User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

Mắm đồng 

lammam

Trong bài viết tả quang cảnh tát đìa bắt được nhiều cá, một số rất ít cá thật lớn được rọng nuôi sống trong lu nước chờ mùa mưa sẽ được phóng sinh để tiếp tục sản xuất. Nuôi trong lu mái như vậy không cần phải cho ăn, con cá ốm đi nhưng vẫn sống ba bốn tháng chờ cơn mưa đầu mùa, đìa ngập nước là chúng được tự do bơi lội tìm mồi. Ða số cá nhỏ hơn sống trong lu mái chờ người nhà bắt ra làm thịt thường ngày hay đám giỗ hoặc ngày Tết. Còn lại hàng đống cá lớn, cá nhỏ đã chết hoặc còn sống mà không đủ lu mái rọng để kéo dài sự sống của chúng.

Những năm tôi còn thơ ấu, sau khi xem tát đìa trở về tắm rửa xong tôi đeo theo bà nội. Bà ngồi trên bộ ván gõ vừa ngoáy trầu vừa chỉ huy một đám người trai gái, bà con hay láng giềng cộng thêm những người giúp việc trong nhà chuẩn bị cá để làm mắm. Việc đầu tiên, bà phán là tất cả xúm vô lựa cá chia thành ba loại: cá lóc, cá trê, cá rô đổ thành đống riêng biệt. Hai chú đàn ông phải đi ra tận vườn dừa đốn mấy chục tàu lá dừa nước, chặt ngọn chừa đủ dài bằng chiều cao của một người đứng sổng lưng. Sau đó róc bỏ phân nửa lá phần dưới thân cây, kế tiếp chặt ngắn chom lá còn lại chừa khoảng ba tấc cách thân cây. Mấy chú ở nhà vác hai cái thạp da bò cao lớn bỏ cá lóc vào gần đầy lu, đổ nước lúp xúp trên mặt cá. Ba hoặc bốn chú đứng chung quanh lu, mỗi người cầm một tàu dừa nước còn lá ở đầu cây chọt lên chọt xuống trong cái lu đầy cá. Bốn người cứ thế mà sọc lên sọc xuống, vẩy cá từ từ tróc hết, đến khi nào nhìn tất cả những mình cá trắng da, nghĩa là vẩy bị tróc ra hết thì mới ngưng tay. Làm trắng vẩy một lu cá như vậy phải ngưng tay thay nước một hai lần và có khi phải thay tàu lá dừa nước nhiều lần.

Nhìn cá tương đối sạch vẩy thì mấy chú đổ ra. Bà nội đã phân công cho năm ba cô ngồi trước dao thớt chờ cá đổ ra là chặt đầu đuôi, mổ bụng đem ra bờ giếng, kéo nước rửa sạch, đưa vào chờ bà nội tự tay muối cá bằng muối hột và bỏ vào thạp, quê tôi thường gọi là mái vú, bởi vì chung quanh miệng mái có hai cục đất lớn hơn ngón chân cái do tay người thợ sản xuất bóp dẹp gắn vào mặt ngoài. Hai cái nút đó người nhà quê xem như hai cái vú cho nên gọi là mái vú. Thân mái rộng bùng binh, miệng mái túm lại, có khả năng chứa vài trăm lít nước. Sở dĩ bà nội tôi tận tay muối cá vì bà cho rằng những người giúp việc không biết dùng lượng muối như thế nào cho vừa đủ mặn để thấm vào da thịt con cá và để cho sự lên men biến thịt cá thành trạng thái mắm, nghĩa là không bị sình thúi vì thiếu muối, vi trùng sinh sản làm cho cá hư thúi. Hay là con mắm bị cứng thịt do muối nhiều làm cho quá trình biến chất thịt cá khó khăn nên con mắm giống cá muối hơn là cá mắm.

Bỏ cá vào lu, mấy chú phải xếp ngay hàng, đều đặn, nhận thật cứng, từng lớp một. Khi cá sắp lên tới miệng còn độ 4 phân thì mấy chú cắt những mo cau khô đậy thật kín hai lớp trên mặt cá và lấy những thanh tre bằng hai ba ngón tay, chuốt dẹp độ dầy lối hai phân tây, gài cong ngang qua miệng mái túm rụm và đứng cứng trên hai cây chõi. Thường mấy chú phải dùng ba hay bốn vòng cung làm cho mặt mo cau đậy trên lớp cá thật sát thật cứng. Sau đó nấu nước muối đổ lên mặt, cao chừng một tấc. Như vậy coi như xong, thông thường phải chờ gần cả năm thì con mắm mới ngon. Dấu hiệu mắm ngon và có thể tháo dở ra ăn được khi nào thấy trên mặt nước muối khởi sự có dòi lội lêu bêu nghĩa là lúc đó cá đã thành mắm cho nên chất pro-tê-in đã thắm qua mo cao lên tới nước muối mới có sinh ra dòi. Nếu muối ít thì khi người ta thấy có mùi hôi thúi phải dở ra ngay, nếu chưa quá muộn thì còn có thể muối lại, gài vào lu nhưng đợt mắm đó sẽ không ngon. Nếu cá đã quá sình thì đành phải đổ bỏ thôi. Nếu gài mắm để quá lâu ngày mà không thấy thạp mắm chuyển mùi hay có dòi thì biết thạp mắm đó cũng không ngon. Bởi vì muối cá quá mặn.
Ðúng kỳ dở mắm, người ta rang gạo vàng, xay nhỏ, rắc ít nhiều vào thân con mắm gọi là thính mắm, rồi gài trở lại với mục đích làm cho con mắm thơm tho hơn.
Còn lại những đống cá trê, cá rô, hay cá sặc nhỏ con thì quá trình biến chế thành mắm cũng theo một thể thức như đã nói trên. Ðó là phương pháp làm mắm của bà nội tôi mà cả làng ai cũng học và cũng khen mắm ngon.

Câu cá rô non

caronon

Sau những cơn mưa khí trời lại mát, hơi nước kéo theo mùi cây lá, mùi cỏ nhẹ nhàng dễ chịu. Mỗi cơn gió thoảng qua là nhập vào tâm một cái gì in sâu vào đầu, một cảm giác của nhà quê, đồng ruộng mà khi đi học ở tỉnh xa nhớ nhà, nhớ đồng ruộng, là nhớ thứ hương vị đó. Sáng sớm hôm nay bước ra khỏi nhà thấy sân còn ướt, do đám mưa lớn đêm qua. Mặt trời chói lọi tươi đẹp hơn mọi ngày, lòng tôi tự nhiên thấy cảm hứng. Vào nhà tôi khều anh Năm, rủ:
- Ði câu cá rô non chơi anh Năm, hình như mùa cá non năm nay mình chưa được ăn cá non chiên giòn.
- Ði thì đi nhưng phải thọt ổ kiến vàng lấy mồi đã.
Câu cá rô non cũng đòi hỏi lắm công phu. Trước tiên là phải tìm một cành trúc ngắn có độ cong suông chiều. Một cây kim gút bẻ cong đầu, thành lưỡi câu thật nhỏ không cần chặt ngạnh. Lấy chỉ may áo quần se đôi chừng một thước rưỡi cột lưỡi vào cần. Vấn đề mồi câu mới là rắc rối. Chúng tôi lấy một cây trúc thật dài, cột một cái rổ lòng thòng chừng ba tấc trên đầu cây, chừa ngọn trúc độ vài tấc. Xong rồi đi tìm ổ kiến vàng trên những cây trâm bầu, me keo, hay cam quít, đưa cây xọc vào ổ kiến, trứng kiến trắng phếu nhỏ hơn mút đũa rớt vô rổ, đồng thời cũng có đầy kiến bò tứ tung chung quanh rổ, dọc theo cành trúc. Tay tôi phải vỗ mạnh liên hồi lên thanh trúc để cho những con kiến té xuống đất và tránh làm sao cho chúng nó không bò đến tay chân mình vì kiến vàng cắn rất đau. Chúng nó là một loại kiến ăn sâu bọ trời sinh ra để quân bình thiên nhiên. Sâu, rầy phá bông phá trái thì có kiến vàng ăn sâu. Nhiều nơi người ta đi tìm những ổ kiến cắt nhẹ nhàng trọn ổ đem bỏ trên cây của những vườn cam quít, vú sữa, sa-bu-chê để trừ sâu. Thọc được chừng hai ba ổ kiến vàng là đủ câu cả buổi sáng.

Cá rô “non” là những con cá rô nhỏ bằng hai ngón tay, mới được sinh nở lúc ruộng nổi nước nhờ “sa mưa giông”. Những con cá rô “mề” bụng đầy trứng theo nguồn nước của mương, rạch từ sông Cửu Long di chuyển vào ruộng theo giác quan trời phú cho nhiều loài cá. Chúng nó biết đường tìm về nơi được sinh ra và lớn lên để tiếp nối dây chuyền sinh sản mà tạo hóa đã ban cho. Như loài cá Salmon ở Alaska, Mỹ Quốc. Hay cá bông lau ở Biển Hồ Ton-Lê- Sáp, xứ Cam-pu-chia. Con cá bông lau chỉ sinh đẻ tại Biển Hồ mà thôi. Người ta không thể nuôi ép cho nó sản xuất mà chỉ chờ mùa nước của Biển Hồ tràn ra sông Cửu Long, chừng đó vô số cá con, nhỏ bằng tâm nhang hoặc lớn hơn, theo giòng nước ra sông miệt Hồng Ngự, Châu Ðốc tụ thành những cụm màu xám đen dưới nước. Người dân Hồng Ngự, Châu Ðốc, tới mùa nước rông chèo xuồng đi vớt những con cá bông lau con gọi là “cá bọt”. Họ đem về thả vào ao nuôi chờ lớn bằng ngón tay, bán lại cho ngư dân nuôi thành cá tra to lớn mình thấy ngoài thị trường. Cá tra dù thuộc nòi giống của cá bông lau nhưng không bao giờ sinh sản ở ao hồ nhân tạo. Người ta vớt “cá bọt” nuôi lớn chớ không có nơi nào sản xuất được cá tra con. Thông thường không ai thấy buồng trứng trong bụng cá tra.
Cá rô thịt ngọt béo, nếu là cá to thì gọi là “cá rô mề”, nếu kho tộ mỡ của nó tươm đầy, hay nấu canh chua ăn với cơm không biết ngán. Dân làng tôi giàu hay nghèo đều ưa thích cá rô mề kho. Những người nông dân tát ao tát vũng hay câu được cá rô mề lớn bằng bàn tay hay lớn hơn, ít khi chịu bán ra, họ để lại nhà ăn vì may mắn có được cơ hội. Nhiều người nhịn ăn đem kiến cho chủ điền của họ hay các ông quan trong làng Hương Cả, Cai Tổng, hay quan Huyện.
Cá rô non cũng ngọt cũng béo nhưng người ta không kho, không nấu mà họ đem rửa sạch không cạo vẩy, chiên giòn cuốn với bánh tráng rau sống chấm nước mắm tỏi ớt, ăn ngon hơn thịt gà thịt vịt. Mỗi năm chỉ ăn cá rô non được một mùa. Không phải chợ nào cũng có người bán, nhà nào cũng mua được cá non để ăn.

cachiengion

Ðầu mùa mưa, cầy cấy xong, ruộng nước trong veo, nhiều nơi người ta đứng dựa mé bờ nhìn xuống thấy từng bầy năm mười con, có khi mấy chục con chờ những con muỗi mòng đáp trên mặt nước hay cắm đầu tìm kiếm những con lăng quăng trốn dưới gốc mạ non hay cỏ lát mọc trong ruộng. Dân trong làng ít người câu cá rô non vì không phải ruộng nào cũng có cá và câu cả ngày cũng không được bao nhiêu, nên không ai chịu bỏ công oan uổng. Còn tôi lúc thiếu thời luôn luôn tìm hưởng những thú vui ngoài đồng hơn là sống trong nhà buồn chán.

Câu cá rô non rất dễ, cứ móc một trứng kiến thả xuống chỗ nào mình thấy cá là rất nhiều con dành nhau đớp mồi. Dở nhẹ tay đưa lên bờ có khi không cần gỡ, cá dính lòng thòng ra khỏi mặt nước nó giẫy dụa rớt trên bờ vì lưỡi câu không có ngạnh hay rớt ngay trong miệng đục nếu mình rê nó vào đó. Nhìn rõ thấy cá đớp mồi gây cảm xúc hồi hộp nhẹ nhàng làm cho sự đam mê càng phấn chấn, dù phải dang nắng hay bị kiến vàng cắn khi đi kiếm mồi, anh Năm và tôi không năm nào bỏ qua một mùa câu cá rô non.

Ðặt bung

datbung

Cái bung làm bằng tre, đương thành giỏ hình bầu dục, lớn nhỏ tùy ý, thông thường bề dài sáu tấc, ngang ba tấc, cao năm tấc. Bên phía mặt bầu dục, người ta chừa một lỗ hình chữ nhựt ba tấc cao, bảy phân ngang, rồi đặt vào đó một cái hom tréo thật lỏng lẻo để cá chui vô dễ dàng mà ra không được. Nắp bung làm bằng cây có cửa, lỗ nhỏ chừng năm phân vuông, mở ra gài lại được để bỏ mồi vào bung khi cần.
Người ta đặt bung gần cuối mùa lúa, khi lúa trổ đòng đòng nghĩa là có bông búp trong thân cây. Thời gian đó cá trong ruộng cũng lớn, đặt bung là phương tiện đặc biệt dùng để bắt cá trê. Có hai loại cá trê sống trong ruộng: Trê lét da trắng, trê vàng da vàng với ít nhiều đốm bông. Cá trê lét ăn tạp mồi hôi thúi, cá trê vàng kén ăn hơn.
Anh Năm và tôi cũng như thường lệ hễ chỗ nào có cá có chim là có mặt chúng tôi tìm cách bẫy bắt. Nếu tính theo nhà Phật thì chúng tôi phạm tội sát sinh dẫy đầy.

Bắt cá bằng cách đặt bung có phần cực khổ hơn cắm câu hay đặt lờ, đặt lợp, đặt nò. Trước hết phải dang nắng cả ngày để bắt cua đồng, dọc theo mé ruộng, đôi khi bị cua kẹp bầm tay rướm máu vì mình còn nhỏ chưa có kinh nghiệm. Ðã vậy còn phải bắt khá nhiều đem về bằm nhỏ bỏ vào hũ để ủ cho nó sình lên thúi dậy. Nếu là mồi đặt cá trê vàng thì không nên để sình thúi quá lâu và phải thêm một vài tai vị nghiền nát hay ngũ vị hương càng tốt. Trước khi sử dụng phải đổ vào đó thật nhiều dầu dừa để khi bỏ mồi vào bung lớp màng màng của dầu dừa tỏa ra đem mùi hôi thúi nhử cá ở xa. Quảy bung và mồi thúi đi xa cũng có phần khó chịu. Trước khi đi tới chỗ nào ước đoán có cá, chúng tôi phải hỏi thăm người quen trong làng, ruộng nào sâu có cá nhiều? Bà con ai cũng tốt bụng vui vẻ chỉ, bởi vì họ biết chúng tôi nghịch ngợm đi tìm vui chớ không phải bắt cá để ra chợ bán. Tới nơi chúng tôi đã chọn, lội xuống moi đất đặt cái bung sát mé bờ, ngập nước chừa năm phân gần sát nắp. Sau đó be bùn chung quanh thật kỹ, vuốt thật láng, nhứt là cái miệng hom phải tô bùn cho trơn tru giống như hang cá vô ra vậy. Trong khi lội nước đấp bùn thì đỉa trâu, đỉa mén cứ bu đeo vào chân, may mắn là chúng tôi sợ sâu mà không sợ đỉa. Những con đỉa gây phiền phức chúng tôi phải bắt quăng chúng nó liên hồi làm cho thời gian chuẩn bị kéo dài chớ thật ra chúng nó không hút được bao nhiêu máu của chúng tôi. Bởi con nào vừa đeo vào chân thì tôi nhổ nước miếng vào tay vuốt qua thân nó là nhả ngay rồi cầm quăng thật xa chỗ mình móc đất nhưng chúng cũng trở lại nhanh chóng hình như chúng nó đánh hơi được mùi da thịt của người.

Ðặt xong cái bung chờ cho nước lắng bùn đục, trong trẻo lại bình thường, chúng tôi mới mở nắp bỏ hai muỗng mồi ngồi chờ cá vô. Ðầu hôm từ lúc chạng vạng tối chúng tôi phải bỏ mồi liên tục khoảng mười lăm phút một lần. Thoạt đầu cá mới vô chừng vài ba con thì chưa nghe chúng giẫy, đến khi có vài chục con thì giẫy dụa lạch chạch, róc rách liên hồi. Cá càng nhiều càng nghe tiếng giẫy lớn, những tiếng cá giẫy trong bung cộng thêm màng màng hôi thúi tỏa ra ngoài là một cách gọi đàn, cá bu vào khu có mùi hôi tưởng chừng như trong hang có mồi nên đồng bọn mới giành nhau tranh ăn dữ dội. Sự thật cá càng quậy càng giẫy thì mồi càng văng ra cá bên ngoài càng muốn chui vô. Chúng tôi ngồi rình thấy cá tụ chung quanh ăn móng, quậy tới quậy lui, lội qua lội lại, dợn nước đục ngừ, rồi cũng chui vào bung hết. Sự hồi hộp và hứng thú ngồi nhìn cá từ xa lai rai hay từng bầy gắp rút chui vào bung của mình cho tôi một cảm giác sung sướng lạ kỳ. Mặc dù phải thức khuya châm mồi, muỗi cắn đập mãi vẫn còn nhưng sự ham mê bắt tôi ngồi đó có khi đến gần sáng. Ðêm nào không có hoặc ít cá thì anh em chúng tôi chui vô nóp nằm bàn tán, tiếc rẻ công lao mình dành cho bao nhiêu khổ cực mà chỉ bắt được hơn chục con cá. Có khi hai đứa nghĩ rằng mình đi học làm chi cho nặng óc, xa nhà nhớ mấy em thà đi câu cá đặt bung chài lưới sống như mọi người thoải mái hơn là phải tuân theo kỷ luật nhà trường.

Một vài khi chúng tôi thức đêm không thấy có chút mệt mỏi vì cá nhiều, hàng trăm con nằm sắp lớp, hai đứa phải gồng tay giở bung lên khỏi bờ, cá đầy hơn nữa bung. Chúng tôi khệ nệ khiêng về vui vẻ. Cả nhà bàn tán hai ba ngày chưa thôi. Chúng tôi đi khoe cùng làng, mấy chú mấy bác không ngớt lời khen ngợi và có ông còn bảo:
- Tao sẽ bắt chước tụi bây tới đó kiếm vài con cá cho mấy đứa nhỏ nó ăn.
Bác Ba Tàn kể công:
- Tao chỉ chỗ thì nhứt định phải có cá, nếu không thì chỉ cho tụi bây làm gì?
Bác khoác lác như vậy chớ nhiều lần bác chỉ chỗ tụi tôi đi cắm câu, sáng chỉ mang về hai ba con cá lóc nhỏ.

Cái thú vui ở miền quê khi lặn lội đi câu cá hay bắt chim thật là thú vị, đầy cảm hứng, hồi hộp, khoan khoái khó tả mà người ở tỉnh thành không thể biết được. Tình nghĩa đậm đà, giản dị, thấm thía của bà con láng giềng miền Nam quê hương tôi cũng là điều khó thấy ở vùng đô thị. Bây giờ tuổi đã quá thất thập, sống qua nhiều nơi, nhiều xứ, vào những thời điểm khác nhau, nhớ lại những kỷ niệm xa xưa lòng vẫn thấy cảm hứng, bồi hồi, bồng bột không kém lúc thiếu thời.

Bắn chim

Banchim1

Ai có sống qua cảnh náo nhiệt của thành phố, xe cộ đầy đường, rầm rộ khua động không ngừng, cho dù đã quen nhưng đôi khi họ cũng ước ao được sống những ngày yên tĩnh, đầu óc lắng dịu không bị căng thẳng vì sự ồn ào náo nhiệt luôn tác động vào tâm não con người.
Và ai đã sống qua cảnh đồng quê êm ả, chiều nhìn mặt trời dần dần lặn mất dưới rặng cây, tối xem trăng sáng chói như đèn trời soi cảnh vật... về khuya thỉnh thoảng có tiếng chim vạt kêu đêm như nó chia sẻ nỗi buồn với những người có tâm sự.
Ða số những ai đã sống qua cảnh êm đềm, giản dị của đồng quê, thế nào họ cũng ước mơ hưởng được cuộc sống an nhàn như vậy. Con nít thơ ngây như tôi sinh ra nơi nầy càng cảm thấy khắng khít dính liền với mùi ruộng lúa, mùi khét trâu, mùi khói rơm ung mũi, những thứ đó nó quyện vào tâm não con người tôi hễ xa thì nhớ, hễ gần thì không muốn bỏ đi.
Những đứa trẻ quen ở thành thị, có đủ mọi thứ đồ chơi nào xe hơi, xe tăng đụng biết lui, trống đường biết tiến, nào súng bắn xẹt lửa y như thật, vân vân... Như thằng con tôi 11 tuổi được về làng thăm quê nội. Con của người láng giềng trạc tuổi của nó sang rủ đi gài bẫy “chim mắt thao”. Dĩ nhiên thằng con tôi tò mò, xin phép cho bằng được để đi theo xem điều mới lạ nầy như thế nào?

Trong cái lồng nhỏ, phân nửa trên để trống có đầy đủ đồ ăn mà loại chim mắt thao ưa thích, phân nửa dưới nhốt con chim mồi. Cửa lồng trên mở rộng có sợi dây cột vào để kéo sập bất cứ lúc nào. Ngày hôm đó thằng con tôi đi chơi tới xế chiều mà không thấy đói vì nó mãi hồi hộp theo dõi chim rừng đáp trên lồng vô hay không vô ăn mồi?... Rồi cứ như thế làm cho nó say mê đến khi bắt được hai con mới chịu về. Từ đó mỗi khi nghỉ Hè là nó cứ nằng nặc xin về quê nội với mục đích tìm những thú vui lạ mà thành thị không thể cho nó hưởng được.
Thuật chuyện con tôi để giải thích chuyện của bản thân mình, vốn sinh ra và lớn lên trong làng, dù có đi Mỹ Tho, Sài Gòn học nhưng mỗi khi bãi trường là lặn lội khắp nơi trong làng tìm những thú vui quen thuộc. Ðời người có những chuyện khó quên, thậm chí không thể quên được là thú vui mà mình cho rằng tuyệt vời hay chuyện đau thương buồn tủi để lại một dấu ấn trong lòng.
Chuyện thích thú nhứt của tôi là “giựt chim” trên những đám mạ mới gieo. Sự mong chờ, sự ước ao chim về ăn mồi lúa vừa lú mầm, gieo đầy trên mảnh ruộng mới được tát cạn nước. Sự hồi hộp khi bầy chim đậu trên cành mà chưa chịu đáp xuống lưới, sự vui mừng khi giựt tay lưới sập bắt được vài ba chục con chim se sẻ, dòng dọc, áo già hay chim sắc... Chim sắc nhỏ con, lông màu nâu, mỏ sậm đen, chim áo già cũng nhỏ, lông đỏ, khoan cổ đen, mõ trắng ngà thật đẹp, chim dòng dọc to hơn một chút, còn gọi là dòng dọc nghệ, lông vàng có đệm ít lông đen trên mình hay trên cánh, mỏ vàng, chim sẻ lông nâu và đen pha lẫn, con trống có vành mắt đen chim mái không có.
Ôi! Ðam mê nó ngấm thấu tận lòng, mãi cho đến lớn lên mang chức tước đầy người mà vẫn còn lặn lội tìm cách sống lại những ngày thơ ấu đó. Ðôi lúc tôi cũng thoát được ra khỏi vòng ràng buộc của xã hội trưởng giả quan quyền. Những giờ phút đó nó quí báu làm sao!

Nói về kỷ niệm khó quên trong đời còn một chuyện thứ hai tôi ghi nhớ mãi là thời còn du học bên Pháp. Có một đêm trăng rằm sáng chói rọi xuống biển tuyết trắng xóa khắp nơi. Tôi cùng với ba người bạn đồng song cỡi ngựa giữa cảnh đẹp trời khuya, ngao du đi hết làng nầy sang làng khác ở khu ngoại ô thành phố Paris. Lúc đó tôi có cảm tưởng lạ lùng như mình đang lạc trong cõi thần tiên. Trở về cái thú bắn chim, trẻ con trong làng bắn chim toàn bằng ná thung, quê tôi gọi là giàn thun, gồm một cái “nạng” làm bằng nhánh cây có cháng hai, chặt về hơ lửa uống cho bầu cong thật tốt, xong cắt chừa năm phân làm gốc, bảy phân hai cây chia ra thành nạng. Ðầu hai cây nạng, mỗi bên cột một dây thun bằng ruột xe hơi, dài chừng hai tấc cuối đầu dây thun cột dính với một miếng da dùng kềm đạn nhắm mục tiêu mà bắn.

Có người nhờ thợ mộc cưa lọng một cây nạng bằng gỗ, bào chuốt láng lẩy thật đẹp. Còn tôi thì lựa những thân cây cứng dẻo như cây duối, cây ổi, đốn những cháng hai đem về uốn cong đúng chiều dùng làm ná thung cũng tốt. Ðạn bắn chim thường bằng đất sét vò tròn phơi khô. Nhưng có khi lười biếng tìm những đống đá sỏi hốt cả nắm làm đạn cũng xong. Giàn thun chỉ bắn được những loại chim nhỏ như se sẻ, trao trảo, dòng dọc. Loại chim lớn hơn như cu đất, cu ngói, dù bắn trúng nó vẫn không ngã trừ khi đứng gần sát, hoặc trúng đầu hay trúng cánh gẫy, làm chinh gió nó bay không được phải té xuống đất mình rượt bắt. Có khi nó lủi vào bụi rậm, bụi gai thì cũng chịu thua.

Thổi chim

Thay vì bắn bằng giàn thun, làng tôi có vài người lớn họ dùng ống đồng dài chừng hai thước, lỗ nhỏ bằng ngón tay út, lấy đất sét mềm vò tròn nhét vào lỗ rồi nhắm vào con chim mà thổi thật mạnh. Viên đạn bắn ra xa nhưng không mạnh bằng giàn thun. Lợi thế của ống đồng thổi chim là dễ nhắm trúng đích. Nhưng con nít như tôi thời đó chỉ biết đi theo xem chơi thấy lạ nhưng không đủ hơi để thổi. Chú Bảy Hồng cho thổi thử nhưng cục đất sét đi không xa có khi còn mắc kẹt giữa ống đồng vì yếu hơi.

Chấm chim

Chấm chim có phần rắc rối công phu hơn. Trước hết là phải có một cây trúc thật dài, uốn suông đuột ngay thẳng. Ðầu cây thoa đầy mủ, muốn chấm trúng chim mình phải rình rập tới gần những con chim thật dạn hoặc buổi chiều sắp tối, chim về ngủ cả bầy đầy trên cây. Chúng líu lo chí chóe giành nhau chỗ đậu ngủ qua đêm bất kể có người đang rình rập. Tôi thích chấm chim kiểu nầy nhưng khó tìm ra những cây có chim thường về ngủ. Hoặc có mà ở xa nhà hay gần những cụm cây um tùm, đi về đêm tối sẽ bị gia đình rầy la.
Muốn chấm chim phải chặt cây lấy mủ. Loại mủ tốt là mủ cây mít, cây sa-kê, cây sa-pu-chê. Thông thường trộn ba thứ càng tốt. Lấy được mủ rồi về nhà phải nấu lại cho sôi làm mất chất nước lộn trong mủ. Trò chơi nầy chẳng những khó khăn mà còn dơ bẩn vì khi mủ dính tay phải lấy dầu dừa hay dầu lửa chùi mới sạch.
Tuy nhiên nếu lấy mủ thoa đầy một nhánh cây, đem cấm giữa đồng ruộng, những nơi có chim thường đến như gần đống rơm cao nghệu, hay trên những đám mạ mới gieo, lúa mọc mầm, nằm phơi la liệt trên đám ruộng sạch cỏ, cạn nước, có khi cũng bắt được khá nhiều chim.

Giựt chim

Trò chơi nầy hơi rắc rối nhưng vô cùng thú vị. Trước hết phải làm một tay lưới. Chúng tôi không tự làm được mặc dù rất dễ nhưng cái khó là canh dây, cột dây như thế nào cho tay lưới nhẹ giựt và sập cho thật mau. Do đó chúng tôi phải nhờ bác Ba Ninh làm giùm. Lưới giựt chim gồm có hai mảnh riêng rẽ, dài hai thước, ngang một thước. Bốn bề ngang cột dính vào một thanh tre nhỏ cũng ngắn một thước như nhau. Nếu để hai tấm lưới nằm trên mặt đất cách nhau đúng hai thước. Bốn góc bên trong có bốn khoen dây dùng để cấm nọc cho bốn đầu cây nầy dính cứng dưới đất nhưng có thể lung lay xoay đi xoay lại dễ dàng. Còn lại hai đầu cây trên mỗi bên cột một sợi dây dài chừng hai thước, đầu dây có khoen để cấm nọc dính xuống đất. Hai đầu cây ở đoạn dưới tay lưới cột liền nhau dây lòng thòng dài độ bốn thước, giữa sợi dây nầy nối liền với một sợi khác thật dài chừng hai mươi thước có tay cầm.

Vấn đề khéo léo của người “bắt tay lưới” là làm sao điều chỉnh dây nhợ cho cân bằng chính xác. Làm thế nào để khi nắm giựt nó úp hai miệng lưới vô đúng hai thước đất trống đã chừa bên trong. Còn người mang tay lưới đi vực chim phải cắm những cây nọc sao cho tay lưới không bị chỏi và xếp lại thật mau khi giựt sập để kịp úp bầy chim đang ăn trong khoảnh đất trống bốn thước vuông có chim mồi cột trong đó và có lúa rải đầy nhử chim rừng vào ăn.
Mỗi khi trong làng có đám mạ nào mới gieo trên đất ruộng sạch cỏ, vừa tát cạn nước, để lộ ra những hột lúa vừa nẩy mầm phơi trần dầy đặc, sẽ mọc thành mạ non nếu không bị chim trời mổ nuốt. Biết được có đám mạ là em tôi quẩy lồng, tôi vác lưới đi giựt chim. Tới nơi chúng tôi tìm khoảnh đất gần bờ đê cắm lưới. Trải lưới xong cắm ba bốn con chim mồi dính chân trong dây, chớp chớp cánh muốn bay mà không bay được. Rải thêm lúa rồi đi tìm một nhánh cây khô trụi lá có nhiều cành, cắm ngay trên đầu lưới cách xa chừng vài thước để chim rừng có chỗ đậu trước khi đáp xuống vùng đất có chim mồi và đầy lúa.
Ðặt để tay lưới xong, chúng tôi kéo sợi dây có tay cầm thẳng đường và giựt thử xem có nhậy sập không? Mọi thứ đều chuẩn bị chu đáo, xong chúng tôi đi tìm những cành cây đầy lá bẻ đem về cắm thành một cái chòi núp kín đáo không để chim rừng thấy bóng người. Ngồi trong cái chòi đó chờ lũ chim xấu số bay về.
Khi thì chờ thật lâu mới thấy bóng chim về, khi thì còn đang làm chòi núp chưa kịp xong là chim đã kéo về cả đàn, thấy bóng người hoảng sợ bay mất, hoặc cũng có khi đàn chim vì đói mà đáp liều vào chỗ có lúa để kiếm ăn. Nhưng tôi vừa bén mảng đến cầm dây là chúng nó vội vàng bay mất. Những buổi sáng sớm hoặc xế chiều là thời điểm thuận lợi nhứt để giựt chim. Bởi vì sáng chim bay đi kiếm mồi, chiều tìm chỗ ăn no trước khi về nơi nghỉ ngủ qua đêm.

Chúng tôi ngồi trong chòi nói toàn chuyện chim với cá. Ít khi nào nói chuyện học hành, có chăng là than phiền năm nay thầy cho quá nhiều bài phải làm trong dịp Hè. Và năm nào cũng đành chịu phạt đổi lấy sự vui chơi trong ba tháng nghỉ. Ðang nói năng lăng xăng bỗng nhiên hai đứa đồng thanh suỵt nhỏ, mắt nhìn năm ba con chim sắp đáp trên cành. Thằng Tôn xì xào nói nhỏ:
- Ít quá, tụi nó có xuống cũng đừng giựt. Thà bắt cho đáng mẻ lưới, trước sau gì cũng có chim mà lo gì?
- Mầy quên rằng có bao nhiêu lần đi về chỉ có hơn chục con hay có lần tay không? Bây giờ có bao nhiêu là tao chụp lấy bấy nhiêu. Chờ chúng nó đáp xuống là tao giựt liền. Trong lúc anh em đang bất đồng, ba con chim sắc nhỏ đáp xuống, năm con khác vẫn đậu trên cành cây đầu lưới.
Thằng Tôn bực mình nói hơi lớn tiếng:
- Chúng nó phân vân cái gì mà không chịu xuống?
Tôi lại suỵt bảo nó im rồi nói nhỏ:
- Chim sắc và chim áo già nhát lắm, có thể nói được là chúng nó khôn hơn loài dòng dọc, chim sẻ háu ăn.
Chờ không lâu cả đám sà xuống, tôi lanh tay giựt mạnh, lưới sập bắt trọn 8 con chim sắc, chúng nhảy cà dựng dưới mặt lưới. Hai đứa chúng tôi chạy ra gỡ mau bỏ vào lồng rồi căng lưới chạy vào chòi núp chờ nữa. Lâu thật lâu, nắng chiều dịu bớt, mặt trời ngã dần xuống cao khỏi ngọn trâm bầu chừng một sào. Chúng tôi quyết định sẽ cuốn lưới khi mặt trời xuống khoảng giữa thân cây. Thằng Tôn tiếc hùi hụi, than xuất hành nhằm giờ xui ngày rủi.

Từ xa cách hai thửa ruộng trước mặt, tôi thấy một bầy chim bay nhưng không định hướng được chúng nó sẽ về đâu? Tôi khều thằng Tôn chỉ, nó sáng mắt, vẫy tay ngoắc bầy chim làm như nó muốn gọi chúng về đây. Thật vậy, bầy chim hướng mau về đám mạ chúng tôi đang ngồi, ngày càng rõ nét, thấy được là dòng dọc nghệ. Rồi một đám chim sắc từ đâu bay đến lại đậu thêm trên cành khô. Chúng nó đậu đầy nhánh cây trước lưới, không còn chỗ trống, một đám hơn chục con đáp ngay vào vòng lưới. Tim tôi đập liên hồi, tay cầm sợi dây nắm chặt. Thằng Tôn khều lưng tôi không ngừng. Hình như tôi run hay nó run vì sung sướng hồi hộp. Cái giây phút tuyệt vời, một sự ước mơ lâu dài bây giờ mới tới. Nhưng lại phải chờ. Thằng Tôn ghé tai tôi muốn nói nhỏ gì đây? Tôi vội xô nhẹ đầu nó ra, tay trái bịt miệng nó. Hai tay nó lại ngoắc ngoắc mời chim đáp xuống. Giây phút hồi hộp chờ đợi... Tại sao lâu qua mà chúng nó không đáp xuống, mặt tôi nóng ran, ruột gan bời rời mấy con chim sắc bị bắt nhốt trong lồng kêu inh ỏi, vài ba con chim sắc khác trong bầy chim trước mặt, bay về hướng chòi, đậu trên mấy nhánh trăm bầu phủ đầu chúng tôi. Hai anh em tôi thằng nào cũng bất động, gần như cứng người vì mừng, vì sợ chúng phát hiện có người sẽ hè nhau bay mất tất cả. Bầy chim trên cành chớp cánh hạ dần cả đám không biết bao nhiêu đã lọt vào, tôi vội lấy hết sức giựt mạnh, hai mảnh lưới ụp vào, lố nhố đám chim mắc lưới nhảy tung tăng. Thằng Tôn la hét vỗ tay mừng rỡ nó nói gì tôi cũng không nghe, tay tôi xách lồng chạy như bay ra ngồi gỡ từng con bỏ vào lồng. Tim vẫn còn đập nhưng đầu tôi lấy lại bình tĩnh dần.
- Trúng mối rồi anh Sáu ơi!
- Ðố mầy biết được bao nhiêu con?
- Ít lắm phải năm sáu chục.
- Có thể như vậy lắm.
- Chim dòng dọc nghệ nhiều, quay chảo ăn mệt nghỉ.
- Nhổ lông mổ ruột cũng mệt nghỉ!
- Vậy thôi giở lưới thả cho tụi nó bay làm phước, mình khỏi nhổ lông mổ ruột anh chịu không?
- Thằng khỉ mầy đừng dở hơi.
Anh em chúng tôi vừa gỡ chim vừa đếm tất cả bảy mươi sáu con cộng với tám con chim sắc bắt được là 84, nhốt chặt lồng không còn chỗ bay, chúng giẫm lên nhau kêu inh ỏi.
Thằng Tôn đề nghị cuốn lưới về, nhưng lòng tham và sự ham mê của tôi chưa chịu ngừng. Banh lưới ngồi chờ, thỉnh thoảng có chim về không đông, mỗi bầy chừng vài chục con nhưng đậu trên cành kêu hót, có lẽ chúng nghe đồng bọn kêu ré và hiểu rằng bọn chúng đã gặp cơn nguy. Vì vậy không có bầy nào chịu đáp xuống, Từ đó chúng tôi rút kinh nghiệm đi giựt chim đem theo hai lồng, có chỗ rộng nhốt chúng thoải mái không la inh ỏi có thể làm kinh động giống chim cùng loại.

Chiều hôm đó nhà chúng tôi ăn cơm như bữa tiệc. Thằng Tôn và tôi mặc sức kể chuyện, mạnh miệng, hào hùng, nhưng không thể tả được tâm trạng vui mừng, cái cảm giác lo âu hồi hộp trong lúc chúng tôi chờ đợi bầy chim đông nghẹt đang quan sát mấy con chim mồi và thức ăn đầy dẫy mà chưa chịu đáp xuống.
Cái thú vui của tuổi thơ là ở đó, sự đam mê buộc tôi nhớ mãi quê nhà, nhớ cảnh thiên nhiên hữu tình, nhớ đồng ruộng mênh mông, sông rạch trải dài, phải chăng những cái đó tạo cho tôi lòng yêu nước thương dân?

Giựt Cu

Trong bài viết về thú vui của tuổi trẻ khi chúng tôi vác lưới đi giựt chim thì tôi đã mô tả khá rõ ràng về hình dáng và tác động của tay lưới dùng làm bẫy để bắt chim rừng. Nhưng lưới giựt cu có phần khác hơn đôi chút. Thứ nhứt tay lưới lớn hơn, hai mảnh lưới có bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi. Như vậy bề mặt khoảnh đất trống dành cho chim đậu rộng gấp đôi. Thứ hai lỗ lưới lớn hơn để tránh bị cản gió khi cần giựt nhanh. Thứ ba các dây nhợ phải to và chắc hơn vì tay lưới lớn.
Kỹ thuật giựt cu đòi hỏi phải lanh trí, lanh tay hơn giựt chim dòng dọc, áo già. Bởi vì con chim cu rất mạnh. Nó đập cánh mạnh và nhanh, Ðậu trên cành cây hay dưới đất chúng vừa chớp cánh vừa vọt chân. Do đó chim cu cất cánh bay bổng chớ không bay ngang rồi mới lên bổng như chim sẻ. Vì vậy giựt cu là phải giựt ngay khi chim mới vừa sà vào lưới chưa kịp đậu xuống đất. Nếu để cho chúng nó đậu xuống đất rồi mới giựt thì mười lần sẩy mất hết chín rưỡi vì hai miệng lưới vừa chớp là con chim đã vọt thẳng ra ngoài tầm lưới rồi. Cho nên khi chúng sà vào khu đất trống có cu mồi thì phải lẹ tay giựt mạnh, úp ngay cả lũ chưa kịp đặt chân xuống đất. Có đôi khi một hai con vừa đụng đất vọt lên trúng đồng bọn té ngay xuống.
Nhanh trí lẹ tay tôi có, nhưng sức mạnh tôi thiếu nên rất nhiều lần ham đi giựt cu một mình tôi làm sẩy chim không biết bao nhiêu lần. Khi nào đi với anh Năm thì tôi bắt được nhiều hơn vì ảnh không cho tôi sờ tay vào giây lưới. Thịt cu ngon ngọt, quay chảo hay bầm nhỏ nấu canh với đọt bầu non là món dân quê làng tôi hay thưởng thức.

Giựt cu trên những đám mạ mới gieo ít khi có, phải lựa những đám cỏ thấp có bông cỏ nhiều. Chim cu rất nhác nên chúng thường tìm nơi có cây rậm hay đồng cỏ hoang vu. Chúng nó thích ăn bông cỏ, ăn lúa khô hơn là ăn lúa nẩy mầm, trừ lúc chúng nó đói thiếu mồi.
Khổ nỗi là tôi thích vác lưới đi một mình tới đám cỏ rậm có nhiều bông, chim cu thường xuống cả bầy do ông ba Hàn chỉ cho tôi, nó nằm trong khu vườn của ông Hương Sư Liên. Nhà bác Liên có cô con gái trạc tuổi tôi tên Thời. Cứ mỗi lần cô ta thấy bóng tôi vác đồ nghề đi ngang qua cây cầu sau hè là cô hớn hở lớn tiếng chào hỏi nói năng xa gần, líu lo đủ thứ. Phần tôi thì hồi hộp cười đùa trả lời, khi thì tự nhiên khi thì ấp úng. Gần như đôi bên hai đứa có một cái gì ẩn ý chứa trong lòng mà không dám nói ra hay là không biết nói làm sao để diễn tả lòng mình.
- Cậu Sáu đi gài bẫy bắt hết mấy đám chim cu sau nhà, em bắt cậu phải đền em đấy.
- Cô Thời muốn tôi đền cái gì đây? Chim nhiều mà bác Liên không thích bắt ăn thịt để nó phá phách, tôi bẫy giùm cho mà em không cám ơn còn đòi tôi phải đền nữa sao?
- Bắt đền chớ sao? Chim gáy nghe êm tai, sáng sớm nghe vui, xế chiều nghe buồn bã, cái thú ở nhà quê của em là như vậy đó, chớ đâu phải như cậu Sáu đi học ở tỉnh thành có đủ thú vui.
- Ði học xa không vui đâu, nhớ nhà lắm, nhớ bác Hương Sư nhớ bà con lối xóm.
- Cậu Sáu nhớ bẫy chim hay nhớ ba em?
- Tôi nhớ cô Thời nhiều hơn nhớ bẫy chim.
Con nhỏ xí một cái, lại còn hứ thêm, rồi trợn mắt nhìn tôi trân trân, mỉm cười vui vẻ tiếp:
- Nói thật hay nói xạo vậy cậu Sáu?
- Nói thật!
Những câu nói đùa qua lại của hai đứa trong lứa tuổi mười ba, lời lẽ ngây ngô, không đâu vào đâu cả mà sao tôi thấy nó ngọt ngào quá. Trải lưới xong rồi, tôi ngồi trong chòm cây chờ cu về mà đầu cứ lập đi lập lại mấy câu vừa trao đổi với con Thời sao thấy lòng nó lâng lâng thích thú. Một thứ cảm giác chắc chắn không phải là tình, không phải đùa cợt, không phải chọc ghẹo trai gái. Nó có một cái gì đôi bên muốn gởi gấm, một thứ trìu mến qua những câu nói ngây ngô vô nghĩa nhưng làm cho người nghe thấy nhẹ lòng khó quên.

Gác Cu

gac cu

Gác cu phải nuôi một con chim mồi, chim trống biết gáy và phải gáy hay. Chẳng những gáy hay mà còn phải gáy rất thường. Gáy hay là “gáy hai giọng” có con gáy ba giọng, nhưng giọng thứ ba thường nghe rất nhỏ. Hai giọng không phải là giọng hát khác nhau mà là cùng giọng nhưng thêm một tiếng đệm. Có nghĩa là con chim thường gáy: Cục cú cu... cu. Còn chim gáy hai giọng nó kéo thêm một tiếng cu nữa: Cục cú cu... cu... cu. Rất ít khi nghe có giọng thứ ba, nếu có thì giọng thứ ba nghe rất nhỏ. Ông Ba Hàn ở xóm Giồng Lớn gần nhà tôi chuyên giựt cu, gác cu, bán cu mồi, bán cu ăn thịt. Ông có một con cu mồi quí như vàng gáy ba giọng, tôi có nghe qua tiếng gáy ba giọng của nó.
Gác cu như thế nào? Trời phú cho loài chim này giống như bồ câu nuôi trong nhà, chúng có hai đặc tính: Thứ nhứt là một vợ một chồng, trừ khi bạn tình của nó chết. Thứ hai là anh hùng cái thế trong lãnh thổ của nó, không cho phép bất cứ con chim nào lạ bay vào lãnh thổ đó mà trổ tài dê chim mái trong vùng. Và nó cũng không chấp nhận nghe tiếng gáy nào khác, hay hơn giọng kêu của nó. Cái tính “anh chị” ghen tương và kiêu căng đó khiến cho nó chết “vì đàn bà”.

Bẫy dùng để gác cu hình thù nhỏ, bề ngang chừng hai tấc rưỡi bề dài chừng bốn tấc. Mặt dưới bằng phẳng, phân nửa mặt trên đương bằng nan tre hình bầu tròn như nửa quả bóng, đó là lồng nhốt cu mồi, có cửa để bắt chim ra thả chim vào. Phân nửa bên còn lại có hình vòng thon như trái xoài bao trùm lưới, có lò xo kéo lên bật xuống do một hệ thống gài với một cây gác ngang để chim rừng đứng vào thì sụp lò xo bật xuống nhốt con chim rừng bay tới đá lộn với cu mồi.
Người đi gác cu dùng cây sào thật cao có móc, đưa bẫy cu đặt vững chắc trên nhánh cây, tàu dừa, hoặc máng trên cành bằng cách này hay cách khác rồi ngồi chờ cu gáy. Chim phải gáy thường, gáy mãi cho đến khi con cu chủ chốt trong vùng nghe tiếng gáy mới lạ của cu mồi bèn nổi giận tìm đến mà đá thì bị sập bẫy. Người gác cu chuyên nghiệp người ta thường tập con chim mồi cất tiếng gáy mỗi khi họ búng tay nghe chóc chóc hay hút gió kêu phù phí là chim cất giọng cú cu ngay. Cũng có khi tiếng gáy của cu mồi quá mê ly dụ được chim mái đã lẻ bạn bay tới đáp vào bẫy sập mất mạng.

Người ta thường nói: Ở đời có bốn cái ngu, làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu. Làm mai tốt ngày, tốt tuổi, thì vợ chồng người ta hạnh phúc, bằng khômg êm ấm thì mình bị phiền trách. Lãnh nợ là cái ngu lớn nhứt bởi vì đa số người lãnh nợ đều phải giang đầu ra trả và kêu trời. Cầm chầu thì luôn luôn bị chỉ trích không ít thì nhiều. Bởi vì trong một vở hát bội khi nào người cầm chầu muốn khen hát hay thì đánh một tiếng thùng trên cái trống chầu có vấn một miếng vải đỏ thắt gút to cho trang trọng. Kép hát thật hay thì chầu hai tiếng, ba tiếng thùng. Nhưng ở đời bá nhân bá tánh, câu hát này mình thấy hay người khác cho là thường, thậm chí dở ở điểm này hay điểm khác. Cô đào này đẹp, hát không hay mà vẫn đánh thùng. Cho nên sau một tuồng “hát bội” khắp nơi trong làng người ta phê phán chức sắc cầm chầu giỏi dở, công bằng hay háo sắc. Vậy thì khôn ngoan nhứt là đừng có ngu mà cầm chầu.
Còn cho rằng gác cu là ngu thì tôi thắc mắc. Phải chăng là tại chờ đợi quá lâu, hoặc cả ngày bỏ công ăn việc làm, bỏ mặc vợ con đi gác cu mà không bắt được con chim nào cả thì quả là ngu. Nếu nhà nghèo phải lặn lội kiếm cơm cho gia đình mà chọn nghề gác cu thì có thể xem đó là ngu. Nhưng nếu người khác cho đó là một thú vui, khi gác cái lồng cu lên cao, ngồi chờ trong vườn cây mát rượi, nếu là vườn dừa có những cây cao trổ bông thơm phức, gió thoảng đưa hương lướt nhẹ qua từng hồi, cảnh vật im phăng phắc, tiếng cu gáy như ru hồn. Chờ đợi trong cảnh này đâu phải là ngu? Cho dù chờ không có chim đến, phải đi nơi khác thì cũng đứng ngồi dưới những rặng cây cao bóng mát. Không phiền hà đụng chạm tới ai, không bị phê bình chỉ trích gì cả. Nếu cả ngày chỉ bắt được có vài con hoặc đi về tay không thì cũng chẳng phải là ngu vì thỏa mãn được cái thú vui mình đã chọn.

Riêng cá nhân tôi lúc còn nhỏ không có khả năng đi gác cu mà cũng không được ông Ba Hàn cho phép đi theo vì ông sợ tôi đứng ngồi lộ liễu chim không dám về. Nhưng sau này khi nên danh phận tôi tạo được hai mẫu vườn ở khu cầu kinh Sài Gòn có trồng dừa, có trồng cau, có đầy đủ loại cây cao bóng mát. Ngoài ra gần đó còn có những vườn dừa nên tôi thường nghe tiếng cu đất gáy rân, gợi cho tôi những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi bèn sinh ra ý nghĩ nuôi cu mồi để nghe tiếng gáy và sắm một giàn bẫy gác cu để nhớ lại những kỷ niệm thời xa xưa ấy. Nhớ những buổi trưa nắng gắt, cảnh vật im lìm, tiếng cu gáy êm tai, hay những lúc chiều tà tiếng cục cú cú cu kéo dài nghe buồn bã thấm thía. Cảnh vật thiên nhiên của miền Nam Việt Nam in sâu trong đầu tôi một dấu ấn mãi mãi không quên nhứt là ngày nay phải sống trong cảnh tha hương vọng quốc.

Ðuổi chim

Ðồng quê miền Nam ruộng lúa mênh mông, khi lúa chín đầy đồng thì đủ các loại chim luồn lỏi dưới rặng lúa vàng ăn hột rụng trên đất cứng sắp khô. Ðó là thời gian nhà tôi hay tổ chức đuổi chim. Nhưng đuổi chim trong ruộng lúa là điều cấm kỵ bởi vì nhiều người chia nhau lội trên ruộng đầy bông lúa chín vàng sẵn sàng rụng nếu bị lay động mạnh. Do đó người ta chỉ đuổi chim trong ruộng nhà hay như gia đình tôi chỉ cần thông báo cho các chú các bác tá điền rủ họ cùng đi với chúng tôi thực hiện cuộc đuổi bắt.
Cái bẫy gài để bắt chim gọi là cái “Bống”. Nó có hình dáng tròn như một cái ống to có đường kính chừng năm tất, dài ba thước chia làm hai ngăn, đan bằng nan tre lỗ nhỏ. Mỗi ngăn có cửa gài thật chắc để thò tay bắt chim được. Ðầu trên bít chịt, đầu dưới có một hom tre thật mỏng vô được dễ dàng mà ra không được. Chặng giữa cũng có một hom giống y như vậy. Sở dĩ người ta chia làm hai ngăn là để phòng khi có nhiều chim quá chúng nó có chỗ dồn vào đó, và nếu chim đầy chúng giẫy giụa quá mạnh phá gãy hom ngoài bay mất thì chim sẩy cũng không hết, vẫn còn một số đã vào ngăn trong. Tính toán là như thế chớ ít khi bị sẩy mất chim, bởi vì dù cho có đầy chim nhưng làm cho sút hay gãy cái hom không phải dễ.
Trước khi đi đuổi chim phải xem coi ruộng nào thường nghe chim “cúm núm” kêu. Cúm núm là một loại gà nước tiếng kêu của nó to: cúm núm... cúm núm... túc... túc... túc... Sau khi lựa những thửa ruộng mình nghi là sẽ có nhiều chim rồi thì tập trung chừng bảy tám người, ba bốn chú vác liếp, mang bống, cộng thêm ba anh em chúng tôi, thằng nào cũng hăm hở, mừng rỡ vì biết sẽ có nhiều chim và là một trò chơi quá dễ dàng mà kết quả luôn luôn tốt đẹp.

Người nhà quê dùng cái liếp để phơi thuốc lá. Sau khi sắc lá thuốc nhỏ bời rời, người ta kéo thành rê mỏng ép trên mặt bằng của cái liếp đan bằng tre hoặc bằng cây sậy đập giập, bề ngang cái liếp lớn độ năm tấc, bề dài hai thước, liếp tre dùng được lâu bền, liếp sậy nhẹ nhưng mau hư.
Vác liếp đi đuổi chim mấy chú mượn liếp sậy để nhẹ vác. Tới nơi mấy chú mấy bác dùng liếp ấn nhẹ xuống đất, dựng sát hai bên cái bống, mỗi bên sắp mười liếp chạy dài nghiêng chiều thành một góc khá rộng kể từ cái bống. Xong rồi chúng tôi bắt từ phía đối diện với chỗ đặt bống, chia mỗi người đứng cách xa nhau, lội xuống ruộng tay vạch nhẹ cây lúa, chân bước chậm, miệng la hù... hù... với mục đích đuổi những con chim đang ở trước mặt chạy tới. Khi bước đi còn cách xa cái bống thì hù... hù... khá lớn tiếng, đi lại càng gần thì tiếng hù càng nhỏ bởi sợ lớn tiếng chim hoảng hồn bay bổng ra khỏi ruộng là mất một con mồi. Cứ đi như vậy gần tới đích, đoàn người gom tụ nhau cho đến tận cái bống thì thấy chim ơi là chim. Nào cúm núm, cò ma, chằng nghịch lông ức màu xanh óng ánh, mỏ nhát bông trắng bông đen mập ú lù, ốc cao mỏ đỏ nhỏ con ngon thịt.
Hết thửa ruộng nầy đến thửa ruộng khác có khi đuổi hai lần có khi ba lần đuổi bắt nhiều chim chia nhau ăn nhậu vui vẻ. Làm sao tôi không ham đuổi chim bởi vì biết trước khi đi thế nào cũng có nhiều chim và cái thú vừa lội trong lúa vừa hù, vui thích nhứt là tới nơi thấy cái bống chứa đủ thứ chim giẫy giụa tìm đường thoát thân không được.

Những thú vui mà thế hệ của tôi sống ở đồng quê miền Nam được chứng kiến và vui hưởng chắc không còn có thể tìm lại được nữa. Tiếc rằng người viết không đủ tài năng để mô tả, diễn đạt đầy đủ ý nghĩa, phơi bày tận cùng hết ý những cảm nghĩ sâu đậm trước những thú vui cảnh đẹp của miền Nam thân yêu ngày trước.

Những trò chơi quê mùa của tuổi trẻ

dochoituoitho8

Thời gian lúc tôi còn thơ ấu 1940-1950, trẻ con trong làng, giàu cũng như nghèo không có được những món đồ chơi như đám con tôi sau này, nào xe hơi chạy bằng pin điện, nào tàu con chạy trên nước, búp bê biết nói biết cười, thậm chí súng M16 bằng nhựa bắn xẹt lửa. Càng không thể tưởng tượng như bây giờ mấy đứa cháu tôi ở Mỹ có đủ thứ đồ chơi nhằm thỏa mãn sự tò mò, óc sáng tạo của chúng nó hay khêu gợi sự thích thú về âm nhạc và màu sắc. Ðồ chơi vừa đem lại sự thích thú vừa là phương tiện giáo dục cho trẻ con thời đại ngày nay. Ðồ chơi nhiều đến nỗi chất cả đống trong một góc nhà hay cả một phòng dành cho chúng nó vui đùa phá phách.
Nhưng xét cho cùng mỗi thế hệ có những món chơi thích hợp với thời đại của thế hệ đó và cũng thỏa mãn được những thú vui hay sự ưa thích của đám con nít sống trong xã hội lúc bấy giờ.
Tuổi thơ của tôi ở nhà quê có những thú vui rất thông thường giản dị, kể lại chỉ có những độc giả ngoài năm mươi tuổi mới hiểu được vì đã thấy hay có chơi qua, như bẫy chim, bắt tổ chim, đánh trổng, u nước, mổ đáo tường, đá banh chuối v.v... và

Mien Nam 7
Bẫy cò

Trò chơi vui thích nhứt, ít khi bắt được chim nhưng mỗi lần gài dính một con cò bị treo cổ lòng thòng trên cần bẫy là một sự vui mừng khó tả, một thành công, một chiến thắng của anh em tôi và là một đề tài để chúng tôi hãnh diện bàn tán khoe khoang, đôi khi còn thêm mắm dậm muối cho ra vẻ ta đây là thiện nghệ.
Còn đối với những người trong nhà như bà cô tôi hay mấy chú giúp việc thì họ chế nhạo rằng: Tao có vạch con mắt nó thấy một bên bít chịt còn một bên sưng tù vù hình như con cò nầy không thấy đường đó tụi bây! Cho dù có nói gì đi nữa thì chúng tôi cũng được ăn một món thịt cò bầm nhỏ có xả ớt, xào khô, xúc bánh tráng nước dừa và món canh lá bầu non với thịt cò ngon ơi là ngon.

Ðồng ruộng miền Nam thời đó có chim đầy đồng, nước ngập có tràn bè, giang sen, diệc mốc, bay qua đáp xuống tìm cá. Mùa gặt lúa xong, nhiều cánh đồng còn ít nước đọng vũng, những nơi đó cò trắng đáp từng đàn hàng trăm con, lăn xăng tìm nhái con, cá nhỏ còn sót lại, ngày nào cũng thấy trắng ruộng. Khoản thời gian đó là thuận tiện nhứt để gài bẫy cò.
Bẫy cò rất đơn giản. Một cần tre thật dịu dài hai thước, một sợi dây chắc chừng một thước, khoản bảy tấc dây cột dính vào một thanh tre nhỏ chừng năm phân, giữa thanh tre cột một dây có lưỡi câu để móc cá con hay nhái làm mồi nhử cò. Ba tấc dây cuối cùng còn lại làm vòng tròn như thòng lọng để siết cổ cò. Khi gài bẫy người ta khoét lỗ tròn hoặc lợi dụng lỗ chân trâu có nước khá sâu. Cần bẫy cắm sâu vào đất, hai bên miệng lỗ cắm hai thanh tre xéo ở đầu miệng, gài cây ngang có cá mồi dính trong lưỡi câu. Cò mổ cá, cây ngang sụp, cần tre bật, vòng thòng lọng thắt đầu cò treo cổ chờ chết. Cũng có khi cò giẫm chân trúng bẫy, nó giãy giụa bay hết trớn, nếu cần bẫy cắm không sâu dưới đất hay thòng lọng siết chân nó không chặt thì sút chân bay mất hoăỳc nhổ luôn cần bẫy mất cả chì lẫn chài.
Trong trường hợp cò bị rủi ro mắc chân thì rất khó gỡ, nó bay tứ tung khó lòng bắt trúng nó bởi vì phải e chừng nó mổ vào tay rách thịt, nếu không may trúng mắt có thể bị đui. Người lớn hay nhát chúng tôi về vụ đui mắt nên mỗi lần như vậy là chúng tôi dùng roi quất cho cò ngã chết mới dám lại gần.
Cái vui mừng, sự hồi hộp khi thấy con cò bị treo cổ, giống như tôi được giải nhứt trong lớp trúng thưởng cuối năm, hay bỗng nhiên ông nội gọi cho một số tiền lớn. Sung sướng vì có cơ hội để khoác lác với bạn bè. Còn đôi khi cò bị vướng chân thì mừng ít sợ nhiều, chỉ khi nào đập chết con cò tháo gỡ xong thì nỗi sợ mới biến thành sự vui mừng không được hớn hở trọn vẹn.

Ðánh trổng tán u

Bộ trổng gòm một cây thước tròn gọn để cầm tay, dài độ năm sáu tấc và một con trổng nhỏ bằng ngón tay cái dài một tấc rưởi hoặc hai tấc. Buổi chiều trời mát rủ nhau ra ruộng khô hoặc tìm sân, bãi nào trống. Khởi sự lấy đầu cây thước xoi khoét một lỗ nhỏ xiên vừa để con trổng nằm nhóc đầu lên, lú ra một chút, đủ để đập xuống đầu nó con trổng văng bổng lên, gọi là chặt gồng, đồng thời đánh mạnh vào con trổng, gọi là tán, cho nó đi càng xa mịt mù càng tốt. Ðứa nào tán xa hơn là ăn, đứa nào tán gần là thua, đứa nào tán hụt thì thua chắc. Thằng nào ăn thì cầm con trổng và cây thước trong cùng một tay, thảy bổng con trổng lên tán trúng cho đi thật xa, con trổng vừa rớt xuống đất thằng thua bắt đầu chạy đi lượm con trổng về, miệng phải kêu lớn u.u.u không được đứt hơi, nếu chạy xa trở về mà đứt hơi thì phải tán lại và u lại cho tới khi nào đem được con trổng về đúng luật lệ mới khởi sự chơi bàn khác. Nếu kẻ thắng tán hụt con trổng rớt tại chỗ thì khỏi u. Người lớn đánh trổng ăn tiền, người ta tán con trổng đi xa và lấy cây thước vừa đi vừa đo tổng cộng bao nhiêu thước rồi hai bên trừ số sai biệt, được bao nhiêu thước là phải chung bấy nhiêu xu.

U nước

Một đám bạn bè chia nhau bắt bồ thành hai phe. Gạch một lằn ranh chia thành hai nước. Một thằng bên này chạy qua lằn mức bên kia miệng kêu lớn u.u.u không được phép đứt hơi, lấy tay bắt trúng mình một đối thủ và chạy thoát về kịp bên nước mình thì đối thủ bị bắt trúng chịu chết ra khỏi hàng ngũ. Nếu anh chàng u.u.u.. xong qua nước người ta mà bị kẻ địch xúm nhau bắt cứng bên đó hoặc đứt hơi nửa chừng thì coi như chết phải ra sân. Cứ như vậy mà chơi cho đến khi nước nào hết quân là thua.

Chọi đáo ăn cổng

Mỗi thằng có một đồng xu, bằng đồng hay bằng chì, nặng nhẹ, lớn nhỏ tùy ý miễn sao cầm vừa tay và đừng quá lớn vì người ta sẽ chọi dễ trúng đồng tiền của mình. Thời tôi còn nhỏ có một xu bằng đồng, lớn bằng rưỡi đồng quarter dollar của Mỹ, nó mỏng và nhỏ, người ta chọi khó trúng nhưng nhẹ quá không vừa tay khó chơi. Do đó đa số đi tìm chì hay đồng nấu chảy, đổ vào một lỗ đất khoét sẵn cho vừa ý mình. Ðợi chì hay đồng nguội, lấy lên mài bằng mặt, dẹp tròn vừa tầm chọi cho sướng tay. Ai có tiền thì nhờ thợ bạc làm bằng đồng chì theo ý muốn của mình.
Chọi đáo thường chơi hai đứa, thằng đi trước thảy xu xa gần tùy ý, gọi là “thí”, thằng sau nhắm chọi trúng là ăn, nếu không trúng thì đồng xu của mình văng gần hay xa đồng của người ta phải để y đó cho người ta chọi trúng thì thua. Ai thua khom lưng xuống cho kẻ thắng trận leo lên lưng cầm đồng tiền của kẻ bại thảy xa gần tùy ý rồi nhắm nó mà chọi trúng thì được ngồi trên lưng cho người ta cõng tới đó lượm xu trở về mức khởi điểm. Thường trước khi chơi phải giao hẹn: Có quyền nhảy lên lưng ngựa hay không? Nếu là có thì tội nghiệp cho kẻ thua! Thằng bạn nó lấy trớn phóng lên lưng mình có khi muốn té chúi nhũi. Con nít ác ôn như vậy đó, nhưng mọi thằng vẫn thấy đó là vui là thích khi được hành tội người khác.

Mổ đáo tường

Trước khi chơi phải vẽ một khung lớn hình chữ nhựt. Ðầu dưới lấy gạch kê một tấm ván dài năm tấc ngang ba tấc, nằm ngửa mặt, đủ độ nghiên để cầm đồng xu mổ vào đó nó chạy quanh như thế nào mà không ra khỏi đường vẽ cao nhứt. Ai mổ ra khỏi lằn mức trên cao thì coi như chết. Lượm xu về để trên dấu chết cách tấm ván chừng năm tấc. Mọi người đều nhắm canh làm sao để mổ cho đồng xu của mình nằm cao trên hết thì có quyền chọi những xu của người khác nằm dưới, rồi cứ tiếp tục chọi nếu trúng thì tiếp nửa, nếu trật thì người kế tiếp chọi đồng xu của người dưới mình. Ai thua thì đưa lưng ra chịu cho người khác cỡi. Con nít chơi ăn cõng người lớn chơi ăn tiền nhưng ít khi thấy người lớn chơi mấy cái trò như vừa tả trên đây.

Ðá banh chuối

Làm một trái banh chuối quá dễ, lấy những tàu chuối khô, tuốt lá, còn lại tàu khô xé ra làm dây, nối liền nhau từng khúc dài. Cuộn lá chuối khô, dùng giây quấn chặt thành một cục tròn nhỏ, rồi cứ thế mà quấn lá thêm vào, ràng dây siết chặt thành một cục tròn lớn hơn. Lớp thứ ba phải dùng toàn bằng dây quấn thành một trái banh lớn nhỏ tùy ý bọn con nít trong làng chơi chung với nhau. Rồi hai thằng đầu đảng bắt bồ, chia làm hai phe, khi nào có lẻ một thằng thì bên nào ỷ mạnh sẽ chấp bên kia thêm một cầu thủ.
Ðá banh trên đường lộ, bằng phẳng dễ chơi nhưng thỉnh thoảng có người lớn đi ngang qua thì phải ngừng, nếu là thằng nhỏ trong làng đi qua thì không ngừng nhưng có thằng liến khỉ xong vô đá bậy một cái rồi chạy thì cả lũ chưởi bới inh ỏi, có thằng tức giận bỏ sân rượt theo dĩ nhiên là chạy không kịp! Vui thật là vui. Nếu không may gặp cha mẹ hay cô bác của một cầu thủ đang hăng hái giành banh thì người cô bác đó đứng lại xỉ vả cả đám một hồi rồi đuổi xuống ruộng mà đá. Ruộng lồi lõm làm sao đá? Chỉ lấy chân dích banh và chạy theo giành, tất cả đám “xây lố cố” chúng tôi quần riết thửa ruộng cũng bị san bằng thành sân banh!
Những ngày nghỉ bãi trường, chiều nào không đánh trổng thì cũng chọi đáo, u nước hay đá banh chuối cho tới chạng vạng tối mới về nhà tắm rửa.

Bắt ổ chim

Kỷ niệm ở đồng quê, sự đam mê của tuổi trẻ thật đơn sơ giản dị. Những thế hệ con em sinh ra ở thành thị không chung đụng với thiên nhiên, khó biết loài chim sinh trưởng như thế nào? Nếu có đứa nào ham muốn nuôi chim thì cha mẹ cho tiền mua thú sắm lòng. Chim biết hót, chim biết nói chúng lại tự hỏi làm sao chim nói được tiếng người?
Tôi đã từng bắt khá nhiều ổ chim, đã từng nuôi cưởng biết nói, dồng dộc đeo theo mình, cu đất cu ngói lớn khôn bay mất, chim sẻ khó dạy, chim sắc dễ nuôi. Nhưng có hai loại chim tôi nuôi thành công và mãi ham mê cho đến khi lớn lên có gia đình, thành danh mà vẫn tìm mọi cách kiếm cho bằng được loại chim mình đã từng nâng niêu khi còn thơ ấu. Ðó là dồng dộc nghệ và cưởng.
Những thứ chim như cu đất cu ngói dễ nuôi nhưng bị gia đình rầy vì nuôi chim con phải nhai gạo rồi ngậm mỏ nó vào miệng mình, chúng xóc nuốt như chim mẹ ngậm mỏ chim con mà súng mồi. Hai loài chim này rất ngu, nuôi lớn nhớ rừng bay mất. Chim sẻ đầy sân đầy nhà lớn lên chúng nghe tiếng đồng loại nhập bọn bỏ mình, gọi mấy nó cũng không về.
Có lần tôi đi câu thấy bầy le le con, tôi rượt bắt được ba con đem về nuôi chung với bầy vịt lớn lên nó sinh sống như vịt trong nhà, đi ăn rồi về cho dù có le le rừng đeo theo rủ rê cũng không dụ được. Có lẽ nó đã quen thân tiếng vịt nên không hiểu được tiếng chim đồng loại của nó. Cũng giống như báo chí đưa tin có một cô gái người Miên lạc trong rừng lúc còn bé. Cha mẹ tìm được nó quên hết tiếng người.
Chim cưởng làm ổ trên các ngọn cây cao chót vót, thường là cây keo có gai. Cưởng làm ổ bằng cành khô lá rụng, cũng có khi bằng rác rến, lông chim lông gà vải vụn, bất cứ thứ gì chúng có thể làm thành một ổ to che nắng che mưa và bên trong mềm êm để chim con sống thoải mái. Ổ cưởng có lỗ chui vô chui ra gọi là cái vòi. Khi nào cưởng con lớn thì cái vòi được lót dài thêm, đề phòng cưởng con bị té chết vì giông gió ngọn cây chuyển động mạnh. Muốn bắt cưởng con vừa lớn để nuôi thì phải canh chừng khi thấy cái vòi ổ dài ra chừng hai tất là phải chấp cây thật cao thọt cho rớt nguyên ổ nếu không chim con có thể té chết. Vòi ổ cưởng dài trên ba tấc là cưởng con biết bay chọt rớt ổ cũng không bắt được con nào.
Nuôi cưởng con từ lúc nhỏ thật công phu, mỗi ngày bắt cào cào châu chấu cho nó ăn không đủ phải cho ăn thêm cơm. Nhưng nếu ăn nhiều cơm sẽ khó tiêu, do đó phải cho cưởng ăn ớt thật nhiều. Mỗi ngày nó nuốt ít nhứt năm ba trái ớt hiểm. Cưởng lớn lên phải lột lưỡi và để nó sống gần nơi có tiếng nói của người. Người ta hay treo lồng cưởng gần bếp hoặc thả cưởng đi tự do nhưng thỉnh thoảng phải cho nó ăn nơi nào mình muốn nó quanh quẩn nơi đó.
Lột lưỡi là bắt cưởng nắm trong tay trái, tay phải vạch mỏ, kéo lưỡi nó ra, bên dưới lưỡi cưởng có một vãi trắng, lấy móng tay khều nhẹ từ từ, vãi trắng đó tróc ra, nắm kéo thật nhẹ không cho đứt chót lưỡi, nếu đứt chót thì hết nói luôn phải nuôi con khác. Cưởng lớn chừng một năm hoặc hơn tùy con, sẽ biết nói theo những gì mình dạy nó từng tiếng. Nuôi lâu nó hiểu được tiếng người và nói theo thói quen kêu “ba ơi có khách”, “đi đâu đó”, “cậu sáu đâu rồi”, “ăn cơm” vân vân. Trong nhà có một con chim biết nói là một kỳ công, một sự hãnh diện, một niềm vui giải trí khi mình đối thoại với nó hết câu này đến câu khác toàn những gì nó thuộc lòng.
Chim dồng dộc nghệ long vàng bông đen, mỏ vàng, loài chim này có giác quan khôn lanh, sống theo bầy, nó chỉ đóng ổ nơi nào có loại ong bần đầy vẩy, ngọn dừa, ngọn cây bần, chỗ nào có ong là có ổ dồng dộc. Không ai có thể trèo lên cây đó bắt ổ của nó. Muốn bắt chim phải dùng cây sào cao có lưỡi hái giựt đứt cuống thì mới bắt được ổ. Tuy nhiên phải luôn đề phòng ong đánh sưng mặt.
Loài chim này có biệt tài kiến trúc rất khéo mà tôi chưa từng thấy loài chim nào làm ổ khéo léo và chắc chắn như vậy. Chim cu làm ổ sơ sài bằng mấy cành khô nhỏ gác xuyên qua xuyên lại, đứng ở dưới nhìn lên thấy hai trứng của nó trắng phau. Còn chim dồng dộc chúng bay đi tước từng giây lát nhỏ dài, đem về đương thành một cuống to bằng ngón tay đình liền với cành cây chạy dài xuống độ ba tấc rồi bung phình ra như một cái chén lớn tròn bầu thụng xuống, trên miệng chén đó có một vòi thòng xuống, vòi ngắn khi chim mới đẻ, nở chim con càng lớn vòi càng thòng dài ra. Ổ chim đương thật kỹ, tay người xé không rách, hình thù giống như một cái chén lớn treo lòng thòng có cái vòi dài hay ngắn tùy theo. Ðó là ổ chim mái. Còn ổ chim trống thì đơn sơ như nửa cái chén úp mặt xuống có dây đương ngang để chim trống đậu ngủ ban đêm.

Lớn lên tôi thường bày vẽ cho con tôi thưởng thức những thú vui gần với thiên nhiên trong đó có việc bắt ổ chim đem về nhà treo như một thứ vật trang trí trưng bài hoang dã đẹp mắt. Thằng nhỏ có nuôi một con chim con thật khôn, lớn lên nó đi đâu chim theo đậu trên vai thỉnh thoảng kêu the thé rỉa cổ áo, mổ tóc, nó hay bay dẫn đường thật dễ thương.
Bây giờ tuổi già nhớ lại, điểm từng việc đã làm, từng hành động đã qua, tôi bồi hồi, ngồi im tưởng tượng. Ước gì trời cho tôi nhỏ lại sống một thời gian ngắn, ôi! biết bao nhiêu vui sướng, tôi hình dung cõi tiên, cảnh phật, thiên đàng chắc cũng chừng ấy vui mừng và lạc thú đơn giản như vậy.

Chim bìm bịp

Mien Nam 8
Trong bài trước tôi có mô tả thú vui của trẻ con hay bắt tổ chim. Ðã nói bắt tổ chim mà không nói đến sự tìm kiếm bắt ổ bìm bịp thì quả là thiếu sót. Bởi lẽ chim bìm bịp có nhiều giai thoại được dân quê truyền miệng mà lúc còn thơ ấu chuyện con bìm bịp gây khá nhiều thắc mắc và mơ ước cho tôi. Chim bìm bịp lớn hơn con cu đất, lông màu nâu, đuôi dài, mỏ to, lông cổ, lông đầu màu đen. Ðặc tính của loài chim này là sống dựa mé sông và mương rạch. Tại sao? Bởi vì chúng ăn mồi cá tép cho nên mỗi khi nước rồng sát để lòi bãi bùn đầy lổ hang của cá thòi lòi, cá bống sao, còng gió nhỏ con có màu sắc hoặc xám xì như cua, thậm chí con tèn hen hay ốc lát đều là những món ăn thông thường của bìm bịp.
Bìm bịp có hai tiếng kêu rất đặc biệt. Khi chúng bước nhẹ trên bãi bùn hay đứng rình trước hang cá, lỗ còng, chờ bọn chúng lú đầu ra là nhanh như chớp mổ, xóc nuốt liền. Nếu trong lúc kiếm ăn mà có tiếng động hay bóng người thì chúng kêu “cốc cốc cốc...” Hình như để báo động với đồng loại rằng có nguy hiểm. Ðặc biệt lúc chúng tìm mồi khi nước rồng ló bãi cho đến khi nước khởi sự lớn ngập một hai tấc đất là người ta nghe bìm bịp trong vùng lớn tiếng kêu vang “bịp bịp bịp bịp...” một hơi dài rồi xuống giọng nhỏ dần. Hình như để lưu ý đồng loại là đã hết giờ không còn bắt mồi được nữa. Do đó mà dân gian, hạng người sinh sống bằng nghề câu, chài lưới, hay chở hàng buôn bán đầu làng cuối chợ theo sông rạch của miền Nam có câu hát rằng:

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi,
Buôn bán chẳng lời chèo chống mỏi mê!

Loài chim bìm bịp làm ổ những nơi rậm rạp, bụi cây gai góc khó tìm. Cho dù biết được hướng đó có ổ của nó, muốn vô tìm cho ra thì cũng vô cũng gian khổ. Tiếng đồn rằng con bìm bịp là thầy trật tả. Tại sao có chuyện ly kỳ như vậy? Bởi vì theo lời đồn đãi thì người nào tìm được ổ bìm bịp, có chim con thì bẻ chân bẻ cánh chúng nó để lại trong ổ, rồi một hai ngày sau trở lại lấy những lá cây bột sình của chim mẹ đấp vào chim con cho lành xương tan máu. Và cứ làm như vậy để lấy thuốc cho tới khi chim lớn, bắt hết chúng nó ngâm rượu cùng với bùn và lá đã thu được từ trước đến nay. Cái đó gọi là thuốc rượu con bìm bịp.
Câu chuyện tôi tin có thật bởi vì ở xã Phú Thuận của tôi lâu lâu có vài ba anh “Ba Tàu sân đông múa võ” để bán thuốc cho người hiếu kỳ bu xem chung quanh. Trong số đó thường có anh em chúng tôi. Bởi vì trước khi sân đông mãi võ thì họ đánh trống lùng tùng xèn báo tin. Thường là ngay những lúc nhóm chợ buôn bán đầy người.
Trong lời quảng cáo nhiều thứ thuốc có “Thuốc rượu con bìm bịp, uống vô hết nhứt lành xương, xoa ngoài hết đau, uống vào bổ thận, bổ xương. Mại vô, mại vô đi.” Vừa hô to lời quảng cáo tên mãi võ bốc ra từ hủ thuốc một con bìm bịp lông lá còn nguyên vẹn, nước rượu sậm màu chảy ròng xuống hủ. Rồi tên mãi võ bỏ con bìm bịp vô hủ, tay đấm mạnh thình thịt vào ngực anh ta, cầm chai thuốc đổ vào ngực xoa bóp lia lịa cười ha hả miệng hô to “Bà con thấy chưa? Không tức ngực, không bầm, không đau, không nhức, thuốc thần thuốc tiên mại vô bà con, mại vô mua đi.”
Rồi một cảnh tượng khác làm tôi hãi hùng khi mà đầu óc tôi còn quá non trẻ: Anh “Ba Tàu” mãi võ cầm một cây kiếm suông đuột, dài độ năm tấc, anh hả họng thật to, đút lưỡi kiếm từ từ vào cổ họng thụt lút cán kéo lên kéo xuống hai ba lần, lấy ra và tiếp tục hô to lời quảng cáo “dầu cù là hiệu ông tiên đau đâu xoa đó, xức vô hết liền.” Hết múa võ đến màn đấu võ “cụi”. Ðó là nghề của Ba Tàu sân đông nhưng nó vô cùng hấp dẫn và hứng thú đối với chúng tôi lúc thiếu thời.
Trở lại thuốc rượu con bìm bịp, điều làm tôi mơ ước kiếm được tổ chim để thử bẻ chân bẻ cánh tìm những vị thuốc bí mật do trời phú cho loài chim này. Tôi rình rập mãi mới thấy một cặp chim thường bay vào hướng bụi rậm gần mé sông, đầy cây ô-rô lá gai góc, lên tới bờ phải vạch bụi mà đi. Chúng nó khôn ngoan dụ người đi lạc hướng, chúng bay về ngõ khác cứ chui vào bụi rồi lòn ra, bay xa rồi trở lại cũng chui vào các bụi đó. Mặc cho tôi vạch kiếm khắp nơi, kiếm từng bụi cây cũng không thấy ổ.
Tôi tiếp tục rình rập, tới lui nơi đó vì tôi tin chắc phải có ổ của hai con bìm bịp này. Cho đến một ngày tôi nghe bìm bịp con kêu nhỏ tiếng cốc cốc,... cốc cốc,... cốc cốc,... ở phía đối diện với các lùm bụi tôi đã càn quét nửa tháng trước. Thì ra chim mẹ đã gạt tôi đi lạc hướng với mục đích bảo vệ chỗ ở của nó. Bây giờ tìm ra thì chim con đã lớn biết bay chập chững, dù không được xa nhưng lùm bụi cản đường làm sao rượt bắt được!
Thời gian lâu sau đó cũng đôi chim bìm bịp này dẫn tôi đến khu lùm gần bên, tôi biết khôn nên cứ tìm những hướng đối ngược với chổ chúng chui vào. Kiếm ra được ổ có 4 trứng màu xanh có bông đen, lớn hơn ngón tay cái. Tôi thò tay mân mê, bẻ nhánh cây làm dấu để ngày sau biết đường tìm, vài hôm tôi trở lại, chim bỏ ổ vì có mùi hôi tay người mó vào. Chúng nó bỏ trứng đi tìm nơi khác mà sinh sản. Kết quả tôi chưa bao giờ biết được xác thực bìm bịp có thuốc trật tả kỳ diệu như người đời truyền tụng.

Bơi lội

Có những đứa bạn đồng hương trạc tuổi tôi, chiều chiều hết đá banh, đánh trổng, hay vật lộn trên những đống rơm, mình mẩy trầy trụa ngứa xót. Chúng nó nhảy đùng xuống mương, xuống rạch, bơi lội xơi xởi, người nổi ló đầu ngang ngực. Bơi như rái mà hình ảnh không giống như trong sách học. Sách vẽ người lực sĩ nằm bơi chân duỗi thẳng đập nước, tay sải nhẹ nhàng lớp lang. Còn mấy thằng này lội ngang lội ngược tay móc xuống nước như tìm kiếm một thứ gì chìm gần bên hông. Dù bơi như thế nào tụi nó vẫn nổi không chìm, vẫn tắm vui vẻ lặn lội tứ tung. Còn tôi mơ ước ngưỡng mộ, thèm được như chúng nó. Nghĩ tới lúc về nhà phải xối tắm từng gáo nước thì ước mơ biết lội của tôi nổi dậy mãnh liệt. Tâm sự với ai ngoài thằng Có, nó chăn bầy trâu của ông Hương Quản Họa gần nhà. Nó bảo:
- Mầy cứ bắt một con chuồn chuồn trâu, màu xanh, con lớn, cho nó cắn rún là mầy biết lội ngay.
- Có thật không?
- Thật mà.
- Mầy có cho nó cắn rún mầy không?
- Có, mấy chú lớn, kể cả ông chủ tao cũng bảo tao như vậy.
Tôi mừng thầm, sáng ngày hôm sau tôi bám quanh mấy cây lựu trước nhà kiếm bắt cho bằng được một con chuồn chuồn trâu, loại lớn hơn chuồn chuồn thường, dỡ áo lòi rún đút dầu con chuồn chuồn vào nó cắn đau điếng thấy mấy ông trời! Tay giựt mạnh, đầu con chuồn chuồn sứt ra còn dính trên da rún. Ðau quá nhưng lòng mừng thầm ngày nay mình sẽ biết lội. Tôi còn tự nhủ mình phải đủ gan chịu đau, bắt thêm một con khác cho nó cắn một lần nữa mới chắc ăn. Nghĩ như vậy vì cái rún đã hết đau. Tôi làm gan bắt một con chuồn chuồn khác cho cắn lần thứ hai đau quá tôi vội buông tay con chuồn chuồn bay mất.
Chiều hôm sau tôi chờ cho trận cút bắt, trốn kiếm trong những đống rơm ngoài đồng chấm đứt, tụi nó kéo nhau ra mương dừa gần đó nhảy ào xuống tắm la ó om sòm. Tôi ngập ngừng lưỡng lự vì lần đầu tiên muốn xuống nước. Sự ham mê thúc giục tôi nhảy ùm xuống mương. Chìm lỉm! Uống nước ừng ực, sợ hãi vô cùng, nhưng đầu còn tỉnh táo, hai tay mò vào đất lần đi thẳng vô bờ, tôi ngóc đầu lên thở được. Nhưng cũng còn bán tín bán nghi, chưa biết mình bị thằng Có gạt. Tôi đứng dựa mé mương khoát nước tắm rửa cũng cười như mọi người nhưng đầu cứ tự hỏi sao thằng Có biết lội mà mình không biết?
Ðêm đó tôi ngủ không ngon vì đầu thắc mắc chờ sáng sớm phải hỏi lại thằng Có xem sao? Nó lùa trâu đi xa nhà một khoảng, tôi vòng ngã trước đón đường gặp nó hỏi ngay:
- Có, sao hôm qua tao nhảy xuống mương không nổi, lội không được uống nước thấy mồ?
- Ai biểu mầy ngu, nghe lời tao mầy ráng chịu! Nó cười hô hố. Tự nhiên tôi phát khùng, dọng cho nó một thoi vào sườn, chửi mắng túi bụi. Nó không dám đánh lại, nó vừa chạy vừa lêu lêu nói:
- Tao bị người ta gạt thì bây giờ gặp mầy tao gạt lấy vốn lại cho huề. Nó chạy trối chết tôi không thèm rượt theo, trở về buồn bã vì ngu bị gạt và quyết tâm phải tập bơi cho bằng được. Khôi hài nhưng có dại mới nên khôn, những trò chơi ấu trĩ đó nó để lại cho tôi những kỷ niệm nhớ đời.

Công cấy

Miền Nam là vựa lúa của cả xứ. Mùa mưa nông dân dọn đất gieo mạ xong là cày, bừa, trục những khu ruộng mênh mông còn lại, dọn sạch cỏ lác chờ ngày cấy. Cấy lúa và nhổ mạ thường xẩy ra cùng ngày. Ðám mạ chừng một công đất có thề cấy trên vài ba mẫu ruộng.
Nhổ mạ phải là đàn ông, bởi công việc khá nặng cần sức. Quần đùi, nón lá, áo bà ba đen, ngang lưng cột một chùm giây lạt dừa, một thứ giây làm bằng da cây dừa nước chẻ nhỏ phơi khô. Người nhổ mạ khom lưng nắm từng nạm lúa non giựt mạnh tróc rể đưa chân đập gốc mạ vào cho văng bớt bùn dính theo rể lúa, nếu bùn còn nhiều người nông dân cầm nắm mạ diệu qua diệu lại trong nước cho bùn rớt ra. Nhổ được ba bốn nắm anh ta thò tay rút một sợi giây quấn ngang bó lại để tại chỗ đó. Những bó mạ này sẽ được chủ ruộng kéo đi ném gần nhóm nữ công đang cấy, họ mở ra, mạnh ai nấy lấy từng nắm, tước nhỏ đôi ba tép cấm xuống bùn và cứ thế mà vừa cấy vừa lui dần ngược về phía sau lưng. Người cấy lúa nào cũng có một cây nọc giắt sau lưng dành cho những ruộng gò đất cứng, Họ sẽ cầm nọc ấn xuống cho có lổ để nhét tép mạ vào. Ruộng gò khó cấy do đó tìm nhân công không dễ.
Chủ ruộng muốn cấy phải lựa ngày không trùng với những đám cấy khác. Trong xã của tôi nông dân quen biết nhau hết. Sự quen biết lâu năm trở thành như bà con, ai cũng chú cũng bác cũng anh cũng tui. Ruộng anh cấy mấy ngày xong? Rồi tới phiên tôi nhé. Người nghèo cô đơn thì cấy lấy tiền, lấy lúa. Người có ruộng thì cấy vần công, nghĩa là tôi cấy ruộng anh hôm nay mấy ngày thì mai này vợ con anh cấy trả lại cho đồng công. Còn dư thiếu sẽ tính tiền bằng lúa hay trả bằng những ngày công làm việc khác tùy theo sự dàn xếp đôi bên. Mọi sự thương lượng dựa trên tình người. Trong làng tôi không cần có hợp tác xã, không cần hiệp hội nông dân để quản lý hay phân xử, không ai hà hiếp bóc lột ai. Tất cả là một sự hòa hợp có tình có nghĩa của người đồng hương.
“Công cấy” là những người đàn bà con gái trong làng. Vận áo bà ba đen quần dài, đầu đội nón lá, “vo” quần cao lên khỏi gối, người nào sợ đĩa thì cột giây bó chặt quần phủ tới mắt cá. Tất cả dàn hàng ngang đứng đều cách nhau chừng hai thước đủ để đưa tay cấy 5 tép lúa phía trước mặt. Ðám đông phụ nữ người khom kẻ đứng, tay trái cầm nắm mạ tay phải tước, cắm lia lịa xuống bùn, cứ vậy mà lui dần về phía sau, cảnh tượng sống động xem thật đẹp mắt.
Tôi thích theo công cấy để nghe hò, để xem mặt những cô gái quê mùa có vẻ đẹp ngây thơ mà thằng con nít như tôi chưa biết yêu, chưa biết tình, nhưng vẫn biết nhìn, biết khen, biết muốn làm quen nói đùa với mấy cô thôn nữ đẹp. Biết nhìn những cặp đùi trắng phau, lòng thấy lâng lâng mà không biết tại sao? Bây giờ nhớ lại tôi còn thấy vui, thấy nhớ, thấy thèm, thấy tiếc vì không khi nào có thể hưởng được cái thú vị xa xưa của thời thơ ấu đó nữa!
Cái khổ của tôi là sanh ra trong giai cấp khá giả, con cháu nhà quan trong một làng quê nhỏ hẹp, nên tôi chịu sự kỳ thị do sự tự ti của đa số dân làng. Ðiều đó làm tôi rất khó chịu, không thể tự nhiên chào hỏi nói đùa với những người tôi thích. Cái xã hội còn vướng mùi phong kiến nó cách ly tôi với những người tôi muốn làm thân.
Ðiệu hò của mấy chục người đàn bà cùng một giọng cất tiếng vang rân kéo dài với nhiều giọng pha lẫn, nghe thật lạ, thật êm. Một người đang khom lưng cấy bổng đứng dậy lớn tiếng xướng “Hò... tất cả rập theo tiếp chữ hơ... ơ... ơ... kéo thật dài rồi ngưng, người xướng ngôn tiếp tục:
Hò chơi cho trọn buổi chiều,
Keo sơn quấn chặt sợi chỉ điều với nhau”... ơ... ơ
Hay là
Hò... hơ... ơ...
Gió đưa gió đẩy bông trang...
Bông búp về nàng bông nở về anh... ơ...”
Tôi nghe điệu hò như bản hợp ca có nhiều giọng, tôi thầm khen những câu xướng lúc khôi hài, lúc có ý nghĩa, lúc trữ tình thơ ngây, lúc tục tằn nhưng không thô lỗ vì nó có thể hiểu ngầm hai nghĩa.
Những câu hò, những sáng kiến bất ngờ, tự nhiên và bén nhạy của các thiếu nữ quê mùa đối đáp với nhau, hoặc với một chàng thanh niên nào đó có tình ý với cô nào trong nhóm người đang khom lưng cấy. Người thanh niên xen vào đám nữ công, đứng gần hoặc xa ý trung nhân, tét lúa vừa cấy vừa hò những câu trữ tình mà chính anh ta đã chuẩn bị trước. Một màn hí kịch như vậy làm cho mọi người hưng phấn quên mệt. Người thanh niên đó có thể rời đám đông bỏ đi bất cứ lúc nào cũng như anh đã đột nhiên xen vào không ai biết trước. Dĩ nhiên anh ta không phải là người xa lạ, ai cũng biết anh là dân trong làng hoạc ở xã lân cận. Và sau đó mặc cho những lời bàn tán, cấp đôi cấp lứa, phỏng đoán ngược xuôi.
Những điệu hò, những câu đối đáp của hàng trăm đám người cấy lúa, nếu có ai theo ghi chép và đúc kết lại, tôi chắc sẽ thành một bản văn có thể nói là văn hóa dân gian của miền Nam rất hồn nhiên có đầy ý nghĩa.
Vì muốn nghe hò mà tôi luôn theo công cấy, khi thì đi với anh Năm, khi thì đi với bác ba Cử, người giúp việc cho ông nội lâu năm, trở thành người của gia đình có nhiệm vụ xem chừng mấy đứa cháu của ông. Bác ba ham vui, tính nết khôi hài bãi buôi, nói cà lăm và tội nghiệp là bác bị sứt môi.
Trong làng hễ có công cấy ở đâu là thấy có tôi ở đó... Người ta cấy từ sáng sớm tới chiều mặt trời gần lặn mới thôi. Có khi chúng tôi ở chơi nghe hò đến đứng bóng, nghĩa là lúc con người đứng thẳng, mặt trời rọi từ trên đầu không thấy bóng mình chiếu trên đất, còn gọi là đúng ngọ, 12 giờ trưa. Giờ đó có người gánh cơm ra dọn sẵn trên bờ ruộng, công cấy ngồi dọc hai bên. Ðồ ăn gồm canh bí rợ nấu dừa, cộng với mắm cá lốc, cá trê chưng. Xen kẽ giữa các tô mắm, thố canh có vài thúng cơm trắng bới sẵn trên mấy tàu lá chuối lót dưới đít thúng. Quanh năm đám cấy nào cũng vậy, năm nào cũng như năm nấy, hai món ăn truyền thống này luôn dành cho công cấy. Ðôi khi ông chủ ruộng “mời lơi” chúng tôi:
- Gặp bữa, cậu Năm, cậu Sáu dùng cơm với chúng tôi cho vui. Ðồ ăn không nhiều bằng ở nhà nhưng mấy cậu thấy vui sẽ ăn ngon hè.
Bí nấu dừa có chuối xiêm chín mùi trông thấy ngon muốn ăn rồi. Nhưng đối với tôi vì có mặt con Xin, con của bác chín Ninh tôi bèn xáp vô liền, anh Năm và bác Ba phải theo. Tôi lựa chỗ đối diện với nó để ăn lơ là, cốt ý là ngắm nhìn khuôn mặt ngây thơ xinh đẹp lạ thường, có ma lực cuốn hồn tôi, nhìn mãi không chán. Cặp đùi nó trắng phau quần xăn khỏi gối làm tôi cảm thấy lâng lâng mà không biết tại sao? Tuổi tôi còn quá nhỏ, lòng chưa dậy thì mà đã thích nhìn gái đẹp! Phải chăng là tính trời cho? Ðàn ông con trai ai thấy gái đẹp mà không nhìn?
Cứ đeo theo mãi những đám cấy trong làng tôi học và nhớ được nhiều câu hò, nó in sâu vào đầu khó quên hoặc vì nó hợp cảnh với mình hay nó ngụ ý vui:
Hò... hơ... mọi người tiếp ơ... ơ... ơ... kéo dài....
Bạc với vàng con đen con đỏ...
ơ... đôi đứa mình còn nhỏ thương nhiều ơ... ơ...”
Người xướng hò vừa ngừng, liền có cô hay bà nào đó đứng lên:
Hò... hơ... ơ... ơ...
“Vừa nhìn thấy em là anh muốn như Kim Trọng... ơ...
ơ... anh Kim Trọng thấy chị Thúy Kiều liền thương... ờ... ơ...”
Tôi chẳng biết Kim Trọng, Thúy Kiều là ai nhưng cứ tưởng là mình sẽ thương một cô gái nào đó trong tương lai cũng giống như mình đang để ý con Xin vậy thôi.
Một người khác hò giọng gay gắt:
Hò... hơ... ơ... ơ...
“Con gái khôn lấy nhằm chồng dại ... ờ...
Tiếc bông hoa lài cậm bãi cứt trâu ờ... ơ...”
Bác ba Cử bổng nhiên nổi hứng đứng trên bờ mà trổi giọng hò sảng:
Hò... hơ... ơ.. ơ.. ơ...
“Ớ này em kia khom lưng cấy lúa... ờ...
ơ... Ðưa cái mông chờ có đứa nào rờ không?... ơ... ơ...”
Trời đất ơi cha nội này hò gì kỳ vậy? Tôi liền cười không thể nín được. Tức khắc có một bà cũng đanh đá không vừa đứng lên:
Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
“Gió Nam non thổi lòn bụi lứt... ơ...
ơ... Cám cảnh thương người nó sứt cái môi ... ờ... ơ...”
Bác Ba xụ mặt, mắc cỡ cứng người nói:
- Thôi về tụi bây. Anh Năm và tôi vừa cười vừa nói:
- Khoan, ở lai xem có ai nói gì bậy bạ nữa không?
Một người khác hò:
Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
“Bình bồng từng đám che trời... ơ...
ơ... Lang thang bay khắp bầu trời quê ta... ơ...”
Có người trả lời ngay:
Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
“Lang thang bay khắp bầu trời quê ta... ơ...
ơ... Ðó là... ơ... đó là... đó là đám mây chớ gì.... ơ...”
Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
“Thò tay mà ngắt ngọn ngò... ơ...
ơ... Thương em đứt ruột mà giả đò ngó lơ.. ơ...”
Còn khá nhiều câu hò khi dài khi ngắn, tả tình tả cảnh nhưng tôi không nhớ rõ nên xin bỏ qua, tôi tin rằng độc giả thông cảm vì sau hơn sáu mươi năm mà tôi còn nhớ được vài câu hò chứng tỏ trí nhớ của tôi còn chưa lụn bại.

Võ Long Triều (trích từ NVOL)