User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

doanxuanthu

Cách đây hơn 300 năm, ông bà mình từ Bồng Sơn, Tam Quan, Bình Định, tuốt ngoài Trung, đi ghe bầu vào đất Bến Tre.

Người đến trước vào cửa Đại, ngược lên cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh, nơi nước Tiền Giang ngọt quanh năm để lập vườn dừa, vườn cây ăn trái xum xuê như quê mình ngoài ấy. Chính vì thế Bến Tre còn gọi là xứ dừa…

Ai đến sau đành phải khai khẩn đất vùng gần biển, nước lợ. Đất phèn, xấu; chỉ trồng rẫy được trên những giồng cát, phải đào giếng lấy nước, cực khổ hơn Miệt vườn trên ấy nhiều.

Được cái là miền Nam mình mưa thuận gió hòa, sáu tháng mùa khô và sáu tháng mùa mưa, mùa nước nổi từ sông Mekong, từ Biển Hồ ở Campuchia tràn về, bắt đầu từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch hàng năm, mang theo cá linh, cá ba sa, cá kèo, cá trê, cá lóc, cá lòng tong, tôm, tép; rửa trôi các nguồn sâu bệnh gây hại cây trồng, rồi còn cung cấp phù sa màu mỡ cho vụ mùa sau.

Mùa khô, nước kiệt, nước biển mặn lấn vào tận các xã ở giữa cù lao An Hóa như Lộc Thuận, Vang Quới… nên đất còn hoang hóa, dân gọi là đồng Bưng Lớn.

Dân Bình Đại làm rẫy, lập vườn trên giồng cát, làm ruộng, và đánh cá.

“Tư bề Thừa Đức nội thôn. Đất trồng dưa hấu ngọt ngon quá chừng”. Còn mãng cầu dai Thới Thuận, trồng trên đất cát pha, ăn ngọt như ăn đường cát trắng và bí đỏ Giồng Giếng.

Có bốn làng: Thừa Đức, Thới Thuận, Thọ Phú, Phước Thuận làm nghề đánh cá, dân khá giàu so với các xã miệt trên.

Hồi đó tỉnh lộ dài 58.33 km, chạy từ cầu Bắc Tân Thạch tới Bình Đại, có xe đò hãng Á Đông của thầy Hài, chạy mỗi ngày đi Sài Gòn.

Sau VC dậy, phá hoại, đắp mô, gài mìn, nhứt là khúc rừng dừa Bộ Khuyết phía trên xã Vang Quới. Con đường bị băm nát, mất an ninh nên muốn về Bình Đại phải đi dò dọc từ Mỹ Tho về.

***

Sáng hôm 27, tháng Giêng, năm 1973, chiếc GMC phát xuất từ Bình Đại thả ba ‘thằng’ SVSQ khóa 4/72 SQTBTD , mới 21 tuổi, xuống một cái đồn Nghĩa Quân nằm sát lộ, thuộc xã Tân Phú Trung , để đi chiến dịch Hiệp Định Paris.

Nón sắt, giày sô, áo trận, dây ba chạc, súng AR15, bảy băng đạn, hai trái lựu đạn da láng M67, dao găm, gà mên, bình ton nước, đứng ngơ ngơ ngáo ngáo giữa trời quê hiu quạnh.

Quận Bình Đại năm ấy có hai Xã Trưởng rất nổi tiếng về đánh giặc. Một là Xã Tắc ở Thừa Đức; hai là Xã Bốn ở Tân Phú Trung.

Xã Tắc là một con người gan dạ, nghe VC lẻn về là vác súng Carbine M2, lội sông qua rượt! Còn Xã Bốn ở Tân Phú Trung lại là một người đa mưu túc kế; để ý bữa nào dắt một Trung Đội Nghĩa Quân vô ấp Tân Phú, kề sông Ba Lai giáp với quận Ba Tri, chiều đi thấy bàn thờ ông Thiên của một ngôi chùa trong xã bóng đèn màu đỏ; sẫm tối rút lính về về, bóng đèn chuyển qua xanh, làm ám hiệu báo ‘an’ cho VC.

Vậy là một chiến thuật phục kích ‘bừa rụng răng’ được đặt ra. Cả Trung Đội rút về đồn, còn ém lại hai anh Nghĩa Quân chỉ trang bị lựu đạn mà thôi để chờ du kích mò về; ‘đôi’ cho vài trái mãng cầu… rồi chạy riết về đồn.

(Không dùng súng; vì khi bắn có tia lửa từ nòng súng xẹt ra, du kích VC sẽ biết mình ở đâu mà bắn trả; còn chọi lựu đạn nổ cái ‘oành’ là tụi nó ‘mù tịt’ luôn.)

***

Xã Tân Phú Trung là tên của ba ấp gom lại là: Tân Định, Tân Phú và Bình Trung.

Xã có nhà thờ Rạch Gốc, đồng bào theo Công Giáo là an ninh số một; ít khi nào VC dám léo hánh về quấy rối. Cho dù lúc đó ba ‘Kiến’ có tiếng nhiều VC là: Kiến Phong (Cao Lãnh), Kiến Tường (Mộc Hóa) và Kiến Hòa (Bến Tre).

Xã Tân Phú Trung cũng có nhà theo VC nhưng tình hình an ninh lúc đó êm ru bà rù hè. Xã có máy đèn chạy mỗi tối thứ Bảy, tới chín giờ tối mới tắt, cho bà con xem cải lương trên truyền hình.

Mấy lần đi xuống ấp, tui thấy trước cửa nhà dân có vẽ một vòng tròn xanh lá cây (là thuộc phe mình), màu đỏ (là thuộc phe nó), con màu vàng (là lừng khừng cầu an). Nên mới có cái khẩu hiệu của bên Dân Vận Chiêu Hồi là: “Lừng khừng cầu an là đầu hàng CS”.

Vô trình diện được ông Xã Trưởng chỉ cho qua trụ sở Hội Đồng Nhân Dân Xã cạnh đồn Nghĩa Quân mà ở. Ở thì đâu có hao tốn gì; chỉ lo cái ăn! Phải đặt cơm tháng, do vợ của một Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân nấu ngày hai bữa, tốn hết 3 ngàn, mà SVSQ chỉ lãnh lương Trung Sĩ khoảng bốn ngàn rưỡi; nên đành tự mượn bếp, nồi nấu cơm vậy.

Nhưng hồi nhỏ tới khi đi lính tui chỉ biết ăn cơm do má nấu; chớ chuyện củi lửa nầy đâu có biết. Nhiều bữa nấu cơm xong, mà hỏng biết nấu canh, kho cá ra làm sao; đành để bụng đói meo, mặt rầu rầu như người vừa bị em nào phụ phàng duyên kim cải.

Chắc thấy tội nghiệp nên ông Ba Xồm, Phó Chủ Tịch Hành Chánh Xã kêu ông ‘Thượng Sĩ’ quan về nhà ổng ăn cơm. Thiệt là mừng hết biết. Tui giã lã cười cầu tài ‘Thượng Sĩ’ quan gì bác Ba ơi; coi như con cháu đi.

(Hỏng biết ổng có kêu xỏ tui không? Hay là dưới mắt ổng làm tới ‘Thượng Sĩ’ là đụng la phông rồi?!)

Bác Ba Xồm chừng 40 tuổi, người cố cựu, là người có học nhứt trong lứa tuổi của ông. Biết đọc, biết viết, biết làm bốn phép tính cộng trừ nhân chia nữa đó.

Bác Ba xồm cắt nghĩa là: ông nội họ Hoàng ở đàng ngoài khi vào đàng trong phải đổi thành họ Huỳnh, bởi vì chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng.

Bác Ba Xồm nói: Hồi mới sanh ra, tía tui tính đặt là Huỳnh Văn Giỏi cho tui đừng có dở; nhưng bữa ra Nhà Việc làm khai sanh, ông Chánh Lục Bộ bận đi ăn đám giỗ, nhậu quắc cần câu, về quên mất cái tên, bèn viết đại tên Xồm, sanh năm Mùi, cầm tinh con Dê; nên đặt tên Xồm cho biết cái tuổi luôn.

Bác Ba Xồm có người con gái thứ hai tên Bông, chưa chồng, vì năm nay em mới vừa 17 tuổi. Tính đặt tên Hoa đó chớ nhưng cũng cữ tên bà lớn nên gọi là Bông. Hoa hoặc Bông! Cái nào cũng được; cũng thơm hết ráo mà.

***

Nhà bác Ba Xồm, cách đồn Nghĩa Quân chừng 500m, có hàng rào bằng cây keo, cổng vô nhà bằng tre gai. Ngoài sân có bàn thờ ông Thiên, chiều tối nào cũng phải thắp nhang.

Trước khi vào nhà phải qua một cái sân khá rộng, để phơi lúa. Lúa khô chất vào bồ. Có cối xay lúa, ăn tới đâu xay tới đó. Cối xay lúa được đặt trên một cái giá có bốn chân gọi là chân cối. Chàng xay được làm bằng một đoạn tre khoảng hơn một mét, hình chữ T, có mấu xỏ vào tay cối ở thớt trên. Còn phần đầu chữ T được buộc dây treo lên xà nhà đẩy tới kéo lui làm cái cối xoay tròn, chà xát bóc vỏ trấu để ra lòi hột gạo vẫn còn vỏ cám bám ngoài. Muốn gạo trắng, ngon phải cho vào cối giã gạo, tách vỏ cám ra khỏi gạo. Giã xong, đổ vào cái sàng mà tách ra trấu, gạo. Trấu để chụm lò; gạo để nấu cơm.

Góc sân nhà có cây xoài. Lá lụa, non, chấm cá kho hoặc cuốn bánh xèo ở cái đất quá hẻo rau sống. Xoài sống chấm nước mắm đường giằm ớt.

Có cây me, lá non và trái nấu canh chua với cá kèo… Cây chuối hột, bắp chuối xắt mỏng trộn gỏi gà rau răm; chuối chát ăn với mắm chưng.

Nhà có ba căn hai chái, cột gỗ kê tảng đá xanh. Nhà trên, giữa bộ ván dầu có bình trà, bình vôi để trên bàn cho mấy bà ăn trầu, nơi tiếp bà con xóm giềng.

Trên cột treo đồng hồ quả lắc là sang lắm. Chớ bà con mình đêm canh giờ bằng nghe tiếng gà gáy rộ. Ban ngày vin vào mặt trời lên hai sào, ba sào, mặt trời đứng bóng hay xế chiều.

Nhà dưới có giàn bếp để ba cái cà ràng, Dưới chân là củi. Kề bên nhà bếp là chuồng trâu, cây rơm cho trâu nhơi quanh năm.

Bác Ba Xồm có sáu chục công ruộng trồng lúa mùa, từ gieo đến gặt hái mất tới khoảng 6 tháng, mỗi công được mỗi công chừng 4, 5 vạ. Được cái là lúa mùa, gạo ăn ngon hơn lúa Thần nông nhiều.

Ngoài kinh rạch, mùa kiệt nước biển tràn vô pha nước lờ lợ. Pha trà phải xài nước mưa chứa trong mấy cái lu dưới hiên nhà. Tắm giặt phải nhờ tới nước giếng lờ lợ, tắm xong da hơi rít rít.

Hút thuốc giồng, vấn giấy quyến để sẵn trong “hồ bao” mang ở lưng, có thêu hoa bằng chỉ xanh đỏ.

***

Tui rất thích ăn chực nhà bác Ba Xồm. Một là khoái nghe ổng kể chuyện hồi xưa của cái đất nầy, rất là hấp dẫn, Nhưng hấp dẫn hơn nữa là em Hai Bông, con gái lớn của bác Ba Xồm, chu cha đẹp ơi là đẹp…

Con gái rẫy bái nước da ngăm ngăm vì dang nắng nhưng em Hai Bông trắng như bông bưởi vậy, má hồng hồng, tóc mai thả dài ôm hai cái lỗ tai…

“Bông nè! Con gái Bến Tre, có tắm bằng nước dừa hông mà trắng như trứng gà bóc vậy?” He he!

Em mắc cỡ lỗ tai đỏ tía cũng như những người con gái khác được mấy đứa dê xồm nhu tui nịnh sảng.

Ngoài đep ra; em còn biết nấu canh chua với bắp chuối hộp, kho ‘mẳn’ cá kèo, (lềnh khênh ngoài ruộng) ăn hao cơm lắm. Em nuôi tui có mấy tháng mà tui mập ú nu hè.

Có bữa em đi chợ xã, họp chỉ hai tiếng vào sáng sớm, mua con cá lóc về nướng trui chấm nước mắm me; thêm miếng thịt luộc ăn với chuối chát chấm mắm nêm để Tía em, bác Ba Xồm, lai rai vài ly hột mít rượu đế với tui.

Rượu vô là gan, là liều, là ầu hè, tui lủi xuống bếp, nói thơ: “Đôi mình mới gặp hôm nay. Cho hun một cái, em hai đừng phiền!”

Em Hai Bông mặt đỏ ké như gấc, thỏ thẻ rằng: “Có hun thì hun cho liền. Sàng lui sàng tới xóm giềng cười em.” Sao mà tôi thương chữ ‘hun cho liền’ này biết bao nhiêu mà kể!

Bốn tháng trời đi chiến dịch rồi cũng hết! Buổi sáng cuối cùng, cụ bị ba lô, súng đạn lên xe lôi đi Bình Đại để trở về trường Bộ Binh Thủ Đức.

Em Bông quẹt nước mắt, tiễn tui đi. Bùi ngùi quá mạng, tui thề là: “Rồi có một ngày, sẽ một ngày, chinh chiến tàn… Anh trở về dựng căn nhà xưa… Rồi anh sẽ sang thăm nhà em… với miếng cau với miếng trầu… ta làm lại từ đầu!”

Nhưng đó chỉ là niềm mơ ước đã vỡ tan. Sau 75, không còn gió đưa gió đẩy bông trang; bông búp (đám hỏi) về nàng; bông nở (đám cưới) về anh; tù cải tạo về, tui dông luôn ra biển! Bỏ em Hai Bông lại ở bên trời lận đận!

Phần số thì đành vậy Bông ơi! Bởi vì VC; chớ lòng anh nào có muốn phụ em đâu!

Đoàn Xuân Thu Melbourne