User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
vansi
 
Nhân Ngày Ông Cả Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ về Cõi Phật
 
Từ Miền Nam, ở Sàigòn,

Nay Người đi xa…

Trong khoảng thời gian đằng đẵng giữa vũng tối tại những hầm giam nơi đất Bắc Việt Nam, hoặc trong tình cảnh vắng lặng ở chốn mông mênh tuyết đóng dầy vùng cực Bắc nước Mỹ, hay đêm thăm thẳm lái xe xuyên liên bang, tạm ghé vào một Rest Area nào đấy dọc đường 10 hay I5, 35.. Anh thường áp dụng một phương cách tự bảo vệ rất hiệu quả – Nói chuyện với mình, đặt bản thân vào trong một tình huống nào đó, tìm ra một giải pháp, xong phê phán giải pháp ấy.. Quá trình “độc diễn” nầy luôn có tham dự từ “mỗi người Bạn”- Đơn vị sống cùng anh suốt đời dài từ thuở anh bắt đầu có ý thức về mình vào một ngày niên thiếu, bắt đầu tháng 9, 1950 – Thời điểm người cha lên chiến khu Việt Minh, đứa nhỏ dần ra khỏi gia đình đến ngủ nhà người bạn gồm sáu anh em trai họ Cao ở xóm nhỏ Đường Trung Bộ (Tô Hiến Thành sau 1954), vùng Gia Hội, Huế. Với cách “sống-cùng-với-bạn” nầy kéo dài cho đến hôm nay, qua số tuổi 70, quá 80 khiến anh đã rất nhiều lần bật kêu lên: Bạn đâu mà nhiều thế! Trước tiên là bạn học, bởi theo học khắp Miền Nam từ Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, vào Sài Gòn; bạn lính của đủ Bốn Vùng Chiến Thuật, hết thảy các quân, binh chủng Quân Lực Cộng Hòa do thuộc đơn vị nhảy dù tăng phái đi khắp các mặt trận, phối hợp hành quân với nhiều đơn vị bạn.. Tiếp, bạn viết báo không hề phân biệt “báo Nam Kỳ, Báo Bắc Kỳ”; Bạn văn học, khoa cử, nghiêm túc như Ông Cả Doãn Quốc Sỹ; bạn giang hồ “Võ Sư Thi Sĩ” Hồng Lĩnh, Sa Giang Trần Tuần Kiệt múa kiếm bằng.. đũa; bạn hảo thủ quanh bàn rượu, vì đã sáng tạo những câu “danh ngôn” rất được tán thưởng: “Đời là cuộc say dài!” Và cuối cùng, bạn tù, mà khi leo lên vùng núi ở Perth, nơi Châu Úc heo hút năm 1996, khi bước vào căn nhà có treo tấm ảnh “Vô Thượng Sư”, có một ông nhảy ra ôm chầm kêu lớn.. “Anh Nam ơi! Tôi ở Trại 12 Hoàng Liên Sơn với anh đây”.

Mỗi người trong đám đông đảo kể trên, qua dài hơn nửa thế kỷ đã chiếm một vị trí riêng biệt, nhất định trong đời sống bản thân anh… Không phải chỉ riêng đối với những nhân sự thân thiết, gần gũi từ ngày nhỏ như Nguyễn Bá Trạc, Vũ Ngự Chiêu… những ông bạn sinh tháng 10 năm 1942 nay không còn, hoặc từ lâu không gặp. Nhưng anh vẫn nhớ như tại bây giờ.. Cô tên Thu Vân, năm 1960 (chưa quen) mặc áo dài, cổ đeo vòng kết những hạt thả xuống ngực, đứng bên cây gốc cây cối sù sì, u nần trước nhà Số 15 Tô Hiến Thành (nhà người có tên “Thu Lé”) không khác gì bà Nhã Ca mặc áo nâu, màu nhà Phật trong mấy năm trước đây ở tòa báo vùng Little Sàigòn, Nam Cali. Anh cũng thấy hiển hiện trước mặt người bạn với sắc mắt đen hóm hỉnh, tinh tế trước tiệm phở Đường Võ Tánh, Sàigòn (1973) trong phòng tối trại giam Thanh Cẩm giai đoạn 1981-1988. Nhưng lạ thay, dẫu anh nhớ rõ câu kết luận: “.. đôi guốc khóc nấc lên, xong quăng mình theo giòng nước” trong tập truyện ngắn Những Giọt Mực của người bạn đã viết dẫu quên hẳn người nầy tên thật là gì? Bút hiệu là gì? (Lê Tất Điều/Kiều Phong/Cao Tần hiện tại (Thế kỷ 21’s đang ở San José mà từ 1975 không gặp lại)
 
Có một điều cần phải nói ra… Những đoạn viết ngắn sau hoàn toàn không do cảm tính “yêu/ghét”, cũng không là đánh giá về “văn nghiệp, tác phẩm” của những niên trưởng, huynh đệ, bằng hữu xa gần ấy mà chỉ là nét đúc kết tổng quát về họ (phản ảnh chủ quan trong anh) qua hiện thực thuần thành chính xác nhất – Chữ Viết, Nét Vẽ, sắc màu của chính họ – Tên là sao nghĩa là vậy. Chữ viết như thế nào/Vẽ như thế nào/Sống như thế ấy.

Cuối cùng, loạt bài dài (về mỗi người) sẽ được viết tiếp để xác chứng một điều: Vì Viết/Vẽ/Sống thực như thế nên tất cả “Người/Việc/Vật/Của Miền Nam/Ở Sàigòn” đã kết cấu nên thành một Khối Văn Hóa-Đời Sống sinh động chân thật, nhân hậu của Miền Nam (chỉ dài 21 năm, 1954-1975) – Nhưng chế độ cộng sản Hà Nội dẫu đã đoạt thắng trên tất cả mọi phương diện, thâu tóm mọi phương tiện, 50 năm sau kể từ 30/4/1975 cũng không cách gì xóa bỏ được nếu không nói là trái ngược lại.

Anh “viết” những đoạn ngắn dưới đây trên đầu ngón tay, trong bóng tối phòng giam của giai đoạn tù tội 1975-1989; tại cảnh quê Lái Thiêu trước khi đi Mỹ, 5/11/1993; cũng như sau nầy, thập niên 1980 khi ngồi một mình giữa đêm tuyết lớn nơi Minnesota; qua Thế kỷ 21 nơi vùng sa mạc Arizona. Một số rất đông trong những người kể ra đã không còn nữa sau 50 năm. Và huyền diệu thay, Ông Cả, nhân dáng thuần khiết, nhân hậu điễn hình Kẻ Sỹ Người Việt, người đã cùng Ông Ba Như Phong-Nhà Báo Lê Văn Tiến (1923-2001) thường hay ghé qua thăm anh nơi nhà tranh Lái Thiêu (địa điểm anh được/bị chỉ định cư trú sau khi đi tù về), Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ luôn (chỉ) hỏi một câu thay lời chào mỗi khi anh ra đón: “Pnn sinh năm bao nhiêu, làm sao lại có cái nhà thích thế nầy?” Và anh lại theo đúng nguyên mẫu (lập lại) lời giải thích: “Em sinh 1943, anh Võ Đình 1933, và Ông Cả 1923! Đất, nhà nầy có được là do mấy ông làm báo ở Mỹ gởi cho, anh Đỗ Ngọc Yến ấy…”. Thế à… Ông Cả không đổi giọng, đẩy chiếc Mobylette vào sân, nhìn xuống chân… Ấy tôi mang nhầm chiếc dép! Ông đã đi từ Sàigòn lên với một chân giày sandale, một chân chiếc dép nhựa! Ông Ba Như Phong kêu lên… Ối giời! Ông ơi là ông… Thế à! Ông Cả cười (rất) tươi. Và quả thật không hề ngẫu nhiên, tôi đặt Ông Cả lên đầu bài viết. Nay, 14 Tháng 10, 2025 ông là Người Cuối Cùng ra đi. Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ có bản dịch Con Kỳ Lân Cuối Cùng.

Ghi Chú: Những từ ngữ, tiêu đề Viết Nghiêng/Italic là: Bút danh/Tên tác phẩm/Bài Viết/Nhân vật đặc trưng của mỗi tác giả. Ví dụ: Hòa Bình.. Nghĩ Gì? Làm Gì? Tiểu Luận của Nguyễn Mạnh Côn; Truyện ngắn Ngỏ Sau của Mai Thảo; Đốc Nô, Gã Thâm.. Nhân vật dịch thuật phóng tác của Hoàng Hải Thủy.

Phần I.

1- Doãn Quốc Sỹ

Bác trải Chiếc Chiếu Điều,
Bên Giòng Sông Định Mệnh,
Quyết tắt Lửa Ba Sinh,
Vào Thiền, Gìn Giữ Ngọc.
Nào… Đi tới đất hứa,
Bè Nữ Chúa nát vỡ
Còn mỗi Con Kỳ Lân,
Nhìn Rừng Lau lệ ứa.

Tập truyện: Giòng Sông Định Mệnh/ Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều.

Tiểu Luận, Tùy Bút: Vào Thiền; Gìn Vàng Giữ Ngọc (Trước 1975); Đi (Sau 1975 đi tù về lần thứ nhất với bút hiệu, Hồ Khanh/Hành khô).

Trường Thiên Tiểu Thuyết: Khu Rừng Lau/Chiếc Bè Nữ Chúa

Chuyện dịch: Con Kỳ Lân Cuối Cùng

2- Võ Phiến

Đêm Mưa Cuối Năm vuốt tóc mai,
Sợi ngắn, sợi dài….Sợi thương ai,
Sống…Viết, Biết đâu về Viễn Phố,
Đàn Ông, Đàn Bà.. Đàn lai rai..

Tập truyện: Đêm Mưa Cuối Năm; Đàn Bà..

Võ Phiến Viễn Phố/Khuê danh Bà VP

3- Nguyễn Mạnh Côn

Mong Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử,
Hòa Bình chưa kịp Nghĩ,
Đi tù!
Ba Lính Nhẩy Dù còn lâm nạn,
Huống gì mỗi thân Kỳ Hoa Tử?.

Tiểu Luận Chính Trị: Hòa Bình, Nghĩ Gì? Làm Gì?

Hồi Ký Văn Học-Chính Trị: Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử,

Tập Truyện: Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn; Kỳ Hoa Tử.

4- Chu Tử

Yêu xong hãy làm Loạn,
Kiếm Tiền về Bà Om
Cô Tuyết hết đất Sống,
Chú Đạt chết trôi sông (*)
Tiểu Thuyết: Sống, Yêu, Tiền, Loạn

Nhân vật đặc trưng từ tiểu thuyết Chu Tử: Đạt, Tuyết..

(*) Chu Tử-Chu Văn Bình, sáng lập hệ thống báo Sống, Đời, canh tân làng báo Sàigòn (Kỹ thuật và nội dung), chết trên Sông Sàigòn do đạn Việt Cộng pháo kích lên tàu Việt Nam Thương Tín, đúng 30/4/1975.

5- Như Phong

Rồi thả đời bay như Khói Sóng,
Ngồi chờ Tự Do, Lý tất Thắng,
Ba mẫu đất cằn bên sông tạnh,
Gió gờn trăng lạnh,
Ông trồng… bông! (*)

Tiểu thuyết chính trị-thời sự: Khói Sóng (1954)

Bút danh Như Phong/Lê Văn Tiến khi viết Khói Sóng trên báo Tự Do sau 1954: Lý Thắng

(*) Sau 13 năm tù kể từ 30/4/75, Như Phong về ở ẩn, trồng hoa nơi Nhị Bình, Hóc Môn

6- Mai Thảo

Ông nuôi Bầy Thỏ chờ Sinh Nhật,
Tháng Giêng không mưa
Cỏ Non chưa mọc
Viết dở Chúc Thư, leo chi Đỉnh Trời?
Đành ra Ngỏ Sau, mở chai cô-nhắc!

Tên thật Nguyễn Đăng Quý, Chủ Biên Sáng Tạo (1956-1959)

Tập truyện: Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật; Tháng Giêng Cỏ Non;

Truyện ngắn: Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời; Ngỏ Sau..

7- Hà Thượng Nhân

Người đứng trên sông Đàn Ngang Cung
Người ngồi trong tù vá chiếc quần
Người đi tập trung dáng sừng sững
Trước, sau.. Người giữ chốt Chưởng Môn.
 
Trung Tá Phạm Xuân Ninh, phụ trách mục thơ châm biếm trên Báo Tự Do sau 1954: Đàn Ngang Cung

Báo giới, văn giới Miền Nam trước 30/4/1975 tôn xưng: Hà Chưởng Môn.
 
8- Tô Thùy Yên

Ai biết… Ta về,
Ai ra đón?!
Tưởng chết đâu trên Chiều Phá Tam Giang,
Còn chăng tiếng dế nơi bờ lạch,
Âm vọng Tàu Đêm ngỡ sóng xa..
Ngoài Trường Sa..
Đâu Hành Trường Sa…
 
Tên thật Đinh Thành Tiên, tác giả người Nam độc nhất trong nhóm Sáng Tạo

Những bài thơ tiêu biểu: Ta Về; Chiều Trên Phá Tam Giang; Tàu Đêm.. Trường Sa Hành..
 
9- Nguyễn Xuân Hoàng

Bạn đã mang tiếng Kẻ Tà Đạo,
Cho Đi Trên Mây cũng chưa cao,
Hãy ngồi Trên Cỏ Ngôi Nhà Mái Đỏ,
Bất Cứ Lúc Nào…
Bụi, Rác,
Và thấy Đau! (*)
 
Tiểu thuyết, tập truyện, tùy bút có tính tự sự: Kẻ Tà Đạo; Người Đi Trên Mây; Ngôi Nhà Mái Đỏ, Bất Cứ Lúc Nào; Bụi, Rác; Ý Nghĩ Trên Cỏ..

(*) Lời nói cuối cùng (với Pnn) tại khu Nhà Dưỡng Lão San José mấy ngày trước khi mất, 13/9/2014: Đau quá!
 
10- Thảo Trường

Nghe Bụi Tre Gai Thầm Thì mười-bảy năm, (*)
Đào trăm Cái Hố,
Hốt vạn tấn phân, (**)
Một khoảng khắc nhập Cơn Sốt vỡ óc,
Thấy kiến Qua Cầu Lên Con Dốc.(**)
 
Tập truyện, các truyện ngắn tiêu biểu: Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai; Cái Hố; Cơn; Sốt; Qua Một Chiếc Cầu Lên Một Con Dốc.

(*;**;***): Tình cảnh “đào hố, hốt phân, sốt cao độ chỉ nhìn thấy kiến..” hiện thực trong 17 năm tù (1975-1991) qua chữ viết THẬT của Thảo Trường-Thiếu Tá Trần Duy Hinh
 
11- Lệ Hằng

Quyết vì Tình Yêu cô liều Chết,
Cuối cùng nhảy hết Bản Tango
Như Nghề Làm Vua đâu phải dễ
Con Mắt không Tím, cũng lên Kinh!

Bùi Thị Lệ Hằng, thành công với tác phẩm đầu tiên viết về tình yêu, có tính tự sự, 1967.

Tiểu Thuyết: Chết Cho Tình Yêu; Kinh Tình Yêu; Bản Tango Cuối Cùng; Mắt Tím; Nghề Làm Vua
 
12- Trần Dạ Từ

Người Đi Qua Đời Tôi,
Rồi người đi trở lại,
Đêm khua khoắt Tỏ Tình
Có không lần Vĩnh cửu?!
 
Thi phẩm tiêu biểu: Tỏ Tình/Người Đi Qua Đời Tôi..

Tên thật: Lê Hà Vĩnh, thành công trong ngành làm báo
 
13 – Nhã Ca

Ngày Thơ, Tình Thơ cô cất tiếng hát
Chớp Mắt Một Thời chị Nghe Đại Bác
Phượng Đỏ làm chi, đỏ cả Sài Gòn
Thắt Giải Khăn Sô, bà ghìm tiếng khóc!
 
Tên thật Trần Thị Thu Vân. Những tác phẩm viết theo các biến cố thời sự, nhiều thời kỳ của cuộc sống ở Miền Nam: Ngày Thơ-Tình Thơ; Đêm Nghe Tiếng Đại Bác; Giải Khăn Sô Cho Huế; Hoa Phượng Ơi Đừng Đỏ Nữa; Chớp Mắt Một Thời..
….
Phần II
 
Tiếp tục viết/vẽ lại chân dung văn nghệ sĩ xa, gần của Sàigòn qua nội dung, chữ viết, nét vẽ của chính mỗi người. Cho dẫu là “đối tượng nạn nhân đầu tiên”của cuộc đổi đời khốc liệt 30/4/1975, nhưng họ vẫn tiếp tục công việc nơi hải ngoại, ở trong nước – Thật đáng cảm phục sức chiến đấu âm thầm bền bĩ của mỗi cá nhân đơn độc nầy – Bởi chính thành phần thế hệ nầy là đối tượng bị đánh phá bởi “tất cả”các phía/phía người, tổ chức, nhà nước cộng sản VN là một điều tất nhiên. Nhưng họ không hề than trách, chỉ bỏ cuộc khi phải ra đi.. 
 
15- Nguyễn Viết Khánh 
 
Bác lên Núi cao đánh chiếc Khánh
Bác xuống Ruộng sâu chuyên nghiệp Viết văn
Dụng văn xong làm báo
Bàn thấu chuyện sao xanh.
 
Bút danh của Niên Trưởng làng báo Sàigòn trước 1975, sau 1975 nơi hải ngoại, chuyên nghiên cứu đề tài khoa học, thiên văn: Sơn Điền.
 
16- Nguyễn Bá Trạc
 
Cậu chẳng đi Di Cư 
Sao Nhức Đầu Vừa Phải?
Bứt một Ngọn Cỏ Bồng
Khóc nức Sau Cơn Mưa.
 
Thơ, tiểu thuyết tự sự, tùy bút, gốc Bắc, mẹ người Huế: Chuyện Một Người Di Cư Nhức Đầu Vừa Phải; Ngọn Cỏ Bồng
 
Ký sự dịch từ Larry Engelmann: Nước Mắt Sau Cơn Mưa
 
17- Đằng Giao
 
Hãy mài.. Hãy mài..
Nào hãy mài!
Mài sắc màu son ửng đỏ tươi
Chẳng biết đùa dzai chơi khó được?
Bay lên..
Đằng lên cao Giao ơi..
 
Họa sĩ chuyên ngành sơn mài; Thư Ký Tòa Soạn Nhật Báo Sống; Sóng Thần: Đằng Giao/Trần Duy Cát; Đùa Dzai (khi vẽ hí hoạ)
 
18- Đỗ Quý Toàn
 
Một tay hốt Tuyết
Tay cào Cỏ 
Tay kia nặn Bột 
Tay này mần Vua 
Chẳng biết tìm chi trong Tiếng Nói
Cùng đành Đổi Mới
Việc kinh doanh! 
 
Chuyên sáng tác, viết luận đề về thơ: Cỏ và Tuyết; Tìm Thơ Trong Tiếng Nói
 
Bút hiệu khi viết về kinh tế, chính trị: Vương Hữu Bột/Đổi Mới Kinh Tế
 
18- Viên Linh 
 
Anh về Miền Đông chạy xe thổ mộ
Thị Trấn ẩm buồn khói thuốc Phoenix
Một độ Hóa Thân táng biển lớn
Chìm sâu đáy thảm Thủy Mộ Quan.
 
Tên thật, Nguyễn Nam khởi đầu, tiếp nối chuyên làm thơ: Hóa Thân (1964); Thủy Mộ Quan (1982)
 
Tập Truyện có tính tự sự: Thị Trấn Miền Đông
 
19- Nguyễn Mộng Giác
 
Lội qua Sông Côn, gặp Mùa Lũ,
Lội lại Sông Côn, trúng Biển Động
Nó “cắt tai” ai… Cắt gì của ông? (*)
Đi Đường Một Chiều hãy cẩn thận!
 
Trường Thiên Tiểu Thuyết: Mùa Biển Động; Sông Côn Mùa Lũ
 
Truyện Dài: Đường Một Chiều
 
(*) Đem sự kiện “cắt tai” nghe từ Đại Úy TTTrực (đơn vị BĐQ ở Đà Nẵng) chuyển thành nhân vật lính Nhảy Dù trong tiểu thuyết nên bị người đơn vị ND phản đối!   
 
20- Bùi Bảo Trúc
 
Lờ vờ xưng danh Ký Giả Hạng Bét
Thư Từ Miền Đông ngày ngày viết miết 
Hết tập thứ nhất, đến tập thứ tư 
Bão cứ thổi vùi… Trúc, tre cũng bứt!     
                                                                  
Bút danh khi viết mục ký sự hàng ngày: Ký Giả Hạng Bét
 
Ký sự hằng ngày được đông đảo độc giả khắp nơi theo dõi: Thư Gủi Bạn Ta 
 
21- Thanh Tâm Tuyền
 
Mở toang cửa sổ ngóng Mặt Trời
Đêm tối… Hởi Liên nào Tìm Thấy?!
Dọc Đường đi dài, Không Cô Đơn 
Khổ nhục vác nứa ở Yên Bái (*)
Cùng đành chịu phận âm thầm..
Lấm sâu Cát Lầy, nhập cơn Ung Thư
Tôi gọi tên tôi với Thơ, nơi Bếp Lửa!
Dzư Văn Tâm, tác giả quan trọng của nhóm Sáng Tạo, Sàigòn (1956-1959), tác phẩm văn xuôi: Dọc Đường (Tập Truyện); Cát Lầy, Ung Thư (Tiểu Thuyết)..
 
Thơ tiêu biểu: Tôi Không Còn Cô Độc;  Liên – Đêm – Mặt Trời Tìm Thấy!
 
(*): Đi tù cộng sản sau 30/4/1975
 
22- Ngô Thế Vinh
 
Quyết xây Tình Thương,
Đi Biệt Cách Dù (*)
Mặc Mây Bão nổi, Gió Mùa mưa
Quanh Vòng Đai Xanh, 
Bóng Đêm  chìm lấp
Cửu Long Cạn Dòng..
Có còn không sông ơi?!
 
Ban Biên Tập Tạp Chí Sinh Viên Y Khoa Sàigòn (1963-1967): Tình Thương
 
Truyện dài phản ảnh người/việc xã hội Miền Nam trong thập niên 1960’, 1970: Mây Bão; Gió Mùa; Bóng Đêm  
Tiểu thuyết ký sự qua ghi nhận của Đại Úy Quân Y Sĩ  về vòng đai Trại Lực Lượng Đặc Biệt do LLĐB Mỹ xây dựng nơi Cao Nguyên Trung Phần (1964-1970): Vòng Đai Xanh
 
Biên Khảo về Sông Cửu Long bị ngập mặn, môi trường hũy hoại từ đầu Thế Kỷ 21: Biển Đông Cạn Dòng-Cửu Long Dậy Sóng  
 
(*): Y sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù
 
23- Hoàng Khởi Phong
 
Gió cứ nổi, còi ông cứ thổi (*)
Ông viết Thơ Phục Hồi Quyền Làm Người
Một thuở giữ tù nơi Phú Quốc (**)
Cây Tùng Trước Bão chẳng lung lay?!
 
Thơ từ người/việc/thời sự 1960, 1970 nơi Miền Nam: Phục Hồi Quyền Chức Làm Người 
 
Ký sự nhân vật trong quân đội, xã hội Miền Nam trước, sau 1975: Cây Tùng Trước Bão 
 
 (*; **)Tên thật Nguyễn Vinh Hiển, Đại Úy Quân Cảnh, phụ trách giữ tù cộng sản nơi trại giam Phú Quốc
 
24- Du Tử Lê 
 
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Khi tôi yêu, nầy.. Ngực đây hãy chém 
Đời Ở Phương Đông hay đời Cali?
Chạy đâu thoát!
Cũng phải quàn Đường Beach!(*)
 
Đại Úy Lê Cự Phách, ngành Chiến Tranh Chính Trị. chuyên nghiệp viết thơ từ 1957, Những câu thơ tiêu biểu được phổ biến: Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển! Tình như một đường gươm.. Ngực đây em hãy chém!
 
Tiểu Thuyết Thơ được giải thưởng Tổng Thống VNCH 1972: Đời Ở Mãi Phương Đông
 
(*) Dự ngôn (Pnn’s) nói, viết từ 2008: Cuối cùng cũng phải quàn (nơi Peak Family) Đường Beach!
 
25- Vũ Ngự Chiêu
 
Vây quanh hằng hằng Vòng Tay Lửa
Mối đau chất ngất trang sử cũ
Đậu bằng thấp, xong đậu cấp cao (*)
Nẻo về Chính Đạo Nguyên vần Vũ.
 
Tiểu thuyết nhiều tập lấy chiến tranh VN làm bối cảnh: Vòng Tay Lửa
 
Bút danh khác nhau khi viết về sử ; tiểu thuyết ký sự chiến tranh: Chính Đạo; Nguyên Vũ
 
(*) Nguyên sĩ quan Pháo Binh Nhảy Dù, đến Mỹ từ 30/4/75, tốt nghiệp nhiều chuyên khoa Sử, Luật thuộc học giới Mỹ.
 
26- Lê Tất Điều
 
Bạn ngồi Tần(g) Cao viết lời thơ
Mân mê Cũ kỷ Tờ Chứng Chỉ
Phá Núi không thành, nên hóa Đá
Ta làm gì cho hết nửa đời sau?!
 
Truyện dài trước 1975: Phá Núi; Người Đá..
 
Bút hiệu (khi viết thơ) với nội dung thơ (cảm khái) được phổ biến, yêu chuộng sau 1975 tại hải ngoại: Cao Tần – Tờ Chứng Chỉ Cũ; Ta làm gì cho hết nửa đời sau?!
 
27- Phạm Thiên Thư
 
Chàng mang dáng vóc con kỳ lân
Lập Động Hoa Vàng  bên Gia Định
Chẳng hiểu cớ sao lên non, từ quan 
Hóa ra cố cầm tay cô Ngọ!
 
Trường phái thơ đặc trưng của Thi Ca Miền Nam từ căn bản Phật Lý, Đạo Học do tác giả (tên thật Phạm Kim Long) vốn là người Cửa Thiền: Động Hoa Vàng 
 
Đối tượng chính của Tthơ Ngày Xưa Hoàng Thị: Trần Thị Ngọ 
 
28- Trần Lê Nguyễn
 
Bão Thời Đại thổi qua
Ngã xạm mầu râu tóc
Đêm Ba Mươi cô độc
Lạnh ướt sủng gót giày
Hút một hơi ống vố
Tuổi đã qua bốn-mươi 
Đời nhạt thếch không vợ
Tác phẩm bày bán son..
Sau “Bảy-lăm” nghiệt khổ
Sạp báo thảm hè đường!! 
 
Tên thật Nguyễn Văn Tạo, kịch tác gia riêng biệt, độc đáo của Miền Nam từ 1950’, 1960’: Bão Thời Đại; Đêm Ba Mươi.
 
Tự dự báo cảnh đời từ trước 1975: Bốn mươi tuổi đời không vợ. Tác phẩm đem bán son..
 
29- Nguyễn Thụy Long
 
Vác Ngà Voi cho lắm
Nuôi nào nỗi thằng Loan
Qua được Tám Cửa Ngục
Tiếp ngặt giòng Kinh Đen
Bầy Ruồi Xanh khuấy nhặng
Gác chật, viết trên sàn..
 
Những tiểu thuyết phóng sự lấy cảnh sống của giới giang hồ Sàigòn trước 1975 làm chất liệu: Vác Ngà Voi; Loan Mắt Nhung; Bà Chúa Tám Cửa Ngục; Kinh Nước Đen..
 
Sách viết từ đời sống bị áp bức, cùng khổ sau 1975: Vang Tiếng Ruồi Xanh; Hồi Ký Viết Trên Gác
 
30- Bùi Giáng 
 
Coi như gặp giữa đường..
Chập hoàng hôn phía trước, 
Giữa Cồn Lá Hoa xưa 
Nghe Mưa Nguồn chớp bể
Hỏi… Quê nào, họ, tên?
Thân rạn rày xó chợ
Còn đâu ruộng dâu xanh?
Đập tan tròng kính vỡ
Trừng trừng dõi nơi mô?!
 
Tác giả giòng thơ bình thản kỳ lạ, độc đáo của Văn Học Miền Nam trước, sau 1975 từ tâm thức cao viễn khắc khoải giữa đời sống khốc liệt VN hậu bán thế kỷ 20: Xin chào nhau giữa đoạn đường.. Hoàng hôn phía trước..; Hỏi tên là một, hai, ba.. Hỏi quê rằng mộng ban đầu đả xa…Cứ tưởng đầu đường thương xó chợ? .Ai ngờ xó chợ chẳng thương  nhau!!  
Những tập thơ tiêu biểu: Lá Hoa Cồn; Mưa Nguồn
 
31- Tạ Ký
 
Nổ tiếng rền lựu đạn 
Ở Lại với mối Sầu 
Ký thác cõi thiên đường
Chúa, Phật.. Cao không thấy!
 
Tên thật, Tạ Ký, Giáo Sư Việt Văn, đi tù vì tội “Trung Úy giáo chức” do động viên Khóa 14 Thủ Đức, 1962; chết trong trại tù cộng sản, 1979
 
Tác phẩm dự tri cho bản thân: Sầu Ở Lại, giải thưởng Văn Học Tổng Thống VNCH, 1973  
  
32- Mặc Thu
 
Bác xuôi đò ngang Đêm Trừ Tịch
Hớp ngụm cà-phê ngỡ mùi máu dính
Mài mực, phóng bút…
Tràn hơi sương Thu
Hãy trôi đi…Trôi như bình Sinh,
Một đời không xong nghiệp Chép Sử!
 
Tên thật Lưu Đức Sinh, thuộc nhóm Tự Do sau 1954 tại Sàigòn; Chuyên viết Thư Họa Hán-Nôm. Nạn nhân chính trị của các chế độ cộng hòa, cộng sản trước, sau 1975.
 
Tác phẩm chính trị-thời sự tiêu biểu sau 1954: Đêm Trừ Tịch; Người Chép Sử  
 
33- Đỗ Ngọc Yến
 
Khôn đến thế là cùng (*)
Đỗ xong mới đặt Yến
Mai Phương nào… Nơi đâu?
Hãy báo về Người Việt.
 
(*) Từ 1950’, 60’ đã là nhân sự tham dự sinh hoạt thanh niên, sinh viên, học sinh, báo chí Sàigòn trước 30/4/1975.
 
Bút danh khi viết báo tại Sàigòn trước 1975; Sáng lập viên Nhật Báo Người Việt từ 1978 ở hải ngoại: Mai Phương 
 
Phần III
 
Tiếp tục viết/vẽ lại chân dung văn nghệ sĩ xa, gần của Sàigòn qua nội dung, chữ viết, nét vẽ của chính mỗi người. Cho dẫu là “đối tượng nạn nhân đầu tiên”của cuộc đổi đời khốc liệt 30/4/1975, nhưng họ vẫn tiếp tục công việc nơi hải ngoại, ở trong nước – Thật đáng cảm phục sức chiến đấu âm thầm bền bỉ của mỗi con người đơn độc nầy – Bởi chính thành phần thế hệ nầy là đối tượng bị đánh phá bởi “tất cả”các tổ chức quyền lực – Phía  cộng sản VN là một điều tất nhiên. Nhưng họ không hề than trách, chỉ bỏ cuộc khi phải ra đi.. 
 
34- Cung Trầm Tưởng
 
Bác dạo Cung Trầm…
Tưởng vớ bở?
Lời Viết Hai Tay mãi chưa đủ
Đi gì qua Tây, xứ xa Paris (*)
Ở đấy,
Tình Ca bằng một ly rượu đỏ!
 
(*) Tên thật Cung Thúc Cần, Nhà Thơ cùng với Họa Sĩ Ngy Cao Uyên, Nhạc Sĩ Phạm Duy tạo dựng phong trào Lãng Mạn Mới (Néo-Romanticism) theo phong cách Tây-Âu trong thập niên 1960, 1970 tại Sàigòn. Phong trào chấm dứt cùng lần với biến cố 30/4/1975. Một vài người cố dụng lại nơi hải ngoại nhưng không thành – Do người, việc, thời sự không thích hợp: Tác phẩm tiêu biểu: Tình Ca
 
Thơ viết tại hải ngoại sau lần định cư ở Mỹ, 1993 trong độ tuổi 70/80: Lời Viết Hai Tay  
   
35- Trần Tuấn Kiệt
 
Ông leo Cây Bông Gởi Lời Thơ
Vương Vãi những chữ nghĩa đau đớn
Thảm bạc Sa Giang, sầu tận Hồng Lĩnh 
Múa võ, viết văn nhằm nhò chi? (*)
 
Giòng thơ Tân Cổ Điển (Néo-Classicism) của thế hệ người làm thơ Miền Nam trước, sau 1954; Trần Tuấn Kiệt cách tân với những hình tượng, chất liệu mới trong thập niên 1960, 1970: Lời Gởi Cây Bông Vải, Thi phẩm được giải thưởng văn chương Tổng Thống VNCH, 1971
 
Bút hiệu khi làm thơ, lúc viết sách võ hiệp: Sa Giang – Bến sông nơi quê nhà Sa Đéc; Hồng Lĩnh- Vùng núi vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. 
 
(*) Ngôn ngữ phóng khoáng thường nhật của TTK
 
36- Bùi Ngọc Tuấn
 
Bạn đúng trước, sau một Hiện Tượng
Dạy học ở đâu không ai hay
Viết nên giòng Thơ không kẻ biết (*)
Say Giữa Mùa Trăng bên Hồ Gương 
Trỗi Trống Đồng, dội thanh âm Lạc
 
Tổng Thơ Ký Tập San Văn Học của thanh niên, sinh viên Sài Gòn (1966-1969): Hiện Tượng, Lạc Việt 
 
Thi phẩm viết bên Hồ Gương (Harriet Lake) ở Minnesota: Say Giữa Mùa Trăng
 
Biên khảo về văn hóa cổ của Người Việt: Đồ Gốm Cổ – Một Nền Văn Hóa Thuần Việt  
 
(*) Hoạt động văn hóa, giáo dục riêng rẻ từ thập niên 60, 70 ở Sàigòn, sau 1975 nơi hải ngoại 
 
37- Nguyễn Đình Toàn
 
Thắp lên Một Ngọn Đèn..
Mới hay ông không Đứng Bên Lề,
Phía Ngoài Con Đường, mặc Đám Cháy
Mà lòng tràn Mật Đắng
Lần vĩnh biệt Sàigòn.. 
Niềm Nhớ Không Tên!   
Còn đâu ngày xưa Chị Em (cô) Hải
Một thời thắm thiết Áo Mơ Phai
 
Sách viết từ 1961 đến 1975 với văn phong chừng mực, đơn giản, thanh thoát nhưng không HỀ dung tục – Sau 30/4/1975 đi tù cộng sản bởi chữ nghĩa trong sáng, nhân bản dẫu không có sinh hoạt liên quan đến chính quyền, quân đội VNCH: Những Kẻ Đứng Bên Lê; Con Đường, Đám Cháy; Mật Đắng Chị Em Hải, Áo Mơ Phai..
 
Ca khúc tiêu biểu cho lòng người và cảnh tượng Miền Nam, Sàigòn sau 30/4/1975: Hãy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn; Sàigòn Niềm Nhớ Không Tên
 
38- Ngô Vương Toại 
 
Nơi Sông Mã, ông xưng Ngô Vương
Đã Toại lòng chưa?
Hóa ra lãnh búa!
Chúng đập đầu ông
Chúng bắn bụng ông (*)
Thoát chết, 
Đến Mỹ, Diễn Đàn ông nói lớn.
 
Thành phần sinh viên quốc gia chống cộng tại Đại Học Văn Khoa vào thời đoạn tranh đấu quyết liệt giữa hai phe quốc/cọng nơi diễn trường Đại Học Sàigòn (1964-1968): 
 
Ngô Vương Toại, người vùng Sông Mã, Thanh Hóa kiên định lập trường Quốc Gia-Dân Tộc thành hình sau 30/4/75 ở Washington DC: Diễn Đàn Tự Do (1985-1995) do Ngô  Vương Toại chủ biên, điều hành.  
 
(*) Biến cố ngày 16/12/1967: Ngô Vương Toại bị mưu sát do đặc công cộng sản nằm vùng  trong Tổng Hội Sinh Viên Sàigòn
 
39- Trần Lam Giang
 
Trần trùng trục lội ngang sông Lam
Giang hồ Quán Chùa, “Bảy-lăm” lâm nạn 
Vất xe Honda, bỏ trường Trí Đức
Qua Mỹ, khóc vùi như nhà chịu tang,
Tiên Hiền Việt Tộc quyết không là Người Hán!
 
Tên thật Trần Lam Giang, người Thanh Hóa di cư vào Huế sau 20/7/54; thủ lãnh lực lượng sinh viên với ý thức chống Cộng mạnh mẽ của Đại Học Sài Gòn (1964-1972), bị mưu sát (nhiều lần nhưng không thành) bởi nhóm cộng sản nằm vùng trong tập thể sinh viên: Giáo sư Việt Văn Trường Trí Đức, Cao Thắng Sài Gòn cho đến ngày 30/4/1975.    
 
Tác phẩm cổ sử văn học Hán-Nôm: Bách Việt Tiên Hiền Chí
 
40- Trùng Dương
 
Cô bay lên cao Ngàn Cánh Hạc
Vượt Sóng Trùng Dương tìm chỗ Sống
Mưa đi… Mưa đi… mưa mãi không vừa
Đất xứ lạ vẫn chưa giọt thấm.
 
Tên thật Nguyễn Thị Thái, bút hiện Trùng Dương, Chủ Nhiệm Nhật Báo Sóng Thần, hậu thân của Báo Sống (Chu Tử, Chủ Nhiệm giai đoạn trước 1970).
 
Truyện: Mưa Không Ướt Đất; Truyện dịch: Ngàn Cánh Hạc/Thousand Cranes của Yasunari Kawabata, Nobel Văn Chương 1968
 
 41- Hoàng Hải Thủy
 
Cậu Hai khai sinh lão Đốc Nô
Già Móng, Gã Thâm gọi bằng bố 
Anh em cùng vợ Công Tử  Hà Đông
Chuyên hút Lucky hai hàng số 
Đôi bận căng thân nơi Thành Hồ
Còn trái Tạc Đạn mặc sức Nổ!!…
Ừ thôi..
Vũ Nữ về Bến Cỏ 
Sài Gòn mất bặt dáng Kiều Giang…
 
Tên thật Dương Trọng Hải, bút hiệu phổ cập trở nên tên thật, Hoàng Hải Thủy; tự trào, Công Tử Hà Đông chuyên phóng tác dịch thuật, viết phóng sự sinh hoạt phòng trà, vũ trường Sài Gòn từ sau 1954: Vũ Nữ Sàigòn; Nổ Như Tạc Đạn..
 
Những nhân vật phóng tác từ tiểu thuyết trinh thám, hình sự nổi tiếng của Ian Fleming: Già Móng, Gã Thâm, Đốc Nô..
 
Nhân vật tiểu thuyết dịch Jane Eyre của Charlotte  Bronte: Kiều Giang 
 
42- Vũ Khắc Khoan
 
Thầy tuốt gươm chém gẫy chân cầu
Thần Tháp Rùa ứa máu bật gào đau 
Vạch ngực, nghiến răng, ghìm nắm đấm
Thành Cát Tư  Đại Hãn giờ tìm đâu?!
 
Tên thật Vũ Khắc Khoan, Giáo Sư Quốc Văn Đại Học Vạn Hạnh, Văn Khoa; dạy kịch nghệ tại Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn trước 1975.
 
Truyện Lịch Sử-Chính Trị luận đề với biến cố 1954: Thần Tháp Rùa  
 
Kịch dã sử luận đề: Thành Cát Tư Hãn
 
43- Uyên Thao
 
Ông “ÚT” Uyên bác, thông Thao lược
Cỡi ngọn Sóng Thần dâng lớp lớp
Vận nghiệp ở tù,
Hỡ ông..
Trong Ánh Lửa Thù sao không biết sợ?! (*)
Miền Đông xuyên buốt Tiếng Quê Hương
 
Tên thật Vũ Quốc Châu, Chủ Bút Báo Sóng Thần từ 1972-1974
 
Tổ hợp xuất bản sách Việt ở hải ngoại từ 2001: Tiếng Quê Hương
 
(*) Hồi ký tù cộng sản 30/4/1975: Trong Ánh Lửa Tù
 
44- Nguyên Sa
 
Hà Đông mênh mông màu áo lụa
Mang tặng cô Nga đương ngái ngủ
Sàigòn hôm nay nắng quá Thầy ơi
Tóc ngắn chịu sao nổi trời sôi lửa?!
 
Tên thật Trần Bích Lan, Giáo Sư Triết Đại Học Văn Khoa, Hiệu Trưởng Trung Học Tư Thục lớn ở Sàigòn trước 1975
 
Cách tân Thi Ca Tân Lãng Mạn Pháp (Thập niên 50, 60) bằng ngôn ngữ, hình ảnh giản dị của giai tầng tiểu thị dân, tuổi trẻ Sàigòn, Nam VN nên thành lời thơ phổ cập, được quần chúng yêu chuộng: Áo Lụa Hà Đông..
 
Nhân vật, hình tượng giản dị được phổ cập hóa qua Thơ Nguyên Sa: Nga như con mèo ngái ngủ; em Sàigòn tóc ngắn…    
 
45- Hoàng Anh Tuấn
 
Ông sống với đời như trò chơi (*)
Dưới Mưa Sàigòn tưởng Mưa Hà Nội
Lái xe Xa Lộ coi chừng Không Đèn
Cậu Tuấn đi rồi.. (**)
Tiếng cười vọng dội!
 
(*;**) Tên thật HAT, du học Pháp chuyên ngành diện ảnh từ 1956, được yêu mến do tâm chất, sinh hoạt phóng khoáng, dung dị thể hiện trong tác phẩm điện ảnh: Xa Lộ Không Đèn..
 
Làm thơ từ trước 1954 ở Hà Nội: Mưa Sài Gòn.. Mưa Hà Nội
 
46- Huy Phương
 
Dẫu mặc áo lính, dạng thầy giáo
Nhân cách Nghiêm nghị, tiệp Kính cẩn
Nước Mỹ có làm gì ông phiền?
Quê nào Giá Lạnh..
Quê nào ấm?
Cuối cuộc, Cuối Ga..
Tàu không lỡ hẹn..
Đơn độc mình ông – Một HO!
 
Tên thật Lê Nghiêm Kính, nhà giáo trung học trước khi bị động viên Khóa 16 Thủ Đức (1963)
 
Chuyên viết tạp bút, xuất bản tại Mỹ: Ấm Lạnh Quê Người; Ga Cuối Đường Tàu; Chân Dung H.O 
 
47- Hoạ Sĩ Choé
 
Muốn vẽ trước tiên phải có Chí
Muốn sống xứng đáng không được Hãi
Bạn cao thân người
Xa mắt nhìn
Từ Sàigòn đã nhận ra lão Kiss!
 
Nguyễn Hải Chí, chuyên vẽ hý hoạ nhân vật, sinh hoạt chính trị trước 1975 ở Sài Gòn
 
Hý hoạ nhân vật nổi tiếng: Kissinger   
 
48- Cao Bá Minh
 
Người vẽ một đời không xong Màu Xanh
Người vẽ suốt đời không đủ Sự Không
Hãy tiếp tục vẽ..
Hết sức bình sinh
Sẽ rõ u/minh
Sẽ hiểu được mình!
 
Hoạ sĩ chuyên về Hội Họa Vô Hình Thể với màu XANH chủ thể
 
49- Đào Mộng Nam
 
Anh Đào thoát đâu ra khỏi Mộng
Tỉnh giấc Nam Kha thăm thẳm cô đơn
Một thân đi, về ngõ Tustin tăm tối (*)
Còn nơi đâu Linh Tự? 
Tận vô vàn Chữ Nho! (**)
 
Giảng sư Hán-Nôm từ năm 24 tuổi trước 1975 tại Sàigòn, sau 1975 tại Mỹ.
 
(*) Mất năm 2006 tại thành phố Tustin, Nam Cali trong một khu chung cư không ai hay
 
(**) Từ ngày rất trẻ ở Sài Gòn (Sinh 1940) đã thực chứng qua tự nghiên cứu Thế Chân Vạc kỳ diệu của Linh Tự:  Hán-Nôm-Quốc Ngữ 

Phần IV
 
50- Tạm kết với bản thân và với tất cả
Thăm thẳm cùm xiềng tầng tầng đêm (*)
Căm căm Dựa Lưng lên Nỗi Chết
Tưởng buổi quê hương Mùa Hè khốc liệt
Hung tàn Đỏ Lửa cõi Trần Gian
Hóa ra là “Nghiệp/Phận”
Tên-Người-Vận Nạn..
Phạm Nhân Nan!! (**)
 
(*) Một trong những tù người Nam bị “kiên giam” lâu nhất nơi nhà giam Miền Bắc

(7/9/1981-29/5/1988)

Tiểu thuyết, bút ký viết theo biến động nơi Miền Nam: Ải Trần Gian (Biến Động Miền Trung, 1966); Dựa Lưng Nỗi Chết (Mậu Thân, 1968); Mùa Hè Đỏ Lửa (1972)

(**) Phan Nhật Nam Phạm Nhân Nan Phạm Nan Nhất
 
Lời kết chung,

Nhân Ngày Ông Cả Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ về Cõi Phật, 14/10/2025.

Nầy xong một trận vẽ vời
Ngẫm thương thay những cảnh đời xót xa
Nhìn quanh trời đất bao la
Có còn không chỗ gối đầu não nhân?
 
Lần thứ Nhất, Thanh Hóa, 1980,
Lần thứ Hai, Minnesota, 1990,
Viết Thứ Ba, 2008..
Lần giữa sa mạc, nơi Arizona,
Trong Đại Dịch Vũ Hán Virus toàn thế giới.
45 năm sau Ngày 30/4/1975 – 25/5/2020.
Và cuối cùng,
Mùa Quốc Khánh VNCH, 26/10/1955-2025

Phan Phi Danh
Nguồn: https://tiengquehuong.wordpress.com/2025/10/16/chan-dung-van-nghe-si/