User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

Mien Nam 5

Câu sông

Câu cá cũng nhiều kiểu cách, câu sông, câu rạch, câu ruộng, câu đìa tùy theo loại cá mình muốn câu tùy thời gian ngày hay đêm. Câu sông theo con nước, muốn bắt cá lớn có hai loại thông thường là cá lăng, cá bông lau. Phải có dây dài và chắc, quấn trên một miếng ván dài ba tấc, hai đầu khuyết sâu để cuốn chỉ vào đó. Lưỡi câu lớn, mồi to, cột thêm cục chì nặng, nhà quê không có chì thường lượm sắt vụn, thậm chí cột một chùm đinh nặng chừng 5 hoặc 10 gờ-ram. Khác với ngày nay cần câu có máy quay, có chỉ nylon rắn chắc đủ cỡ lớn nhỏ, có chì nặng nhẹ hình tròn hình dài, có lưỡi dành cho đủ loại cá.

Thời tôi còn nhỏ người câu cầm dây có chì nặng quay vòng vòng để lấy trớn quăng mồi thật xa ra sông chìm ngấm tận đáy. Thời đó tôi chưa có sức cũng chưa biết quay chì để lấy trớn nên mồi không đi xa, tôi chỉ bắt được cá út bằng cườm tay là thường, nhưng cũng có đôi ba lần may mắn bắt được cá bông lau nặng một hai ký. Những lần đó cả nhà và anh em chúng tôi xúm nhau bàn tán. Người thì nói con cá đó nó đui nên lội ngang vướng câu, người thì nói số mạng tôi lớn nên Hà Bá sợ mới bắt cá móc vào câu tặng tôi, người thì nói chó dắt gặp may! Sự thật có lẽ cá đói vào bờ kiếm ăn hay vì nước chảy mạnh giữa dòng sông cá nhỏ trốn vào bờ nước yếu dễ bơi, cũng có thể nó đi tìm những trái bần chín mùi từ trên cây rụng xuống, nổi lình bình trên mặt nước hay chúng nó đi tìm những con vật chết trôi chết nổi ven bờ.

Có một lần tôi thấy ông Hương Lễ, tên Tự, câu một con cá bông lau nó lôi quá mạnh ông cầm dây tuốt rát tay rướm máu, ông phải cởi áo quấn vào tay để chịu trận. Vừa cầm dây ông vừa la bài hãi có lúc ông quýnh quáng la: bớ làng xóm ơi! Nhưng kịp thấy mình hố nên sửa lại bớ “bà con” ơi. Bởi vì câu bớ làng xóm là chỉ để kêu cấp cứu hay báo động mà thôi. Thiên hạ ở gần xóm nghe la xúm nhau bu quanh ông Tự. Chừng đó ông lấy lại bình tĩnh huênh hoang tự hào: “Con cá quá bự bà con ơi, quá bự, tôi gặp vận may rồi, quá bự, con heo con hay con bò con đây? Bán con cá nầy gia đình tôi mua gạo ăn cả tháng vân vân và vân vân. “Bà con”, trong đó có tôi nôn nóng chờ xem con gì mà to dữ vậy? Giằng co mãi gần nửa giờ con cá mệt đừ ông Tự mới lôi được nó vào bờ. Không cân nhưng ai cũng đoán mò con cá nầy phải trên mười kí, dài hơn một thước. Ông Tự phải chạy về nhà lấy dây cột đầu và đuôi mượn người cầm đầu cây phụ khiêng cá về nhà vì ông không muốn lôi nó lết bết trên đất làm trầy da con cá khó bán. Tôi về nhà thuật chưa hết chuyện ông Tự câu được cá bông lau trên mười kí thì bà Hương Lễ Tự đầu đội khăn vằn tay bưng rổ cá khứa sẵn từng khứa đem vào nhà tôi bán. Ông nội tôi nghe nói bước ra sân chắt lưỡi mỉm cười nói với bà nội: Bà biểu sắp nhỏ mua giùm cho thím Hương Lễ ba khứa đi, lựa khứa bụng có mỡ ngon chiều nấu canh chua.

Câu cắm

camcau2

Câu cắm là một thú vui khác, nó khá nhộn nhịp, hồi hộp, hấp dẫn, có khi cũng mệt nếu khi nào có cá nhiều. Cần câu cắm ngắn, làm bằng tre thật già chẻ ra từng cọng bằng ngón tay út. Vót bỏ ruột tre của phân nửa thân trên, chỉ chừa vỏ tre cứng dịu, quặt lên quặt xuống dễ dàng, đầu cần chừa một mắt nhỏ để thắt dây câu vào không bị tuột. Phân nửa thân dưới người ta vót nhọn gốc cây câu để dễ cắm vào đất mềm của bờ ruộng. Dây câu ngắn có tra lưỡi vào, ngay một phần ba đầu dưới cần câu có một vòng dây cột ngang dùng để móc lưỡi câu vào trong tư thế nghỉ câu. Tư thế nầy giống như một cây cung nhỏ bị bẻ công một phần ba đầu trên.

Anh em chúng tôi không đứa nào biết chuốt cần câu cắm. Mấy chú giúp việc trong nhà chỉ vót giùm vài ba cần để cắm quanh nhà chơi mà thôi. Vì thế kỳ nghỉ hè năm đó anh Năm và tôi quyết định đặt mua một trăm cần. Chúng tôi lựa đêm tối trời, cá dạn ăn hơn là khi có trăng sáng. Anh Năm quẩy đục lớn chờ đựng cá, đục nhỏ đựng nhái con, gáo dừa đựng trùng nằm dưới một lớp đất. Tôi mang nóp đi theo vào sở ruộng Ðìa Sen, ruộng sâu của nhà, tá điền là ông sáu Mọi.
Cắm câu người ta móc mồi trùng hay mồi nhái, sau đó cắm chặt gốc cần vào bờ đê ruộng, lưỡi câu và mồi chìm xấp xỉ dưới mặt nước. Nếu là mồi nhái thì chỉ móc vào đùi nó để cho con nhái nhảy vọt tới vọt lui khêu gợi cá lóc vồ nó cho sớm.

Mỗi lần cắm câu người ta thường mang theo năm bảy chục hay một trăm cần, có người cắm tới hai trăm cần trên một bờ đê dài mấy trăm thước. Chúng tôi cắm mỗi cần dang xa gần hai thước, cắm xong một trăm cần trời mới chạng vạng tối. Vậy mà giữa lúc đang cắm nghe đầu kia cá mắc câu giãy lủm chủm phải bỏ chạy tới đó gỡ bỏ vào đục, đậy nắp kỹ, thả xuống nước ngâm cho nó sống. Thế rồi anh Năm và tôi thay phiên nhau chạy nhanh hết đầu nầy đến đầu khác, có khi hai đứa đang gỡ cá mà nghe có chỗ nào đó giãy lủm chủm gỡ không kịp. Nhưng cũng trong một thời gian ngắn thôi, rồi chúng tôi lại trải nóp ngồi vui sướng kiểm điểm sự thắng lợi.
- Ðêm nay coi bộ khai trương có nhiều khách hàng đó mầy.
- Nhiều cá thì ham thiệt mà sao thấy hồi hộp tim đập thình thình. Nhứt là khi nó giãy một lượt hai ba con sợ gỡ không kịp nó sút.
Lại lủm chủm nữa, tiếng giãy khá mạnh, có lẽ cá lớn, anh Năm chạy gỡ, tiếng anh vọng từ xa, đúng rồi cá lóc lớn hơn cườm tay.

Cái khoái lạc của sự thành công nó lâng lâng trong người, cái hồi hộp chờ đợi còn làm tăng thêm niềm vui sướng. Tôi không biết những người cắm câu bắt cá bán để nuôi gia đình có cảm giác như thế nào? Có lẽ ngoài cái sung sướng nắm được con cá trong tay còn cái vui, cái an ủi là sẽ có được thêm ít tiền. Ngoài cái hồi hộp chờ cá cắn câu giãy lủm chủm họ còn ước mơ nghe được nghe tiếng giãy thường hơn nữa. Họ tưởng tượng vợ con sẽ vui mừng. Chắc sự thưởng thức của họ nhiều hơn và sâu đậm hơn sự vui mừng của tôi. Hay là cũng có thể giống nhau, vì khi đứng nhìn một “chiến lợi phẩm” cường độ vui mừng chắc cũng giống nhau trong khoảnh khắc đó.
Riêng tôi, ngoài những con cá bắt được, còn có mùi thơm cỏ lúa của đồng quê mà tôi đã từng hít thở từ lúc mới lên năm lên mười, cảnh vật buổi hoàng hôn chiều xuống tối dần, gió thoảng sương lạnh, muôn ngàn sao lấp lánh trên nền trời tối đen. Tất cả những thứ đó nó in sâu trong đầu tôi, nó gợi nhớ gợi thương những lúc xa quê hương tôi cảm thấy chạnh lòng.

Ruộng sâu, lúa cao, muỗi nhiều. Chúng tôi đứa nào cũng mặc quần đùi áo tay ngắn, cả hai đập xành xạch nhưng chưa đứa nào chịu chung vô nóp vì còn muống nghe tiếng cá giãy dù là đã thưa dần. Trời về khuya sương càng lạnh hai anh em tôi đành chui vào nóp. Nằm yên, cơn ngủ ru tôi vào giấc lúc nào không hay biết. Hừng sáng anh Năm đánh thức tôi dậy.
- Mầy ngủ như chết, đêm hồi hôm tao còn đi gỡ thêm hai con nữa, toàn cá trê.
Chúng tôi quảy cá về nhà, phân chia cho đầu nầy vài con đầu kia vài con, hãnh diện khoe rằng chúng tôi cũng thuộc vào thợ câu chớ có phải là công tử bột đâu. Kỳ thật câu là một thú vui đặt biệt, một sự đam mê mà những lúc bãi trường chúng tôi bỏ mặc những “bài làm hè”, phải góp khi vào lớp lúc tựu trường. Năm nào tôi cũng bị phạt quì gối vì có làm bài đâu mà góp. Nhưng lúc quì gối tôi sung sướng hồi tưởng lại những thú vui hưởng được trong kỳ nghỉ hè. Bây giờ nhớ lại thời thơ ấu, tôi cảm thấy lâng lâng buồn muốn sống lại những ngày đã qua nhưng vĩnh viễn không bao giờ đi ngược thời gian được!

Những trái nhãn lồng, chùm giuộc, trứng cá là niềm vui của tuổi trẻ ở nhà quê

Con nhà giàu hay con nhà nghèo ở thôn quê chỉ khác nhau khi tối về nhà cha mẹ, đứa được nuông chìu ăn ngon ngủ kỹ, đứa chỉ có đủ cơm no bụng, chăn gối mùng mền tả tơi rách rưới. Nhưng ban ngày khi chúng chạy rong trong làng tìm bạn vui chơi với nhau thì thằng nào cũng như thằng nấy. Mấy đứa con nhà giàu thường lâm vào thế hạ phong bởi vì chúng nó không thuộc đường đi nước bước, không biết hang cùng ngõ hẻm, nơi nào có cây có trái, chỗ nào có thể hái trộm, trái nào ăn được, trái nào không. Thời còn thơ ấu tôi thích nhứt là đi chơi với thằng Có, nó chăn bầy trâu của ông Hương Quản, tên Họa, ở gần nhà tôi.

Thằng Có nó biết rành nhà của ai có cây chùm giuộc ở sát mí rào, nhà của ông bà nào có cây trứng cá, de nhánh ra đường, mồ mả của ông Bái Ba có nhiều cây trứng cá che mát toàn khu mộ, trái chín đầy, chim trao trảo ăn không hết. Những tháng nghỉ hè từ trường Saint Joseph ở Mỹ Tho về làng, sáng hôm sau là tôi đi kiếm thằng Có. Chúng tôi hẹn nhau vào những buổi chiều nắng nhẹ khi thì ngoài ruộng gần Mỏ Neo, khi thì trên giồng cỏ gần nhà bác Hai Châu. Bởi vì buổi trưa trời nắng chang chang, ra khỏi nhà là bị rầy, có khi còn bị hăm sẽ ăn đòn nếu người nhà thấy tôi dang nắng đầu trần.

cuoitrau

Việc trước tiên và hấp dẫn nhứt đối với tôi là cỡi trâu. Bởi vì khi tôi còn học trường làng, thầy Tư Nhơn bắt phải học thuộc lòng bài:

Ai bảo chăn trâu là khổ?
Không, chăn trâu sướng lắm chớ!
Ðầu đội nón mê như che lọng
Tay cầm cành tre như roi ngựa
Ngất nghểu trên mình trâu

Hai câu trên nó in sâu trong đầu và có những lúc ngán học, lười biếng tôi tự nhủ: Thà đi chăn trâu tôi cũng bằng lòng, còn hơn phải học nhọc nhằn với chữ nghĩa, cộng trừ nhơn chia.
Thằng Có đỡ tôi ngồi trên lưng trâu rồi nó thót lên ngồi sau vịn sợ tôi té. Con trâu đi chậm rãi nhưng cái lưng của nó lớn quá, hai chân tôi thì ngắn nhỏ không kẹp được vào đâu, không đạp vào chỗ nào để giữ được thăng bằng. Vậy mà sao thằng Có nó ngồi vắt võng vững vàng như không. Tin vào bàn tay của nó vịn trên vai, tôi yên lòng ngắm cảnh đẹp của nắng chiều bao trùm cánh đồng rộng mênh mông trước mắt, tôi khoan khoái hưởng cái mát dịu của gió nhẹ lay động mấy ngọn trâm bầu hay cây me keo, tôi hít thở mùi rơm rạ, mùi bông bắp, mùi mạ non, xen lẫn mùi hôi trâu mà bây giờ nhớ lại tôi hình dung rõ, phân biệt được mùi hương của từng thứ như tôi đang sống trong cảnh vật đó dù là tưởng tượng.

Thằng Có và tôi thường hái trứng cá ở khu mộ ông Hương Bái, thường gọi là Bái Ba. Nó thích ăn thứ trái đó còn tôi thì ưa những trái nhãn lồng chín vàng, ruột chua chua ngọt ngọt thắm mát miệng. Cũng có khi tính con nít muốn phá làng phá xóm thằng Có rủ tôi đi hái trộm chùm giuộc. Nhà ông Hương Cả tên Hộ, con của ông Bái Ba, có cây chùm giuộc chua ở gần mé rào nó có thể chui qua hàng rào cây dúi vào hái được. Ăn chua lè chua lét mà nó nhai luôn cả hột nghe giòn rụm, ngốn ngáo thấy phát thèm, bây giờ nghĩ lại vị chua tôi còn nhỏ dãi rùng mình.

Sâu tuốt phía trong gần nhà có cây chùm giuộc ngọt, thằng Có nói khó ăn cắp lắm vì nhà nầy có chó. Nó nói lâu lâu mầy về chơi tao cũng liều hái cho mầy vài trái thử coi được không. Nó bỏ trâu ăn trên mé giồng xa, hai đứa đi hái trộm trái cây của người ta, một trò nghịch ngợm lý thú nhưng tôi hồi hộp lo sợ quá. Còn thằng Có tỉnh bơ cười chúm chím lộ vẻ anh hùng coi chuyện nguy hiểm “như pha”. Vừa nghe nó nói vào sâu trong sân nhà có chó là tôi tản đi xa, trở về phía bầy trâu 5 con đang ăn trên mé đồng. Ði chưa được bao xa là tôi nghe tiếng chó sủa, nhìn lại thấy thằng Có chạy trối chết tay cầm một nắm vật gì trắng có đất có lá tôi đoán là chùm giuộc. Thì ra anh ta bị chó phát hiện hoảng hồn, hốt đại một nắm trái cây rụng dưới đất chạy ù ra, chui càn qua hàng rào dúi, bị cây cào tét tay áo, sướt thịt rướm máu, nhưng miệng nó cười toe toét đưa tôi mấy trái cát bụi dính đầy: Cho mầy nè, mầy ăn chua không được thì có trái ngọt đây. Ba trái còn nguyên, hai ba trái khác thúi giập bỏ đi, tôi chùi hai trái bỏ vào miệng một trái còn một trái nhét vào mồm nó, trái kia tôi bỏ túi để dành.

Gặp lại bầy trâu, chúng nó đang liếm sang đầu hai hàng bắp non của người ta, thằng Có thất thanh chạy lại cầm roi tre quất bừa hết con nầy đến con khác, rượt chúng nó chạy thật xa ra giồng bỏ tôi lại một mình lủi thủi theo sau. Tới nơi nó nói không ra lời: Chết mẹ tao rồi, nếu ai biết được trâu tao ăn bắp của họ thì tao sẽ bị đòn nát đít.

Tội nghiệp thằng Có quá, chiều hôm đó đi chơi mất vui, nhưng cũng chiều hôm đó lòng tôi biết rung động vì tình bạn mặn nồng thắm thiết qua sự liều lĩnh hy sinh của thằng Có. Nó muốn tìm trái cây ngọt cho tôi nên chấp nhận rủi ro, có thể bị đòn. Bị đòn là cái chắc, vì ở miệt Giồng Lớn nầy có trâu ai ngoài trâu của ông Hương Quản Họa? Về nhà, tối ngủ tôi nhớ thằng Có và thương nó quá, nó nghèo phải đi ở đợ chăn trâu, mấy thằng con nít trong làng có đứa nào dám chơi với nó đâu? Con nhà khá giả đi chơi với chăn trâu là điều cấm kỵ. Mỗi khi đi chơi với thằng Có tôi phải lén trốn nhà vì khoái cỡi trâu. Cũng có lần anh Năm kiếm tôi không được, bắt gặp tôi đi chơi với thằng Có, anh méc cô Bảy tôi bị đòn, và nhiều lần bà dì ghẻ hửi thấy mùi trâu, biết tôi đi chơi với thằng Có bà méc cha, khi thì ông rầy la hăm he dữ dội, khi thì ông đánh cho mấy roi, khóc nhưng cũng không chừa. Bạn thân của thằng Có là 5 con trâu của ông Quản Họa. Cái bánh ngon nhứt nó được ăn là “bánh ít” mỗi khi có đám giỗ trong nhà ông chủ.

Ðôi khi trong nhà làm bánh, tôi bỏ túi vài cái bánh men bánh gai đem cho nó. Thằng Có mừng rỡ sáng mắt cười toe toét. Nó không nói cám ơn mà chỉ nói: Mầy giàu sướng quá có bánh ăn hoài. Nó ăn hai cái để dành mấy cái, nói là để dành chớ một hồi sau dằn cơn thèm không được, nó lấy ra nuốt hết. Nghĩ như vậy tôi thấy buồn, cái buồn của thằng con nít, không sâu sắc có lý có ý nghĩa, mà do tính ngây thơ nhẹ dạ, đã là con nít hễ vui thì cười, buồn thì khóc. Tôi không khóc nhưng nước mắt tràn ra khóe, quẹt đôi ba lần tay áo ẩm ướt.

Vớt cá lia thia

Mien Nam 6

Sau những trận mưa giông dữ dội, ruộng nổi nước khoảng hơn một tháng sau là có thể đi vớt cá lia thia ngoài đồng. Trẻ con ở nhà quê đa số đứa nào cũng biết vớt cá, đá cá lia thia. Trước khi đi vớt cá tôi phải chuẩn bị chai hũ sẵn ở nhà, lựa những chai không, cạn rượu, khô nước, trong trắng không có màu để cho mình dễ nhìn rõ vóc dáng và màu sắc con cá. Tuy nhiên lỗ chai nhỏ thì làm sao thả cá vô, vớt cá ra, thay nước, hay bỏ thức ăn vào cho nó được?

Do đó tôi phải cắt chai bằng cách tìm một cọng sắt nhỏ, bẻ cong thành khoanh tròn, đút vào đầu chai kéo xuống cho vừa tầm cao mình muốn, thường là giữa chai. Lấy cọng sắt ra đưa vào lửa nướng cho khoanh tròn nóng đỏ. Tròng khoanh tròn vào cổ chai kéo xuống vừa tầm mình định, nhúng liền chai và khoanh sắt trong chậu nước. Tai nghe tiếng rắc, chai nứt bể làm hai ngay chỗ khoanh sắt thắt ngang, cái chai trở thành một dụng cụ nuôi cá lý tưởng.

Cá nuôi trong nhà không thể dùng tay bắt nó vì lỡ tay bóp mạnh hư cá hoặc tróc vảy. Người ta thường dùng vải mùng may dính vào một khoanh kẽm tròn nhỏ thành cái vợt để vớt cá sang chai, sang chậu hay vớt lăng quăng, trùng chỉ, bỏ vào cho cá ăn. Muốn có chậu lớn nuôi những con cá quí thì phải mua, tôi cũng đua đòi mua hai ba chậu.

Vớt cá ngoài đồng bằng một rổ xúc lớn, lỗ thưa con tép nhỏ cũng không lọt ra ngoài, bề sâu cao hơn rổ thường. Thằng Tôn em tôi đi theo xách thùng có đựng sẵn nước. Chúng tôi đi dọc theo bờ ruộng nhìn kỹ những bụi cỏ hay lác, chỗ nào có một đốm bọt trắng bằng bàn tay hay nhỏ hơn là chỗ đó có cá lia thia nằm dưới đống bọt. Lội nhẹ xuống ruộng, từ từ đi gần sát đống bọt đặt miệng rổ thật nhanh cách bọt chừng hai ba tấc, chân trái đùa mạnh nước vào rổ, mười lần bắt được cá trống hai ba lần. Thường chỉ bắt được cá mái đang giữ ổ trứng, có khi bắt cả hai trống mái đang chuẩn bị làm tình, ít khi bắt được một mình cá trống, khi nào thấy đống bọt nhỏ thì biết nó đang nằm dưới đó nhả bọt làm nhà cho con mái sinh sản.

Tạo hóa sinh chim cá con trống thường có bông có mã đẹp, có tiếng hát điệu múa hay để chúng dễ khêu gợi phái nữ theo mình. Con cá lia thia trống có màu xanh, phướn đỏ, cá mái trắng chợt sọc rằn. Chúng tôi chỉ bắt cá trống đem về bỏ vào chai, lấy giấy ngăn không cho hai bên thấy nhau. Bởi vì thấy nhau là chúng phùng mang diệu qua diệu lại lấy trớn cắm đầu hả miệng xắn vào chai tưởng mình cắn được đối phương. Như vậy sẽ làm hư miệng cá và khi đá độ thật, nó dễ bị thua. Tuy nhiên lâu lâu cũng phải rút ngăn giấy ra để cho chúng nó sừng sộ phùng mang diệu võ dương oai tỏ thái độ hung hăng rồi ngăn trở lại liền. Ðó là cách duy trì tập dợt tính hung hăng đấu đá của chúng.

Thằng Tôn và tôi chia đôi, cá của đứa nào tự ý nuôi sóc và sẽ lựa chọn những con cá “ngon lành” nhứt của mình cho đá nhau. Bên nào thua phải cõng bên thắng ba vòng sân nhà, tương đối rộng lớn. Nuôi cá bằng những con lăng quăng, ấu trùng của muỗi. Món ăn ngon nhứt của cá lia thia là trùng chỉ, màu đỏ, ngắn nhỏ như sợi chỉ, loại trùng nầy tương đối khó kiếm, chỉ bắt gặp nó sống trong bùn sình, bùn non dưới đáy ao hồ. Tôi thường thay thế trùng chỉ bằng những con trùng con, tìm thấy khi đào trùng để câu cá. Trong mỗi lọ cá chúng tôi bỏ một vài cọng rong trứng xanh um nổi trên mặt nước như mái nhà che để cho cá núp dưới đó.

Ðôi khi chúng tôi cũng cho cá đẻ gọi là “ép cá” vì tính tò mò và cũng vì tuổi nhỏ bất cứ thứ gì lạ mà tôi không biết là muốn làm thử cho bằng được. Trước tiên phải tìm một cái “thạp da bò”, loại lu đựng chừng vài chục lít nước, bên ngoài của thạp sơn một lớp men màu vàng đục như da bò nên dân quê làng tôi gọi là thạp da bò. Ðổ nước vào đó hơn nửa lu, bỏ rong vào cho nhiều rồi lựa hai ba con cá mái bụng to có nghĩa là chúng đang mang bụng trứng, cộng với một con cá trống mà thôi, thả tất cả vào lu. Khi nào thấy có một về bọt tương đối lớn, gần bằng bàn tay, bọt nhỏ mịn hơn bình thường, dầy đặt nổi trên mặt nước, là đã có cá đẻ rồi. Muốn chắc cá đã đẻ hay chưa thì lấy cọng tre đưa vào phía dưới bọt kéo lên nhiều lần xem có trứng dính vào đó không? Nếu có thì phải vớt ngay con cá trống ra nếu không chính nó sẽ ăn những con cá con mới nở.

Muốn đá cá chúng tôi vớt hai con bỏ vào một chậu lớn đủ rộng cho hai võ sĩ quyết đấu ăn thua. Cá trống màu xanh phướn đỏ thật đẹp vậy mà khi thua bỏ chạy nó đổi màu trắng nhợt vì sợ hãi hùng, hết biết đường chạy đụng vào vách chậu lung tung trong khi đối phương hung hăng rượt cắn trối chết. Thú vui là nhìn hai con cá cắn nhau đứt vi, đứt phướn, tróc vảy. Và nhứt là khi hai con đều xắn mạnh vào nhau hai miệng cá bị răng kẹp dính nhau, gọi là “khấu”, chúng lắt lư hồi lâu mới nhả ra được. Khi cá của mình thắng thì vỗ tay la ó miệng cứ nhắc ba vòng sân. Khi thua mặt bí xị hăm he lần sau sẽ trả thù. Ðá cá chỉ đơn giản như vậy mà hai anh em chúng tôi say mê năm nào hễ đến mùa là chuẩn bị đi hớt cá.

liathia 06

Thú vui nuôi cá lia thia là nhìn chúng nó phùng mang vươn phướn đá bóng khi mình kéo tấm giấy ngăn qua một bên. Và vui sướng nhứt là khi đá độ mình thắng cuộc. Tuy còn nhỏ chơi với anh em trong nhà không ăn thua tiền bạc nhưng sự hãnh diện thắng cuộc nó đốt cháy sự tự ái trong lòng và kích thích mình ra công chịu khó o bế con cá như người ta đấm bóp võ sĩ trước khi lên đài... Phải chăng từ đó mà nẩy sinh những sự đam mê trong lòng của tuổi trẻ ngay khi còn vui đùa với bạn bè lúc ấu thơ?
Tôi cũng từng theo người lớn tham dự những trận đá cá ăn tiền ly kỳ thú vị, tôi cũng từng nghe các bác bài vẽ những mánh khóa làm cho cá sung hung dữ và khi cá bị tróc vi trầy vảy thì đem về nên thả vào nước có bỏ thêm một chút xíu muối để làm cho kỳ vi của cá mau lành, vảy cá mau ra trở lại. Nhưng nếu bỏ muối quá nhiều có thể làm hai con mắt cá bị hư gọi là “nổ mắt” thậm chí cá bị ngất ngư hay chết.
Có rất nhiều loại cá lia thia, cá phướn đẹp nhưng không phải loại đá độ hung dữ, cá xiêm to con màu xanh biết, cá đồng, cá xiêm lai với cá đồng là loại đấu đá hay nhứt. Tại Fresno, có nhiều người Mường (Hmong) ưa thích đá cá ăn tiền. Có những tiệm chuyên môn bán cá đá và loại cá giá mắc nhứt là loại cá mua từ Việt Nam. Thật là một điều lạ qua nước Mỹ nầy tôi mới biết.

Tát đìa

tatdia

Trong bài viết về bắt cá cạn tôi đã tả sơ cái đìa là một ao lớn thật sâu nằm giữa đồng ruộng, hai bên bờ trồng cây che mát, hai đầu để trống gọi là miệng đìa, người ta vét đất lài từ mí ruộng xuống ao sâu để cho cá dễ xuống đìa vào mùa khô. Gia đình tôi có ba cái đìa: Ðìa Sen dù không có cây sen nào nhưng vẫn gọi là đìa Sen, Ðìa Lá gần mương đầy cây dừa nước gọi là đìa lá. Ðìa Bầu có cây trâm bầu to lớn mọc quanh bờ che mát. Ðìa nhiều cá nhứt là đìa Sen nằm giữa ruộng sâu mênh mông, mùa khô cá rút về đó thấy sẵn có ao to đúng là nơi trú ẩn lý tưởng trong mùa khô.

Mỗi năm khoảng tháng Chạp khi gió có mùi hương lạ, mùi rơm ra ẩm ước, mùi đồng lúa mới gặt xong, nhà tôi gọi đó là gió Tết; là thời gian phải chuẩn bị tát đìa vì cũng là lúc dân làng rảnh việc nên dễ huy động những tay lực lưỡng tham gia tát nước. Trước khi tát đìa nhiều việc cần phải chuẩn bị:
1 - Dọn sẵn chừng 20 cái lu bự còn gọi là máy lớn chứa đầy nước để rọng cá.
2 - Kiểm soát lại những giỏ có bề sâu dùng đựng hay gánh cá đi đường xa. Dây quay phải thật chắc, thường làm bằng lạc dừa.
3 - Ðường di chuyển cá từ đìa về đến nhà tôi khá xa. Tôi thấy có sẵn một đôi trâu kéo “cộ” trên sàng cộ có lót lá chầm và bốn bên dừng lá cao hơn một thước. Cộ là một loại xe bằng cây thấp, cao hơn mặt đất chừng 5 tấc. Bề ngang một thước rưỡi hoặc hai thước, dài ba thước. Bánh xe được thay thế bằng hai cây đà dọc thật to, đầu cong quớt cao để lướt qua những bờ đê của ruộng, mặt cộ lót những cây ngang kềm cứng. Người ta thường dùng cộ để kéo lúa, cộ rơm từ ruộng về nhà. Trâu kéo cộ đi trên ruộng đất khô nẻ lồi lõm cũng giống như chó kéo xe trợt tuyết đi chậm mà ta thường thấy trong TV hay Cinéma.
4 - Tuyển đủ nhân công để tát nước, ít nhứt từ 16 đến 20 người.
5 - Phải có sẵn hai “gàu sòng”, phòng khi một bị hư. Gàu sòng làm bằng nan tre đương thật khít, sơn bít bằng dầu hắc hay dầu chay, múc nước vào không chảy. Ðầu trên miệng lớn, tròn bằng một ôm tay đường kính chừng 6 tấc, dài sáu bảy tấc, đít gàu tóp nhỏ dần cuối đáy chỉ còn chừng 3 tấc. Miệng gàu kết một cây ngang thật cứng chắc, đít gàu cũng vậy. Người ta cột vào hai đầu cây ngang trên miệng và dưới đay mỗi bên hai sợi dây dài bện bằng lạc dừa thật rắn chắc, hoặc dây lượt xe đánh bằng xơ của vỏ dừa. Dù chắc mấy cũng phải có dây phòng hờ khi bị đứt. Bốn đầu dây cột vào một khúc cây ngắn chừng một tấc dùng làm tay cầm.
6 - Dọn chỗ ngồi trên bờ ao thật trống trải thoải mái cho những cặp “tát sòng” rộng đường xoay trở và có chỗ để họ trải nóp ngủ đêm.
7 - Vét một cái giếng cạn có nước vừa đủ để giội rửa cá cho hết bùn khi gánh đi hay cộ về.
8 - Nhân công bắt cặp, tay đôi. Khi tát hai người ngồi xa nhau, tay mặt cầm dây cột miệng trên của gàu, tay trái cầm dây cột đít dưới của gàu. Hai người cầm dây căng thẳng cái gàu, rùng xuống hất gàu ra xa chạm mặt nước, tay trái kéo lên tay mặt hạ xuống, cái gàu ụp vào nước múc vô đầy, tay mặt kéo mạnh lên, tay trái hạ theo rồi hai người cùng một lượt đưa gàu nước ra khỏi miệng ao, tay trái căng thẳng dỡ hỏng đít gàu đổ nước ra hết, rồi cứ như thế mà múc đổ hằng trăm hàng ngàn gàu nước. Mỗi cặp tát sòng phải có động tác nhịp nhàng ăn ý với nhau. Năm nào cũng vậy họ quen biết từ lâu, tự họ tìm người hợp ý hợp tình với mình để cặp nhau tát sòng. Cặp này tát mệt, thay tay đổi cặp khác, họ thay phiên nhau tát từ chạng vạng tối cho tới sáng mặt trời vừa ló dạng thì đìa phải cạn nước vì bắt cá và cộ về nhà không thể để nắng trưa làm chết cá. Do đó trước khi tát, người thân tín của gia đình tôi là bác ba Ninh và bác ba Cử phải tới nơi ước lượng chừng bao nhiêu cặp tát nước và thời gian bao lâu mới cạn đìa lúc mặt trời vừa mọc, tùy theo năm đó có ít hay nhiều nước. Có khi phải khởi sự tát lúc xế chiều thì mới kịp bắt cá lúc sáng sớm. Sau nầy người ta dùng máy bơm nước, tiện lợi hơn nhưng mất cái đặc thù của thôn quê miền Nam lúc tôi còn thơ ấu.

Mỗi khi tát đìa ông nội tôi bịt khăn đầu kiểu mấy ông nhà quê, tay xách ba-ton tới xem thật sớm. Chúng tôi cũng kéo theo hết bọn vì không thể bỏ qua cơ hội rất hứng thú mỗi năm chỉ thưởng thức được có ba lần. Chỉ có tát Ðìa Sen nhà tôi mới chuẩn bị kỹ càng như vậy chớ Ðìa Bầu thì cần ít người tát, cá không nhiều, gánh vài ba chục gánh là hết, không cần đến cộ. Ðìa Lá còn ít hơn nữa, gần sát vườn dừa mương rạch bên cạnh, cá di chuyển ra sông cần chi phải ở lại đìa.
Sự sung sướng của ông nội tôi lúc tuổi già là nói chuyện khào với nhân công đang tát, nhắc chuyện năm ngoái năm xưa, kể lại kỷ niệm ngày ông còn trẻ. Hoặc thúc hối họ lẹ tay chuyển gàu nếu thấy còn nước nhiều hay là khen thưởng vì thấy nước đã cạn và một hai người xách giỏ lội xuống bắt những con cá lớn trước. Họ có nhiệm vụ gánh về mau bỏ vào lu máy đầy nước rọng cho chúng sống lâu. Cá lóc thật lớn bằng bắp chuối hay bắp vế thông thường ông nội tôi không cho phép giết ăn, ông buộc phải rọng chúng nó sống chờ đến mùa mưa sẽ thả lại trong đìa cho nó tiếp tục sinh sản.

Nguyên tắc là phải bắt cá lớn trước nhưng trên đường rượt theo cá lớn nếu có cá nhỏ hơn thì cũng cho vào vỏ luôn. Ðứng trên bờ thấy cá lớn chạy lướt trên bùn rẽ sóng, thiên hạ la ó chỉ trỏ, lớn họng nhứt là anh em chúng tôi, các chú dưới đìa hô to: Coi kìa, coi kìa, xe hơi chạy dưới nước đó! Cả đám cười vang dậy trong đó có đám đông dân nghèo kéo tới “bắt hôi”, nghĩa là bắt mót những con cá đã chui vô bùn mà nhóm người làm công bắt không hết. Nhân công bắt cá dàn hàng ngang và từ từ bắt, được nhiều cá họ xách giỏ đổ vào cộ, ông nội thấy khá nhiều liền ra lệnh cộ về nhà gấp. Cá lóc, cá trê, cá rô to bỏ vào lu rọng chờ ngày ngày Tết, đám giỗ hay giết ăn hàng ngày. Còn cá nhỏ để thành đống, chết sẽ làm mắm liền trong ngày. Năm nào trúng mùa cá nhiều phải cộ ba bốn cộ. Cá nhỏ đổ từng đống theo loại nhìn thấy tôi phát ớn luôn.

Trong lúc bắt cá mạnh ai nấy la ó, phê bình, phát biểu. Nào là cá nhiều quá, nào là cá rô ít, năm nay trúng mùa, năm ngoái ít cá. Người nầy khen người kia bắt giỏi, hay tiếng kêu phải chờ nhau để theo cho kịp hàng. Lâu lâu có tiến kêu trời, ui da, hay chửi cha chửi mẹ con cá trê đâm nhức quá. Có người bất cẩn bị đâm nhức quá chịu không nổi phải ra về, người khác thay thế. Mấy chú tát xong nhào xuống bắt cá ít lắm cũng phải sáu bảy người.
Bắt qua một lượt bắt lại một lượt rồi bắt sơ qua một lần nữa là để cho “con hôi” tràn xuống mạnh ai nấy bắt. Thông thường họ bắt cá nhỏ, ai cũng có bởi vì những con chui xuống bùn lâu nó ngộp phải trồi lên là bị chụp liền. Khắp nơi dưới mặt đìa đều có người. Ðôi khi có người đạp trúng cá lóc thật to bắt được nó là người nhà tôi yêu cầu đổi lấy con cá đó bằng một đục đầy cá nhỏ họ mừng rỡ vô cùng. Do đó tôi thường nghe tiếng van vái “ông ngay ông địa làm ơn cho tôi mò trúng một con thật bự đổi lấy đục cá về nhà tôi sẽ cúng ông một nải chuối”. Những tiếng cầu xin ông Ðịa thật vui, buồn cười mà cũng thật tội nghiệp.

Có những đứa bé gái nhỏ cũng xách đục bắt hôi nhưng mò không lợi người ta chỉ có vài ba con cá sặc nhỏ mặt buồn hiu, anh Năm và tôi gọi nó cho thật nhiều cá, mặt nó sáng rỡ miệng cười toe toét. Con nít nhà quê không biết nói tiếng cám ơn. Phải nhìn cặp mắt và gương mặt của nó mới cảm thông được sự cảm động ngây thơ của nó đáng thương vô cùng. Nhiều đứa thấy vậy phân bì cười đùa nói “phải biết trước hồi nãy tôi không thèm bắt chờ mấy cậu cho còn nhiều hơn tôi bắt nữa”. Ngoài cái vui và khoan khoái nhìn thấy cá, chúng tôi cũng lội bắt nhưng chỉ tìm cá lóc hay cá rô chớ không dám đụng tới cá trê. Bắt cá là một thú vui khá đặc biệt khi túm được nó giãy giụa trong tay, cho mình một cảm giác khoái lạc lạ thường.

calocnuongtrui

Mỗi lần đi xem tát đìa là chúng tôi lận theo một gói muối ớt và vài chục cây tre vót nhọn chừng 7 tấc. Lội bùn phá đám, bắt cá, chạy rong, xem đầu nầy hỏi đầu kia, tới khoảng 10 giờ là khởi sự đói rồi. Chúng tôi bắt những con cá lóc bằng cườm tay thọc cây vào miệng xóc tới đuôi, rửa sơ, cấm ngược đầu xuống đất, rải lên một lớp rơm dầy, xẹt diêm đốt rơm cháy tàn là cá chín, như vậy gọi là “nướng trui.” Tay cầm con cá tay cầm nắm rơm bẻ cong lại cạo sạch vẫy cháy đen. Cá còn nóng hổi gỡ từng miếng chấm muối ớt ăn ngon lạ kỳ, ăn đến no mới thôi, ruột cá vừa béo vừa ngon thật khó tìm nơi nào có được món ăn như vậy. Cá tươi mềm mụp còn ướt nước ngọt, không khô và lạc như cá nướng do các quán ăn ở chợ Cầu Ông Lãnh hay nơi khác bán cho khách hàng.

(Còn tiếp)

Võ Long Triều