên thùy xa xôi.
Từ khi tạ từ, từ khi từ biệt, chàng nhận lãnh kiếm báu cùng sắc phán, quyết định, chiếu chỉ của nhà vua, lên đàng, bảo vệ bờ cõi biên cương, giang sơn gấm vóc, thì thiếp nơi đây, quê nhà, quanh quẩn vào ra, chỉ đau đáu một niềm trông tin tức chàng nơi quan ải mà thôi. Nhưng trên bầu trời mênh mông mây trắng, không một dấu nhạn về, đặng cho thiếp một hy vọng, dẫu mong manh. Năm canh đêm, là suốt năm canh, thiếp cô đơn trong chập chờn, thổn thức. Cả trong mơ, cả khi thức, thiếp đều trông tin chàng. Lòng đã đau vì thương nhớ bao ngày, những lúc chẳng có tin về chàng, thiếp lại càng thêm đau đớn xiết bao.
Dẫu như mà chàng có đang say mê ong bướm nơi xa, xin chàng cũng đừng quên câu “tào khang chi thê bất hạ đường”, người từng chia sẻ hoạn nạn cùng mình, thì khi đặng phú quý cũng chớ nên phụ bạc. Đâu chỉ ngóng trông khi mỗi đêm về, mà bàn ngày, thiếp cũng như nàng Tô Thị, vọng phu vọng luống trông tin chàng. Đừng phụ phàng, tội thiếp lắm chàng ơi.
Nơi quan tái, chàng có hay, có biết, thiếp lúc này không? Đêm bên mái tây, sầu thiếp một mình ngó lên vầng trăng, ai cắt nửa. Nhớ về một nửa xa xôi kia, nghĩ đến những ngày thiếp và chàng còn sum vầy, sớm tối có nhau, sao mà thiệt thương, sao mà cầm sắc, một đôi một lòng, uyên ương hòa điệu.
Chốn quê nhà, thiếp chỉ biết nguyện cho chàng, đặng chữ bình an. Chàng sớm trở lại gia đàng, cho chúng mình, cho thiếp chàng, cho én nhạn được hiệp đôi đó đây!
******
VII. Dạ Cổ Hoài Lang, Sống Mãi Trong Lòng Người Việt Năm Châu Bốn Bể
Dạ Cổ Hoài Lang, đã chinh phục được hoàn toàn con tim của người nghe, ngay từ khi mới ra đời, vì nhiều lẽ.
Trước hết, Dạ Cổ Hoài Lang là một bản vọng cổ, một loại hình ca nhạc của người miền Nam, chỉ của riêng người miền Nam, không lẫn, không hòa, không lai với bất cứ dòng ca nhạc nào, xuất hiện cùng thời hay khác thời.
Nó lạ lùng, độc đáo, và duy nhứt, bởi sự uyển chuyển, luyến láy mùi mẩn, rất đặc biệt của thể loại Hành Vân (ca hơi buồn) trong Vọng Cổ.
Sau nữa, làn điệu của Dạ Cổ Hoài Lang, thê thiết chớ không thê lương. Bản vọng cổ cất lên, nghe như tiếng khóc của người vợ trẻ, nhưng tiếng khóc ấy lặng lẽ, nhỏ nhẹ, cam phận, chịu đựng, mang tính tự sự, trải lòng, chớ không hề kể lể, trách than, oán trời oán đất, dễ gây mệt mỏi, chán chường cho người nghe.
Nội dung bài ca cổ thì rất gần với đời sống, là cuộc đời thật của hàng triệu triệu người vợ, người chồng nơi xứ sở, quê hương này. Họ luôn phải xa nhau vì hàng chục lý do chẳng ai muốn, chiến tranh, chồng ra trận; đói nghèo, phải cầu thực phương xa; đó là chưa kể những tình yêu không môn đăng hộ đối, những tình yêu bị rẽ thúy chia uyên bởi muôn vàn các lý do hỡi ôi, từ đẩu từ đâu giáng xuống.
Tại cuộc hội thảo chuyên đề về Dạ Cổ Hoài Lang, Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Văn Khê đã đưa ra đánh giá như sau: Trong cổ nhạc Việt Nam, chưa có bản nào được như bản Dạ Cổ Hoài Lang khi biến thành Vọng Cổ. Từ một sáng tác cá nhân, đã biến thành sáng tác tập thể, sanh từ đầu thế kỷ, lớn lên sống mạnh, biến hóa thiên hình vạn trạng, và sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt khắp năm châu bốn bể.
******
VIII. Cho Én Nhạn Hiệp Đôi Đó Đây
Một trăm năm có lẻ, Dạ Cổ Hoài Lang, từ ngày ra đời cho đến tận hôm nay, vẫn đang tiếp tục bền bỉ cùng đất trời, cùng sông núi, cùng người dân phương Nam đôn hậu, hiền lành, thảo thơm rất mực, làm nên, vẽ lên một tâm tình, tâm hồn, thiện lương, đạo nghĩa, tử tế, và rất nhân tính, rất nhân tình, luôn mơ ước và hy vọng, trong mọi mối quan hệ, từ gia đình cho ra đến ngoài xã hội:
Cho Én Nhạn Hiệp Đôi Đó Đây!
Sài Gòn 30.05.2025
Phạm Hiền Mây
Nguồn: Fb Phạm Hiền Mây