Cư xá nằm ngay trong thành phố Sài Gòn, ngăn cách con đường lớn bằng những bờ rào, những hàng điệp tây đầy hoa. Những chùm trái điệp đen xám, treo tòn ten , khua rộn ràng như tiếng khánh mỗi lần bị gió lay. Cuối con dốc là những dãy nhà gọn gàng bao quanh sân cỏ rộng lớn lốm đốm từng chỗ cháy khô, chỗ mướt rượt, loang lổ như con chó lác. Ngôi trường tiểu học với vỏn vẹn năm lớp học nằm bên trái cạnh mấy gốc trâm. Ðó là nơi mà tôi không được phép bén mảng tới nhặt những trái trâm mọng nước, tím lịm bỏ đầy túi áo dơ tèm lem. Và sợ nhất là gốc cây keo cao ngất ngưởng đầy những trái khoanh tròn, ngộ nghĩnh, với lũ rắn roi màu xanh lục lúc nào cũng rình rập trong đám lá, sẵn sàng bay xuống “quất vào mông” đám con nít phá phách. Bệnh xá kế bên, đối diện với cái công viên nhỏ nhắn được ông giám thị cắt xén gọn gàng. Niệm Phật đường nằm phía bên trái. Xa xa đằng kia là nhà cầu công cộng, hàng rào dâm bụt cao nghều nghệu bao quanh, lúc nào cũng đỏ rực hoa. Anh Bé Tuất nói ngày xưa cư xá là một bãi tha ma chôn lính Tây được ủi làm nhà. Những chàng Tây không về được quê, bỏ xác nơi xứ người trở thành những con ma không nhà lang thang thất thểu. Cho nên dạo đó lúc dân cư còn thưa thớt, thỉnh thoảng người ta vẫn nghe tiếng những đoàn lính ma này duyệt binh rền vang trên sân cỏ lớn của cư xá. Những lần mưa là những lần vất vả nhất. Nước tràn xuống con dốc, đổ vào cư xá cuồn cuộn. Nhà nào cũng ngập nước. Hai chị tôi phải tát nước, lau chùi mệt nghỉ. Lâu ngày, nước rút không kịp, khoảng sân banh thấp nhất ứ đọng thành cái ao khá lớn cho đủ loại chuồn chuồn cùng với bầy ễnh ương nương náu. Và để bọn trẻ chúng tôi tha hồ xúc từng bầy cá bé tí teo, hay bắt những con nòng nọc lớn nhất đem về chờ coi đuôi nó rụng.
Nhà tôi mang số 24. Nên như những gia đình khác, ba tôi chỉ là một con số như ông 18 hay bà 25. Tôi lớn lên trong căn nhà màu xanh có dăm ba bụi hồng, cây hoa sói thơm ngát, và hai bà chị lớn hơn tôi năm, mười tuổi. Chị Gấm có hai hàng răng ngọc và nụ cười thật hiền lúc nào cũng nở trên môi, ngay cả những khi buồn giận, hay lo sợ. Và chị Tâm, nghiêm trang như bà giáo so với mớ tuổi học trò của chị. Ba bao giờ cũng lu bu cơm áo. Còn năm người anh thì mịt mù rong ruổi trên khắp các chiến trường. Bé quá, bọn con nít như tôi làm sao hình dung được chiến trường là gì? Chúng tôi lại càng mù tịt về hai chữ chiến tranh. Không hình dung được, chỉ lờ mờ hiểu chiến tranh là cái gì ma quái như những đoàn lính ma, như lời nguyền của bà phù thủy trong truyện thần thoại. Với tôi, chiến tranh để lại một nỗi buồn man mác khi chợt nhớ đến những người anh vắng nhà hết năm này sang năm khác. Chúng tôi tranh nhau lớn lên như nòng nọc. Lớn lên trên sân cỏ với những buổi chiều đua nhau thả diều, những trò chơi trẻ con, nhảy dây, đánh đũa. Có một dạo, không thèm trò chơi con nít nữa, tôi trốn lên gác, rón rén trèo lên mái nhà nằm dài trên mái tôn đọc truyện, hay say mê ngắm những cụm mây tụ lại thành những hình thù, những nhân vật tưởng tượng kỳ dị. Chán, tôi bước lần mò trên những mái tôn qua nhà 22, nơi có cây mận um tùm, sai oằn từng chùm trái tròn trịa, xanh mởn. Cành lá xum xuê tỏa rộng. Tôi chỉ việc ngồi núp trong nhánh lá, bẻ từng chùm mận, nhâm nhi, trong bụng khoái chí như đã trả được mối thù nào đó với bốn anh em thằng Danh. Ngày này qua ngày khác, tôi lặng lẽ như mèo ăn vụng mà bà 22 chẳng bao giờ biết.
Bà 22 là một người đàn bà kỳ lạ, dữ dằn. Mỗi ngày, khi đến giờ cơm, cái bóng gầy khô của bà xuôi ngược khắp cư xá kêu réo anh em thằng Danh. Tiếng kêu của bà the thé, hung dữ. Khi kiếm được con, bà lẹ làng lượn đến bên chúng như con quạ, túm cổ lôi về. Thân hình dẹt như cá khô của bà vậy mà mạnh kinh khủng. Bốn anh em thằng Danh riu ríu, chịu trận dưới hai bàn tay tong teo, cứng như gọng kềm của mẹ chúng. Trái ngược bản chất phong lưu trác táng của chồng, ông Quận, bà 22 lúc nào cũng lam lũ như tôi mọi. Chưa ai thấy bà mặc một chiếc áo dài bao giờ, ngay cả trong những ngày Tết. Lúc nào cũng cái quần đen mốc thếch xắn lên khỏi mắt cá. Chiếc áo bà ba trắng ngả vàng. Tóc tai lúc nào cũng bối cẩu thả ra phía sau. Những nhánh tóc phía trước rũ rượi phủ xuống gương mặt cằn cổi trơ đôi mắt trắng dã,cá chết. Bà không giao du với bất cứ ai trong xóm, sống vất vưởng như một oan hồn, chăm chăm từng chút cho chồng con. Thằng Hoằng, thằng Danh hơn tôi vài ba tuổi. Hai anh em nghịch như quỷ, chuyên môn đi bắt thằn lằn để ngắt đuôi. Chúng khoái những cái đuôi thằn lằn mới ngắt còn dẫy tê tê, gớm ghiếc vô cùng, để dọa dẫm bọn con gái. Có khi chúng ném vào chúng tôi nên đứa con gái nào thấy anh em chúng là sợ xanh mặt. Nhưng chúng tôi sợ bà Quận, ghét anh em thằng Danh bao nhiêu thì càng khoái anh Bé Tuất, em trai ông Quận bấy nhiêu. Ðâu phải bé Tuất nhỏ nhít gì cho cam. Anh to lớn dềnh dàng như voi mà bị mọi người, ngay cả bọn con nít chúng tôi kêu bằng Bé mới đau.
Khi trời bắt đầu chạng vạng nhà nhà đã lên đèn, tiếng ễnh ương bắt đầu rền vang, tiếng mõ tiếng tụng kinh ê a từ Niệm Phật Ðường, cả bọn không ai bảo ai, cùng túa ra đi kiếm Bé Tuất bắt anh kể chuyện ma. Cả đám con nít chín mười đứa ngồi khoanh tròn trên sân cỏ, đứa nào đứa nấy co rúm, chờ đợi trong sự sợ hãi thích thú. Những con mắt lúc nhắm, lúc mở thao láo, náo nức chờ nghe anh kể chuyện. Chuyện nào anh kể cũng hay, cũng mới, dù đã kể đi kể lại nhiều lần. Thỉnh thoảng tới đoạn rùng rợn, cả bọn đang nín thở im phăng phắc thì bỗng nhiên bầy ễnh uơng lại ré lên, hoặc anh em thằng Danh đang trốn đâu đó nhảy xổ ra làm cả bọn la chói lói, hè nhau mắng mỏ, sỉ vả anh em nó không tiếc lời.
Tôi ít khi gặp ông Quận. Thỉnh thoảng, khi la cà với lũ bạn nhỏ trước sân, tôi vẫn thấy ông đi đi, về về. Mỗi lần ông lái chiếc xe jeep đến gần là thiên hạ đã nghe tiếng còi xe hách dịch, inh ỏi. Ông bấm còi bọn con nít đã đành, nhiều lúc ông đỏ mặt tía tai, phùng mang trợn mắt, bấm liên tu bất tận khi có cô nàng vịt xiêm nào đó đang ngang nhiên, chễm chệ bước từng bước nặng trịch trước đầu xe. Hôm nào may mắn không nghe tiếng còi xóc óc của ông thì lũ con nít chúng tôi cũng có đứa hoảng vía khi chiếc xe jeep của ông bay qua vũng nước mưa gần đó, bắn tung tóe cả sình lên bọn nhỏ. Hình như ông chả thèm nể nang ai nhưng đối với ba tôi bao giờ ông cũng dạ thưa rối rít. Mấy lúc gần đây, tôi vẫn thấy ông hay đưa đón cô Hường, con gái bà 25 mỗi ngày. Chiều chập choạng tối, ông ngồi cả giờ trên xe jeep chờ cô. Khi thấy bóng cô Hường thấp thoáng bên mái hiên, ông vội vàng phóng xuống xe đi vòng qua phía bên kia, rút khăn tay phủi vội phủi vàng lên mặt ghế. Không biết cô Hường làm gì, nhưng chiều chiều khi mọi người đã về nhà dùng xong bữa cơm chiều thì cô mới bắt đầu đi làm. Cô không có chồng, sống với bà mẹ trẻ măng và hai đứa con gái học trường đầm. Ðứa nhỏ, trạc bằng tuổi tôi. Trưa trưa, khi ba đón mấy chị em đi học về, tôi thường thấy cô nằm ỏng ẹo trên cái võng treo trước mái hiên. Cô hay mặc áo sát nách. Mỗi lần nằm dài trên võng, cô đưa cả hai tay lên đầu khoe hai nách tua tủa lông đen ngòm ngòm. Những lần như thế chị Tâm đều cau mặt, ném sang bên kia hàng rào cái nhìn sắc lịm của cô bé mới tập làm người lớn. Còn chị Gấm và tôi thì len lén nhìn gương mặt đỏ gấc vì say nắng của ba.
Cũng với thái độ nghiêm trang, ông kiên nhẫn đứng giữ cửa xe, mặt đờ đẫn theo dõi từng bước đi, từng cái dáng xoay nửa người khi cô cài then lên cánh cửa sau lưng. Và khi cài xong cánh cửa, cô làm như rất tình cờ, rất hoan hỉ khi nhìn thấy ông.
– Ủa! Sao đúng lúc quá vậy?
Ánh mắt cô reo vui và giọng nói dịu dàng không thể tưởng. Lần nào cô cũng đưa bàn tay ra cho ông đỡ lên xe. Mặt mày ông lúc đó sướng rân. Chờ cho cô Hường ngồi xuống, ông vội vàng ba chân bốn cẳng chạy vòng qua bên này. Leo lên xe, hất mái tóc trét đầy vaseline cứng ngắt ra phía sau rồi anh dũng nhấn ga vọt qua mấy ổ gà với nét mặt nghiêm chỉnh của một ông tướng sắp ra trận, không thèm đếm xỉa gì đến đôi mắt uất hận của vợ nhìn theo sau bức màn sáo.
Tôi không biết bà Quận bị trói dưới gốc mận từ bao giờ. Buổi chiều, đang rướn người nhất định hái cho được chùm mận với những trái to xanh mơn mởn chót vót trên cao thì tôi thấy bà Quận bên duới. Hai cánh tay bà bị treo ngược trên cành mận. Cả thân hình trần trụi, không một mảnh áo gần như hỏng khỏi mặt đất. Hai gót chân khô nứt rướn lên. Mái tóc bà xổ tung, rũ rượi. Cặp vú dài thòng, đong đưa hai miếng da, khô ngắt. Tấm lưng gầy đếm được từng đợt xương của bà dọc ngang những vết roi. Hai anh em thằng Danh đứng trong góc, rưng rức khóc. Ông Quận ngồi trên cái ghế đẩu gần đó. Áo sơ mi trắng tinh còn bỏ trong quần, ngực áo không gài, cà vạt vất ngược ra phía sau cổ, tay áo xắn lên, một tay cầm cây roi mây dài da bị tủa ra trên ngọn. Ông đưa tay quẹt những giọt mồ hôi trên trán, rồi lừ lừ, điêu luyện như một tên đao phủ thủ, vung ngọn roi lên vụt túi bụi vô người vợ. Hình ảnh đó không khác nào bức tranh ngoài niệm Phật đường vẽ cảnh ngài Mục Kiền Liên xuống hỏa ngục tìm mẹ và phải chứng kiến cảnh mẹ bị ngạ quỷ hành hình. Lạ một điều, cũng như bức tranh kia, những người bên dưới chỉ âm thầm khóc. Không một tiếng khóc lớn. Không một tiếng rên la. Mọi việc đều diễn tiến âm thầm, giấu kín. Tôi chỉ nghe tiếng roi lướt đi trong gió, xào xạc như cành mận đang lay. Tiếng người đàn ông đều đều, nhẹ nhàng như đang nói chuyện:
– Con quỷ! Sao cứ theo ám tao hoài vậy?
– …
– Mầy nói gì với người ta? Nói mau!
– …
– Coi cái tướng ngạ quỷ của mày kìa! Vậy mà cũng bày đặt ghen tương này nọ.
– …
– Mày biểu tao ăn nói với người ta làm sao đây? Bây giờ mặt mũi nào tao dám nhìn người ta được cơ chứ?
Mỗi lần câu nói chưa dứt thì ngọn roi đã quấn chặt lấy người đàn bà như con rắn đói. Hai đứa con trai cúi gầm mặt xuống không dám nhìn bố mẹ, nước mắt nhỏ từng giọt. Ngay lúc đó, bé Tuất bỗng hiện ra. Cánh tay to lớn của anh vươn ra chụp lấy ngọn roi. Giọng anh nhỏ nhẹ:
– Ðủ rồi, anh Hai!
– Tránh ra! Không được xía vô chuyện của tao!
– Tha cho chỉ đi!
– Buông! Cút đi! Mầy không buông ra, cả cái mạng mầy cũng sẽ không còn!
– …
– Mở mắt ra coi tao dạy chị Hai mày!
– …
– Trong nhà này, đứa nào cãi lời tao thì đừng hòng sống!
Bé Tuất lẳng lặng ngồi xuống. Mặt cúi gầm. Năm phút rồi mười phút trôi qua. Người đàn bà vẫn cong rướn người lên như con giun, hứng trọn từng lằn roi. Mỗi lần cánh tay người đàn ông vung lên, ngọn roi trườn tới táp từng miếng thịt của người đàn bà đến bật máu. Từng tiếng rên bật ra sau hai hàm răng nghiến chặt.
– Anh Bé Tuất kìa! Cho anh đi chung được không?
Lập tức, chị Tâm liền cau mày. Còn chị Gấm thì sa sầm nét mặt, vùng vằng:
– Kệ “nó”! Ði mau lên!
Len lén nhìn anh Bé Tuất một mình lầm lũi phía sau, đôi mắt vẫn theo sát mấy chị em, tôi bỗng đâm ra “bất nhẫn” ngang xương, nên ráng kỳ kèo:
– Cho ảnh đi cho vui mà! Ảnh kể chuyện hay lắm!
Chị Tâm gắt lên:
– Con nít con nôi mà nhiều chuyện! Có đi nhanh lên không thì bảo.
– Bé quay lại coi “nó’ đâu rồi?
Tôi láu táu:
– “Nó” sắp tới sát bên rồi!
Chị Tâm quay sang tôi trừng mắt:
– Nó”! “Nó” cái gì? Ðừng có hỗn!
Tôi ngơ ngác, nhăn mặt. Chị nói như thánh phán:
– Bé còn nhỏ, không được gọi “nó” là “nó”. Biết chưa?
Tôi làm thinh chẳng hiểu mô tê gì. Thật ra anh Bé Tuất lớn hơn hai chị của tôi chứ bộ! Chị Gấm lo sợ, nhìn chị Tâm cầu cứu:
– Bây giờ làm sao? Ba biết được thì chết!
– Chị lấy thước ra đi! Nếu “nó” mà tới thì mình “cảnh cáo” nó trước.
Chị Gấm nhăn mặt:
– Cảnh cáo làm sao?
– Thì chị nói: “Mày theo tao hoài, tao méc ba tao, lúc đó đừng có trách”.
– Nếu nó giở trò chọc ghẹo thì sao?
– “Nó” mà lộn xộn thì lấy thước đập liền!
Chị Gấm gật đầu, lật đật mở cặp táp da, lôi cây thước kẽ ra. Hai bà chị lăm lăm hai cây thước kẽ trong tay, sẵn sàng trong thế tử thủ. Tôi hồi hộp, riu ríu theo hai chị, trong lòng chỉ mong sao cho anh Bé Tuất đừng đuổi theo kịp.

– Bé đưa cái này cho chị Gấm giúp anh được không?
Tôi cầm lấy, ngơ ngác, nhưng vẫn gật đầu:
– Ðược.
Anh có vẻ lo âu:
– Ðừng cho ai biết nghe không!
– Em biết rồi!
Tôi xoay người chưa kịp chạy đã bị anh níu lại:
– Nói chị Gấm … phải trả lời anh nghe!
– Anh Bé Tuất biểu em đưa chị.
Chị Gấm giẫy nẩy:
– Ðưa chị làm chi?
Chị Tâm ngửng mặt lên khỏi quyển vở, đôi mày nhíu lại. Thấy lá thư, chị phóng tới như chớp.
– Gì vậy?
– Anh Bé Tuất biểu em đưa chị Gấm cái đó.
Chị Tâm cầm lá thư lên cười, không quên ký đầu con em một cái, kèm theo lời hăm dọa:
– Ðã bảo không được nhiều chuyện. Ai biểu gì cũng làm. Tao méc Ba bây giờ!
Nghe tới Ba, tôi lủi liền tay. Bỏ mặc hai chị chụm đầu vào nhau to nhỏ, rúc rích cười cả đêm.
– Cái thằng… cái thằng quỷ sứ ấy!
– Chuyện gì vậy?
Gương mặt chị Gấm đổi từ xanh qua đỏ, từ đỏ qua xanh như con cắc kè. Giọng chị tức tửi:
– Cái thằng Bé Tuất ấy! Nó chận tao ngoài… cầu tiêu!
– “Nó” muốn gì?
– Ai biết gì “nó”. “Nó” nói sắp đi xa gì đó… rồi “nó” còn nói “nó” thương tao nữa!
Chị Tâm ôm bụng cười rũ rượi:
– Trời ơi! Sao cái thằng cù lần thế! Nhè cái lúc người ta đi… ị mà tỏ tình thì đúng là hắn “bí” lắm rồi! Xui cho hắn gặp ngay lúc nàng cũng đang “táo bón” nữa mới chết người cơ chứ!
Tôi gật đầu:
– Dạ, anh tôi không có nhà.
– Tui… tui không muốn kiếm ổng. Tui muốn kiếm gia đình của ông đó mà!
– Anh kiếm đúng nhà rồi.
Người lính gãi tai, mặt mày khổ sở:
– Ông Thầy… Ông Thầy ổng … chết rồi!
Tôi mở tròn xoe mắt:
– Ông thầy nào? Tại sao chết?
Người lính bối rối:
– Ổng … ổng bị đạn… ổng chết.

– Nhà tôi có bao nhiêu người mấy cậu biết rồi. Năm đứa con đi lính, chết hai còn ba. Mấy cậu xét cái gì mà đêm nào cũng đòi xét?
Gã con trai lớn nhất trong bọn xếp tờ sổ gia đình đưa cho Ba, liếc nhanh về phía hai chị tôi:
– Bác thông cảm!
Mấy tên loắt choắt phía sau thì thào:
– Nhà có con gái mới xét chứ lị!
Ba quay phắt lại, đôi mắt tóe lửa. Cả bọn tảng lờ, giả vờ tìm kiếm sục sạo một chập nữa mới chịu kéo nhau đi.
– A, anh Bé Tuất!
Anh Bé Tuất ngồi trên xe, chống một chân xuống đất, cười lớn tiếng:
– Bé đó hả? Trời ơi, vậy mà anh tưởng cô nào. Suýt nữa là nhận không ra.
Tôi cười lặng thinh. Anh nheo mắt:
– Còn sợ ma không?
Con bé nguýt dài, chu mỏ, nói cộc lốc:
– Hết rồi!
Chị Gấm cười chen vào:
– Nó mà sợ ma? Ma sợ nó thì có!
– Mày về hồi nào vậy?
Anh Bé Tuất nhăn mặt, giọng năn nỉ:
– Thôi mà Gấm! Lớn hết rồi, đừng “mày tao” nữa. Ðâu còn nhỏ nhít gì!
Chị tôi sượng sùng, khựng lại một giây, cười thật hiền:
– Ừ, không mày tao nữa! Vào nhà chơi đi!
Anh Bé Tuất ngập ngừng:
– Gấm còn giận tôi không?
Chị tôi ngơ ngác:
– Giận chuyện gì?
– Chuyện… chuyện tôi theo Gấm lúc trước!
– Không! Chỉ thấy bực vì… kỳ cục!
– Nghe nói Gấm sắp lấy chồng hả?
– Ừ!
– Lấy ai?
– Không Quân!
– Tôi về để uống rượu mừng đây! Có cho không?
– Uống líp! Vào nhà đi, nắng lắm!
– Không sao…
– Dựng xe lại, vào chơi tí cho mát!
– Tôi đi ngay mà …
– Thì vào tí đã! Ngồi đây nhìn ra, nắng chói mắt lắm!
– Gấm ra đây sẽ không bị chói. Tôi không vào đâu!
– Vậy thôi! Ngồi đây được rồi.
– Ra đây đi! Tôi muốn Gấm coi cái này.
– Chừng nào đi?
– Không đi nữa!
– Sao vậy? Tính trốn hả?
– Ðâu cần trốn!
– Ðổi về đây hả?
Anh Bé Tuất cười méo mó:
– Không… Gấm đi vòng sang bên này thì biết!
Chị mở tròn xoe đôi mắt, miệng vẫn cười . Anh Bé Tuất giục giã:
– Qua phía bên này đi!

– Trời ơi! Bị từ bao giờ?
– Lâu rồi! Có sao đâu Gấm, không chết là may rồi!
– …
– Mất bàn chân nhằm nhò gì. Còn lái xe được mà!
Chị tôi đứng lặng người không nói. Bóng chị chao đi, lung linh dưới cơn nắng. Giọng anh Bé Tuất chùng xuống:
– Phải chi chúng mình vẫn như ngày nào, đừng bao giờ lớn Gấm hả! Như thế, Gấm sẽ không bao giờ lấy chồng, và tôi sẽ… Mà thôi, tất cả đều là số mạng! Ðâu có ai mà tránh khỏi! Tôi về lần này chỉ để nói với Gấm rằng, tôi mong Gấm sẽ được nhiều hạnh phúc!
Ðến giờ rước dâu, nhìn dáng chị quay đi, chân giẫm trên những xác pháo hồng tơi tả, tôi bỗng nhiên nhớ đến anh Bé Tuất và những chùm hoa mận rụng trắng sân gạch đỏ ngày xưa. Và ngay lúc đó, tôi mơ hồ thấy bầu trời bỗng ngả sang một mầu tím ngăn ngắt. Tôi nghe tiếng gió lướt vùn vụt trên cành lá mận, trườn quanh lớp vỏ cây sần sùi, khô cứng. Gió liếm từng giọt nhựa rỉ rỉ, nâu nâu như màu máu bầm, đặc quánh. Tôi thấy những chùm hoa mận trắng toát run lên bên màu lá xanh biếc, rồi lảo đảo trong gió. Và tôi bỗng ước gì tất cả những đứa con nít trên đất nước này sẽ không bao giờ trưởng thành, và chị của tôi đừng bao giờ lấy chồng…
Hoàng Thị Bích Ti