Trúc Phương – Người viết nhạc cho nỗi buồn của nhân thế

Nhạc sĩ Trúc Phương. (Hình minh họa: nhacxua.vn)
Ngày 18 Tháng Chín hằng năm, với giới yêu nhạc vàng, là một ngày không thể nào quên. Đó là ngày nhạc sĩ Trúc Phương – người được mệnh danh là “ông hoàng Bolero” – rời cõi tạm vào năm 1995, để lại cho đời một gia tài âm nhạc thấm đẫm nỗi buồn và nhân tình thế thái. Ba mươi năm trôi qua, tiếng hát vẫn còn, lời ca vẫn còn, và cái tên Trúc Phương vẫn sống mãi trong lòng người yêu nhạc.
Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiên Lộc, sinh năm 1932 tại xã Mỹ Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Đất Trà Vinh ngày ấy vừa mặn vừa ngọt, mùa nắng thì nước ngập mặn tới nửa thước, mùa mưa thì phèn chua lênh láng. Nhưng cũng chính cái nghèo khó đó đã hun đúc nên tâm hồn nhạc sĩ.
Thuở nhỏ, Lộc đã ham mê ca hát, thường bỏ học để chạy ra bờ sông nghe mấy gánh hát dạo. Thầy giáo rầy, cha mẹ giận, nhưng cái nghệ sĩ tính thì không thể vùi dập được. Lớn lên, ông theo học nhạc lý, rồi bước vào làng tân nhạc với một phong cách riêng, không lẫn vào ai.
Nhắc đến Trúc Phương là nhắc đến “Bolero” – dòng nhạc mà “ông hoàng Bolero” đưa lên đến đỉnh cao ở miền Nam thập niên 1960. Với cặp kính cận dày cộm, dáng người gầy gò, Trúc Phương không phải mẫu nghệ sĩ hào hoa, nhưng ông có một trái tim đầy cảm xúc.
Những bản nhạc như Đò Chiều, Nửa Đêm Ngoài Phố, Tàu Đêm Năm Cũ, Mưa Nửa Đêm, Ai Cho Tôi Tình Yêu… trở thành bất hủ. Lời ca giản dị, giai điệu luyến láy, nhưng chứa chan nỗi đời. Người ta nghe nhạc ông không chỉ để giải trí, mà để soi thấy chính mình trong đó – một bóng dáng cô đơn giữa phố đêm, một chuyến tàu đưa người tình đi xa, hay một mối tình tan vỡ theo thói đời bạc bẽo.
Tôi thì nhớ nhất “Thói Đời.” Mỗi lần ngà ngà say, tôi lại nghêu ngao, buồn mà khoái. Có lần bà xã lắc đầu nói: “Ông mà hát nữa, tui đem cái “micro” bán ve chai à!” Nhưng cũng phải công nhận: “Nhạc Trúc Phương buồn mà hay thiệt.”
Người ta kể rằng, một lần ngồi ở quán cà phê Sài Gòn, ông nhìn người trở về trong đêm, liền lấy giấy bút viết vội – và đó là “Nửa Đêm Ngoài Phố.” Hay như “Tàu Đêm Năm Cũ,” cảm hứng từ những chuyến đưa người đi, rồi biệt tăm, để lại bến ga hiu hắt.
Những giai thoại ấy dù có hay không, vẫn làm người ta thấy gần gũi hơn với Trúc Phương – người nhạc sĩ đã biến nỗi buồn của thiên hạ thành nhạc phẩm cho muôn đời.
Lận đận sau 1975. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc đời Trúc Phương rẽ sang ngã rẽ nghiệt ngã. Toàn bộ nhạc vàng bị CS cấm. Người nghệ sĩ vốn sống bằng âm nhạc, giờ như con tằm bị cắt mất tơ. Ông sống lay lắt bằng nghề dạy nhạc tư, thỉnh thoảng viết vài bản ca “cho có,” nhưng lòng thì buồn bã.
Cái nghèo bủa vây, bệnh tật đeo mang. Có lần người ta thấy ông ngồi bán vé số trước rạp hát, dáng gầy, mắt mờ, nhưng vẫn mỉm cười: “Tôi còn được nghe người ta hát nhạc của mình là vui rồi.” Câu nói ấy nghe mà xót xa: một nhạc sĩ từng lẫy lừng, giờ sống bên lề, trong khi tác phẩm của ông vẫn vang lên ở khắp nơi.
Ngày 18 Tháng Chín năm 1995, Trúc Phương ra đi. Người ta nói ông “đi chuyến đò chiều cuối cùng,” đúng như tựa một nhạc phẩm của mình. Ông mất trong lặng lẽ, nhưng đám tang có không ít nghệ sĩ và người yêu nhạc tìm đến tiễn đưa, như một nén hương lòng.
Ba mươi năm sau, Bolero vẫn vang lên, khán giả trẻ vẫn hát “Ai Cho Tôi Tình Yêu”, ca sĩ hải ngoại vẫn rưng rưng với “Mưa Nửa Đêm.” Ở quê Trà Vinh, người ta vẫn tự hào: mảnh đất nghèo khó ấy đã sinh ra một nhạc sĩ làm rạng danh cả miền Nam.
Viết những dòng này trong ngày giỗ ông, tôi không khỏi chạnh lòng. Trúc Phương là biểu tượng của một thế hệ nhạc sĩ miền Nam – tài hoa, nhưng cũng bạc mệnh. Ông để lại cho đời những ca khúc sống mãi cùng năm tháng, nhưng chính ông thì lại sống những năm cuối đời trong thiếu thốn.
Có người từng nói: “Nghe nhạc Trúc Phương là nghe tiếng thở dài của cả một dân tộc trong thời tao loạn.” Quả thật, những bản Bolero của ông đã hóa thành ký ức chung – ký ức của một miền Nam vừa đau thương vừa tình nghĩa.
Xin thắp cho ông một nén nhang tưởng niệm. Người nhạc sĩ ấy đã đi xa, nhưng nhạc của ông thì còn mãi, như tiếng vọng từ giồng cát Trà Vinh, gửi về cho đời một lời ru buồn nhưng chan chứa tình người.
(Melbourne)
Đoàn Xuân Thu