
Ðời tôi cũng như những người con gái khác cắp sách đến trường trong khi chiến tranh bùng nổ khắp quê hương, cảnh đau thương tang tóc diễn ra hằng ngày. Cũng vì sống ở Sài Gòn – thành phố nhộn nhịp, bình an, không có vẻ chiến tranh – nên niềm ưu tư chính của tôi là học chứ không mấy quan tâm đến thời cuộc
Năm 1973, ba tôi làm việc tại hãng thầu rác căn cứ Long Bình mà chủ là một người thân trong dòng họ. Ba tôi vì là cháu ruột nên được tin cậy cho trông coi người làm. Vì đi về xa xôi nên quyết định mua một căn nhà ở Biên Hòa, ở gần Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III để đi làm gần hơn. Căn nhà ở ngay mặt đường Quốc Lộ 1 nên mở tiệm phở để mợ tôi có việc làm đỡ buồn. Mấy tháng sau, bán nhà ở Sài Gòn dọn về Biên Hòa ở. Vì mở tiệm muộn màng nên không được đắt khách như những tiệm phở chung quanh. Buổi sáng, đa số là sĩ quan và lính trong quân đoàn ra ăn phở, sinh hoạt cũng nhộn nhịp và dễ sống tuy không được vui như Sài Gòn.
Khi đông khách, hai chị em phụ thu tiền và bưng phở. Khách là lính cũng có lúc ngỗ nghịch trêu ghẹo nhưng không muốn quen với ai vì tôi nghĩ tất cả đã có vợ rồi, họ chọc ghẹo cho vui mà thôi. Cũng vì quán phở đó mà sau này tôi quen một người. Lần đầu tiên đến ăn phở với một người bạn vào buổi chiều tối. Hai người ngồi ăn khá lâu. Khi tính tiền nhìn anh tôi tưởng là thầy giáo hay công chức, khuôn mặt rất trẻ, ít nói và có vẻ sống về nội tâm. Ðặc biệt anh chẳng tỏ vẻ gì chú ý đến tôi, anh móc túi lấy tiền trả, nhìn tôi rất lạnh lùng. Cũng vì lạnh lùng, chẳng nói một câu nên làm tôi chú ý. Thế rồi thỉnh thoảng anh lại ra ăn phở, chỉ buổi chiều, buổi sáng chẳng biết anh đi đâu.
Mấy tuần sau, vào lúc xế trưa, lúc quán đang vắng khách, chẳng có ai, chợt thấy một người bước vào, mợ tôi ra tiếp. Ở trong nhà nhìn ra thấy quen quen nhưng vì bận đồ lính nên chưa nhận ra là ai. Hôm đó lại ăn hai tô nhưng ăn không hết (sau này anh cho biết vì quán hơi ế nên ăn ủng hộ). Khi ra tính tiền mới biết là người tôi quen, tưởng là thầy giáo ai ngờ lại là phi công. Lòng tôi bỗng thấy dửng dưng và mất hẳn cảm tình với anh vì từ lâu, qua kinh nghiệm những người bạn gái cùng lứa, hay trước tôi mấy lớp đã từng là người tình và cũng là nạn nhân nhận xét: Mấy ông phi công hào hoa phong nhã nhưng lại rất “đểu“. Khi học ở trường Trần Hưng Ðạo, tôi thấy vừa tan trường, đã có mấy ông phi công chờ sẵn, đón đi chơi, ai nấy đều mơ ước được ngồi ôm eo mấy ông lính tàu bay ấy, nhưng rồi có mấy khi trọn vẹn, đa số bị dở dang, bị bỏ rơi phũ phàng. Bạn bè cho biết như thế nên tôi có ấn tượng xấu về những người phi công như anh.
Từ hôm ấy, không thấy anh ra ăn nữa, cũng không thấy ghé vào ban đêm như lúc trước. Tôi tưởng anh đọc được tâm tư và những suy nghĩ xấu về người phi công của tôi, anh tránh né, không thèm đến. Mãi sau này mới biết anh không còn ở Biên Hòa mà đã ra Ðà Nẵng, anh đi chẳng một lời giã từ. Hóa ra anh cũng chẳng để ý gì đến tôi.
Khoảng hơn tháng sau, anh ghé thăm vào buổi chiều, đi cùng với người bạn. Anh không bận đồ bay nên trông dễ thương hơn, tôi có cảm tình hơn. Anh ngồi nói chuyện rất bình thường, không có vẻ gì tán tỉnh hay khoe khoang. Hỏi ra mới biết anh đi phép về thăm gia đình. Thế rồi, mỗi tháng anh về phép một lần, lần nào anh cũng ghé thăm tôi, anh chẳng mua quà mà cũng chẳng tặng tôi gì hết, đi xa về mà chẳng biết điều, anh có vẻ còn xa cách lắm. Anh cũng chẳng mời tôi đi chơi, đi ăm tiệm hay đi xem phim lần nào. Tôi nghĩ ở ngoài Ðà Nẵng – nơi tôi đã từng sống khi còn ấu thơ – một thành phố lớn với nhiều cô gái đẹp đa tình, người phi công chiến đấu như anh chắc phải có ít nhất là vài cô bạn gái nên anh có vẻ nhạt nhẽo với tôi. Cũng vì vậy vừa ghét… vừa thương.
Từ đó, những ngày phép ngắn ngủi hàng tháng đưa tôi đến gần anh hơn, hình ảnh của anh đã lén chui vào con tim của tôi lúc nào không biết. Thật là “Ghét của nào, Trời trao của ấy“.
Khi Ðà Nẵng mất, chưa thấy anh về, tôi hơi lo, sợ anh bị kẹt lại. Nhưng phi đoàn anh đã về Biên Hòa rồi lại dời về Phi Trường Tân Sơn Nhất. Buổi trưa ngày 26 tháng 4 năm 1975, bất chợt anh về ghé thăm tôi. Anh chào ba mợ tôi rồi ra dấu theo anh ra phía sau nhà, anh cho biết anh sẽ phải đi qua Thái Lan vì phi trường đang nằm trong tầm pháo kích của Cộng Sản nên không hoạt động được. Qua bên đó, bay về ném bom yểm trợ. Ðể cho phi công an tâm chiến đấu nên cho gia đình đi trước. Gia đình anh không ai muốn đi, ba mẹ anh già rồi lại đông con nên không muốn đi đâu nữa, mấy đứa em còn nhỏ, đi chẳng ai lo. Anh đề nghị đưa tôi đi trước, anh sẽ bay qua vào giờ phút chót.
Lúc ấy, tôi linh cảm như sắp mất nhau vì nghĩ anh qua Thái Lan chắc gì anh sẽ về. Tôi xúc động bật khóc, lắc đầu nói: – Anh đi đi, em không đi đâu.
Anh có vẻ ngạc nhiên khi nghe tôi trả lời, hình như hiểu được sự lo lắng, e ngại của tôi nên anh nói: – Em đi trước, anh sẽ đi sau, cùng đi có vợ con của nhiều người trong phi đoàn…
Nhưng tôi vẫn lắc đầu vì… tôi không muốn mang tiếng đi theo trai, có gì thiên hạ chê bôi, xấu hổ. Tôi không chịu đi, định nói anh hỏi ý kiến ba mợ tôi xem như thế nào thì bà Hồng Hà, chủ hãng thầu chạy xe hơi đến, vào nhà thúc dục lên xe ngay về Sài Gòn, Việt Cộng đang pháo kích, Biên Hòa sẽ bị mất trong đêm nay. Tôi và gia đình vội vàng lên xe, bỏ anh ở lại đi sau.
Thế rồi vận nước đen tối ập đến, nước mất nhà tan, anh kẹt lại vì không vào được phi trường. Lòng tôi buồn bã vì nghĩ cộng sản sẽ giết anh chết trong những ngày sắp tới, tôi khóc cho số phận của mình vì nếu anh đi hay kẹt lại, tôi đều mất anh. Lúc ấy tôi thấy thương anh thật nhiều vì anh sắp phải hứng chịu sự trả thù của Cộng Sản, anh như tử tội đang chờ ra pháp trường.
Nhưng rồi tôi cảm thấy an tâm vì những điều dự đoán đã không xảy ra. Tôi và gia đình trở về Biên Hòa, anh cũng thế.
Tháng 7 năm 1975, theo như thông báo của nhà cầm quyền, tôi tiễn anh đi “học tập“ hai tuần. Trên chiếc xe đạp cọc cạch, anh chở tôi đến nơi trình diện ở sân nhà Thờ Tân Mai. Ðến nơi thấy có đông người đang chờ đợi, vợ con ra tiễn đang nói chuyện. Tôi từ giã anh đi về lòng buồn bã nhưng tự an ủi, hai tuần cũng không bao lâu, rồi anh sẽ về. Buổi chiều anh lại đến nhà tôi, ai cũng ngạc nhiên hỏi: – Sao chưa đi?
Anh nói không có xe đón, ngồi chờ mãi đến 4 giờ chiều nên cho về, mai trình diện tiếp. Ngày hôm sau cũng thế, sáng tiễn anh đi, chiều anh lại về, kéo dài cả tuần. Sáng thứ Bảy, vẫn phải đi trình diện nhưng tôi hy vọng là sẽ không đi vì đó là ngày cuối tuần. Tôi dặn anh: – Nếu không có xe đón như mấy ngày trước, anh nhớ về sớm để tham dự lễ cưới chiều nay.
Tôi đinh ninh anh sẽ trở về và sẽ cùng tôi dự lễ cưới của cô em gái nhưng gần tối vẫn chưa thấy. Khi vào nhà thờ tham dự lễ cưới, đó ngày vui của gia đình, của em tôi, đáng lẽ có được niềm vui lớn nhưng tôi lại buồn vì anh đã ra đi.
Tôi vừa đi thăm anh về, lần đầu tiên sau 5 tháng chia xa. Anh gầy và xanh sao vì thiếu dinh dưỡng. Cộng Sản nhốt anh ở trại Phú lợi. Nhìn anh tôi thấy lòng quặn đau, nước mắt chảy dài trên đôi má, những tháng tù đày kham khổ làm anh thay đổi quá nhiều, đau đớn nhất là mang thân phận của người tù, đó là điều không bao giờ ngờ. Gia đình anh đã dọn về Lâm Ðồng, phá rừng làm rẫy để sinh sống, tôi hoàn toàn không biết tin tức và cũng không cách nào liên lạc. Anh còn một người chị nhưng sẽ bán nhà đi về Phương Lâm hay Ðịnh Quán. Như vậy gia đình anh kể như bó tay, không lo cho anh được. Anh như người mất hẳn gia đình, cô đơn chịu đựng những cay đắng, đen tối nhất của cuộc đời, do đó, vì thương anh, tôi đã đi thăm.
Hai tuần sau anh đi, tôi ngây thơ chờ anh về nhưng chẳng thấy, thời gian kéo dài, lúc ấy mới biết bị lừa. Thế rồi tin đồn học xong mười bài chính trị sẽ được về, chẳng biết từ đâu ra nhưng lại đem đến cho tôi và nhiều người có người thân đi cải tạo niềm hy vọng mới. Ba tháng trôi qua, niềm hy vọng tiêu tan khi nghe công bố chính sách 3 năm dành cho các người tập trung cải tạo.
Nhiều đêm thao thức suy nghĩ thấy mình thật dại, có cơ hội ra đi nhưng lại bỏ lỡ, để bây giờ anh phải đi tù và tôi cô đơn sống với gia đình. Cộng sản vào, lúc ấy mới nhìn thấy rõ tai họa, có người uất hận tự tử, nhiều người sống chết đi vượt biên, gia đình phân ly, có nhiều người đến bến bờ tự do hoặc chết tức tưởi dưới lòng biển cả hay bị bắt lại tống vào tù.
Có lúc tôi tự hỏi sao anh không rủ ai đi mà lại rủ tôi, điều đó chứng tỏ trong lúc nguy biến, anh vẫn nghĩ đến tôi, vẫn muốn tôi cùng anh thoát khỏi những tai họa của cuộc chiến. Bây giờ, tất cả đều đã lỡ, tôi và anh đành hứng chịu những khó khăn của cuộc sống do chính sách trả thù của cộng sản. Vì thương anh tôi quyết định sẽ lo cho anh và chờ đợi đến khi anh được về.
Như vậy, tôi tuy còn độc thân nhưng vô tình đã gia nhập vào tập thể những người vợ tù cải tạo. Những lần đi thăm nuôi, trong lúc chờ các anh ra, có nhiều bà hỏi tôi: – Cô đi thăm ai?
Tôi trả lời không ngại ngùng: – Ði thăm chồng.
Có người hỏi thăm: – Chị có mấy cháu rồi?
Tôi khựng lại không biết trả lời sao đành nói thật: – Dạ chưa có cháu nào.
Trong suốt ba năm, tôi không bỏ một lần thăm nuôi nào, hễ có thư về là tôi chuẩn bị đi, gần nhất là ở Phú Lợi, Bình Dương, khá xa là trại Hóc Môn, Thành Ông Năm, xa nhất là trại Kàtum, Tây Ninh. Bây giờ anh đang ở trại Suối Máu.
Khi đi, hoặc ba hay mợ tôi đi cùng. Tôi nghĩ anh bị bỏ đói trong tù, thiếu dinh dưỡng nên cố đi thăm để được nhìn thấy anh, mang cho anh ít quà và thức ăn, tôi muốn chứng tỏ dù anh ở trại nào, xa cách mấy, vì thương anh, tôi sẽ đến thăm, mang đến cho anh niềm vui và niềm tin là tôi vẫn chờ đợi anh.
Thời điểm đó, nhà cầm quyền chủ trương đưa dân đi vùng kinh tế mới, những ai không có việc làm nên tình nguyện đi trước. Ai cũng lo sợ vì đi là mất nhà, mất hộ khẩu, không về thành phố được nữa. Vì vậy ba tôi mới thành lập một tổ hợp may gia công, nhận quần áo của Công Ty May Mặc Ðồng Nai. Ai muốn vào tổ hợp phải bỏ tiền ra mua một cái máy may. Vì sợ đi vùng kinh tế mới nên nhiều người hưởng ứng. Ba tôi làm tổ trưởng, tôi làm thư ký. Nhờ vậy khỏi bị đi đâu mà còn kiếm tiền đủ chi tiêu trong tháng.
Phần tôi, khi lãnh lương, tôi dành một phần phụ với gia đình, số còn lại đi mua thức ăn, thuốc men để dành chờ đi thăm nuôi. Vì thiếu dinh dưỡng, lại phải làm việc nặng, nhất là trong rừng sâu, anh bị bệnh sốt rét và sạn thận. Có lẽ anh bị đã lâu nhưng anh giấu không cho tôi biết sợ tốn tiền mua thuốc nhưng vì nặng quá nên anh viết thư về nên tôi vội vàng kiếm mua thuốc gởi cho anh.
Tôi chờ đợi anh tưởng rằng chỉ là chuyện riêng tư không liên lụy đến ai, nhưng hàng xóm vẫn có người dèm pha, bàn lùi. Có người nói với ba mợ tôi: – Sao ông bà lại để con gái mình chờ đợi người không có tương lai? Không biết ngày về?
Có người lại nói: – Con gái chỉ có một thời, qua rồi là ế, chẳng ai thèm lấy. Chờ đến bao giờ? Ông bà thấy chỗ nào vừa ý gả cho rồi…!!!
Hoặc có người nói: – Chưa là vợ chồng, chẳng ràng buộc gì nhau, chờ người tù làm gì, hãy nghĩ đến tương lai, hạnh phúc của mình trước.
Tôi nghe kể lại thấy họ nói cũng… đúng nhưng tôi hiểu lý do nào họ gièm pha như vậy vì gia đình họ có con trai cũng cùng lứa tuổi với tôi, họ nói thế để tôi nản lòng mà thay đổi ý định không đợi chờ nữa, muốn tôi trở thành con dâu… của họ. Nhưng cuộc hôn nhân vội vàng chưa có tình yêu chỉ là sự ráp nối sống chung giữa hai người một cách gượng ép, lấy đâu có hạnh phúc. Tình yêu tôi đã dành cho người tôi thương, người tù không tuyên án, không có ngày về. Tôi yêu anh không phải vì anh là một phi công và tôi cũng không thể bỏ rơi anh vì anh là người tù. Tôi yêu tâm hồn và phong cách của anh, của một người mà tôi tin tưởng sẽ đem lại hạnh phúc cho tôi, sẽ che chở, bảo bọc và yêu tôi tha thiết.
Ba mợ tôi cũng thương anh nhiều nên dù ai nói gì cũng bỏ ngoài tai, để tôi toàn quyền chọn lựa và quyết định tương lai. Ba mợ ủng hộ tôi chờ anh nhưng lo xa nên có lần ba tôi hỏi: – Con chờ anh ấy, có khi nào con nghĩ mai này, khi được về, anh ấy lại không cưới con làm vợ không?
Nghe vậy, lòng tôi hoang mang lo lắng nhưng nghĩ chắc chẳng bao giờ có chuyện đó vì anh đâu đến nỗi tệ bạc như vậy. Tôi hiểu ba tôi muốn nói gì, vì sợ tù quá lâu mới được về, lúc đó tôi đã lớn tuổi, nhan sắc đã tàn phai, sợ anh chê “già” đi lấy người khác. Mặc dù tôi không tin chuyện ấy sẽ xảy ra nhưng biết đâu, thời gian làm thay đổi cuộc đời, thay đổi lòng người. Dò sông, dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người?
Tôi suy nghĩ chốc lát rồi trả lời: – Nếu như vậy thì kể như con làm phúc cho anh ấy.
Ngay cả mấy thằng bộ đội, thấy tổ hợp có nhiều đàn bà, con gái nên vào nhà tìm cách làm quen. Sau khi đến chơi nhiều lần, không rõ ai tiết lộ, tụi nó biết tôi còn độc thân, đang chờ một người tù cải tạo, liền tán tỉnh tôi. Có một người tên Dũng, Thiếu Úy gởi cho tôi một lá thư, tôi mở ra đọc cho cả tổ hợp may nghe, ai nấy cười đau cả bụng. Chữ xấu, sai chính tả nhiều, khoảng trình độ lớp hai, lớp ba mà cũng đòi viết thư tình.
Nhưng kỳ cục và bực mình nhất là trường hợp bạn của anh. Người bạn học cùng trường năm nao, vì thi rớt Tú Tài nên đi lính Không Quân. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, lấy băng đỏ quấn vào cánh tay theo kẻ thù. Tưởng rằng được trọng dụng, ai ngờ thời gian sau bị phế thải về nhà ngồi chơi. Lần đầu tiên anh đến ăn phở đã đi cùng người bạn ấy. Nay anh đi tù, người bạn ấy lại để ý, tìm cách chinh phục tôi. Vì quen biết từ lâu nên thỉnh thoảng đến nhà chơi, thấy mấy sợi dây điện cũ lòng thòng, ngỏ ý với ba tôi nên thay, để vậy nguy hiểm, có thể bị điện giật hay chạm điện cháy nhà. Ba tôi do dự chưa dứt khoát, người bạn ấy đã đi mua dây điện… tình nguyện đến, leo lên trần nhà bụi bặm, nóng nực, mồ hôi nhuễ nhoại thay hết dàn dây điện mới. Tưởng rằng làm giúp như vậy, ba tôi mang ơn phải đối đãi tử tế, hy vọng sẽ dành được nhiều cảm tình của tôi.
Thấy tôi vẫn thờ ơ, lạnh lùng, có lần người bạn ấy nói: ”Mấy thằng phi công đi tù mút chỉ, chẳng có ngày về. Nhất phi nhì pháo mà…” Câu nói ấy làm tôi càng ghê tởm, anh em nay gọi bằng thằng, thay vì hỏi thăm, cầu xin được về sớm, lại nguyền rủa đi tù mút chỉ, không có ngày về. Câu nói ấy ngụ ý đừng chờ nữa, đâu có ngày về mà chờ, hãy quên đi mà xây dựng tương lai mới hạnh phúc mới. Nhưng làm sao sánh với người tôi thương, với sự nhận xét của tôi, người bạn của anh đã phản bội anh em khi trở cờ theo Cộng Sản, không còn xứng đáng là anh em nữa. Nay lại âm mưu “cướp“ người yêu của bạn mình..
Cũng vì câu “nhất phi nhì pháo“ mà tôi nhận ra được giá trị lớn lao của người phi công. Các anh đã gieo nhiều kinh hoàng cho Cộng Sản nên nó mới thù như vậy. Tôi hối hận vì đã hiểu lầm vì chỉ nghe có một phía, của những người bạn không được may mắn trong cuộc tình với người phi công. Còn nhiều người được hạnh phúc với những chàng trai mang đôi cánh sắt thì họ đâu có nói gì. Tôi nghĩ, người thanh niên khi bước vào đời, nhất là đời quân ngũ, ai cũng có một ước mơ cho tương lai của mình, rất nhiều người đã mong ước trở thành người phi công nhưng mấy ai đạt được.
Người tôi thương ít khi nói với tôi về đời lính của anh, về máy bay anh đang lái, về những vui buồn trong những ngày ở quân trường hay trên chiến trường, tôi chỉ biết anh đã đi du học ở Hoa Kỳ hai năm rồi trở về tham chiến. Những ngày anh đi bay ở Ðà Nẵng, anh cũng chẳng nói gì nhiều. Chỉ một lần duy nhất, anh bị tai nạn nhẹ, phi cơ đi về đáp đêm, sân ướt, chần chừ không dùng dù đuôi, thắng gấp quá nên bể bánh, máy bay văng ra khỏi phi đạo, lún sâu xuống bãi cỏ. Anh thật khiêm nhường, đến với tôi bằng con tim và tấm lòng của người thanh niên hiền hòa, cũng vì thế, nay nước mất nhà tan, anh chẳng còn là phi công nữa, mang thân phận người tù, tôi vẫn thương, vẫn yêu, có lẽ còn nồng đậm hơn trước.
Ðã hơn ba năm, không một hy vọng nào được về, tôi nghĩ chắc con lâu dài, chưa biết bao giờ.Nhưng tôi nhất định sẽ chờ đợi, tương lai, hạnh phúc của tôi tùy thuộc vào anh, khi nào anh về, sẽ đắp xây hạnh phúc. Sáng nay nhận được thư, ngoài những thăm hỏi gia đình như mọi khi, anh khuyên tôi…. đi lấy chồng, đừng chờ anh nữa.
Anh viết: - Thương anh, em đã chờ và thăm nuôi hơn ba năm qua, ơn ấy suốt đời anh không bao giờ quên. Nếu em đã là vợ, anh sẽ xin em đợi chờ. Nhưng anh với em chưa có gì ràng buộc nhau, em có quyền quyết định tương lai của em, con gái chỉ có một thời, đừng để quãng đời đẹp nhất phôi pha theo thời gian. Anh đã không mang được hạnh phúc đến cho em và anh không còn xứng đáng để em đợi chờ nữa. Anh khuyên em nên đi lấy chồng…
Ðọc xong, tôi bàng hoàng vì không bao giờ nghĩ anh sẽ khuyên như thế. Tôi tủi thân ngồi khóc như sắp mất người yêu. Tôi có cảm tưởng như bị anh phụ tình, tàn nhẫn bỏ rơi. Tôi bỗng thấy bực mình và giận anh vì đã viết những câu thật phũ phàng. Cả đêm trằn trọc thao thức không ngủ được, lẽ nào mối tình của anh với tôi tan vỡ. Hôm sau, tôi lấy thư ra xem, đọc đi, đọc lại nhiều lần bỗng nhận ra anh thật cao thượng, vì thương tôi, không muốn tôi chôn vùi cuộc đời son trẻ, anh không muốn tôi khổ vì anh nhưng dễ gì tôi quên anh để tìm một hình bóng khác, hạnh phúc khác. Tôi biết anh vẫn thương tôi nhưng phải đau lòng viết những câu như thế vì không biết bao giờ mới được về.
Tôi viết thư trả lời: – Anh yên chí, em sẽ chờ đợi đến khi anh về.
Mấy tháng sau, có người bạn của anh được về, anh nhờ mang về cho tôi một lá thư trong đó có đoạn: – Sau nhiều lần suy nghĩ anh rất hãnh diện vì chỉ là người bạn, em đã thủy chung đợi chờ và lo cho anh hơn bốn năm nay. Tuy nhiên hạnh phúc không nằm trong tầm tay, ngày về không phải do mình định đoạt, anh thấy tương lai thật đen tối, xa thẳm, để em đợi chờ mãi thật tội nghiệp. Anh khuyên em… xem như anh đã chết vì cơn bạo bệnh. Anh không trách gì em vì anh là người chịu ơn và đã bó tay không mang lại hạnh phúc cho em. Anh mong em nên suy nghĩ lại, quên anh và đi lấy chồng, đừng chờ anh nữa.
Anh có tật viết vòng vo rồi mới vào chủ đề chính, cuối cùng mới biết anh muốn nói gì. Ðọc xong, thấy thật buồn vì nghĩ anh hiểu lầm lòng thủy chung của tôi nên vội viết thư trả lời: – Anh ơi, anh bảo em quên anh để đi lấy chồng nhưng em cố quên lại càng nhớ anh thêm. Em sẽ đợi anh, đừng khuyên em như vậy.
Bẵng đi một thời gian, anh lại khuyên tôi lần nữa, anh viết: – Anh không đem lại hạnh phúc cho em thì anh sẽ vui với hạnh phúc em có, anh chấp nhận mất em để em có hạnh phúc….
Lần này tôi nhất định trả lời dứt khoát để anh hiểu tôi vẫn đợi anh: – Anh ơi, đừng khuyến khích em lấy chồng vì em đã có chồng rồi, chồng của em là anh đấy. Em sẽ chờ anh cho dù phải đợi 5 năm, 10 năm, 20 năm…, anh đừng phụ lòng em.
Từ đó, anh không nhắc lại cũng như khuyên tôi thêm một lần nào nữa. Ở trại Suối Máu, ba tháng được thăm một lần, mỗi lần 15 phút. Như vậy, một năm, tôi với anh chỉ gặp nhau được một giờ. Ôi định mệnh sao khắc nghiệt thế, xa nhau và xa nhau mãi. Gia đình anh lúc này cuộc sống đã tạm ổn định, ba anh về Biên Hòa thăm ba mợ tôi và hỏi thăm tin tức về anh. Biết tôi vẫn chờ đợi, ba anh rất cảm động và xem tôi như con… dâu. Ba anh xin phép mời tôi về trên ấy chơi một tuần cho khuây khỏa. Tôi nhận lời cùng đi vì tôi biết gia đình anh rất thương tôi, mấy đứa em của anh cũng thế.
Thời gian cứ lạnh lùng trôi, đã gần 5 năm anh đi tù, lúc này cuộc sống khó khăn hơn. Tổ hợp may giải tán vì hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn, bị trả lại. Tôi và gia đình phải xoay trở cách khác. Ðã ba tháng rồi, không nhận được thư, tôi lo lắng sợ anh bị bệnh không có thuốc hay có chuyện gì bất thường đã xảy ra. Một số người đi thăm về cho biết đã có nhiều đợt chuyển trại nhưng chưa biết đi đâu. Như vậy, chắc anh không còn ở Suối Máu nữa, anh bị chuyển đi nhà tù khác.
Tuần sau, tôi vui mừng vì nhận được thư anh. Anh cho biết đang ở trại Tống Lê Chân, đường đi xa lắm, nhớ đừng lên thăm, chờ khi nào trại thuê xe cho thăm tập thể hãy đi. Hỏi ba tôi Tống Lê Chân ở đâu, ba tôi nói ở tỉnh Bình Long, gần biên giới Căm Bốt, cách Biên Hòa cả trăm cây số. Ðó là nơi trước đây đã xảy ra nhiều cuộc đánh nhau đẫm máu, cộng sản chết rất nhiều. Tôi nghe nhưng chẳng biết gì vì đó là những địa danh tôi chưa hề nghe qua.
Tôi sốt ruột vì sợ anh không còn thuốc uống, bệnh lại nặng thêm. Ba tháng qua, tôi dành dụm mua được khá nhiều đồ ăn khô, hai hộp thuốc sạn thận Piperazine của Pháp rất đắt tiền, khoảng 20 viên thuốc sốt rét. Năm 1971, ba tôi bị đau sạn thận. Tôi đã chứng kiến ông đau quằn quại, lăn lộn từ giường xuống đất, lúc nào cũng đau y như bị thương nặng vậy. Chịu không nổi, phải vào bệnh viện, sạn trong thận nhiều quá nên phải cắt mất một trái thận. Tôi nghĩ anh cũng thế, tôi nghiệp khi đau đớn chẳng ai lo, chẳng ai chăm sóc cho anh. Xin phép ba tôi đi thăm nhưng không cho, ba tôi nói anh đã dặn đừng đi thì cứ chờ.
Hai tuần sau, có một chị ở cùng phường với tôi đi thăm chồng ở Tống Lê Chân về. Biết tin tôi hỏi thăm. Chị lắc đầu khuyên đừng đi vì phải đi bộ vào xa lắm. Tôi nghĩ chị đi được thì tôi cũng… đi được nên xin chị chỉ đường. Chị nói thấy rất dễ đi: – Từ Sài Gòn đi lên Bình Long, đến cây số 101 xuống, đi vào đường đất đỏ là đến trại nhưng rất xa. Ði nhớ mang theo chiếc xe đạp để chở đồ. Về xin phép, ba tôi suy nghĩ một lát rồi đồng ý, nói tôi sửa soạn ngày mai đi.
Chiều hôm sau, lên Sài Gòn, mua vé xe, thuê nhà trọ ngủ một đêm. Ba tôi mang theo chiếc xe đạp như đã dặn, nhưng trước khi lên xe, đổi ý để lại vì sợ để trên mui, cồng kềnh, hàng hóa đè lên làm hư. Chuyến xe đò cũ kỹ chuyển bánh, tôi thấy vui vui vì sẽ được gặp anh, mang đến anh sự bất ngờ. Xe chạy ngang qua nhiều phố nhỏ, tôi không biết tên. Là người con gái, chưa bước vào đời, chưa đi xa nhiều nên thấy chỗ nào cũng lạ, cũng giống nhau. Ðến khoảng quá trưa, xe đến cây số 101, chúng tôi xuống. Khi chiếc xe lăn bánh để lại hai bố con tôi chơ vơ giữa đường. Chung quanh là rừng thưa, cây không cao lắm nhưng nhiều lá vàng. Lúc này đang mùa hè nóng nực, trời xanh ngắt pha với từng cụm mây trắng bay lững lờ. Không có ai ngoài bố con tôi, có cảm tưởng như bị rơi xuống một vùng hoang dã chưa có ai đặt chân đến.
Chúng tôi băng qua đường, đi vào sâu một đoạn, thấy có một cái chòi nhỏ vắng vẻ chơ vơ bên lề. Ðến nơi mới biết là chỗ sửa xe đạp. Người đàn ông khoảng 40 tuổi ngồi cô đơn chờ khách. Ba tôi hỏi thăm, ông ấy lắc đầu nói: – Bác đi thăm cải tạo, còn xa lắm, không đến được chiều hôm nay.!!
Ba tôi nghe thế hỏi tiếp: – Từ đây vào trại xa bao nhiêu?
Ngưởi thợ sửa xe trả lời: – Khoảng 30 cây số.
Tôi bàng hoàng đâu ngờ xa thế, cứ tưởng khoảng hai ba cây số thôi.
Ba tôi hỏi: – Ðường khá rộng, xe hơi chạy được, có xe nào chở khách vào đó không?
Ông ta lắc đầu: – Không có, dân ở đây đi xe đạp, chẳng có xe nào vào ngoại trừ thỉnh thoảng xe của công an chở đồ tiếp tế vào trại hay xe ben đi chở cây mà thôi.
Hai bố con nhìn nhau, không biết tính sao. Tiến tới đi bộ 30 cây số, lùi thì kẹt cứng, chẳng có xe về, tối nay lang thang không biết ngủ ở đâu hay lại nằm bờ nằm bụi ở gốc cây, xó rừng nào cho qua đêm. Nhưng như vậy nguy hiểm lắm. Thú rừng và cả những người xấu nữa, biết đâu xui xẻo gặp thì tai họa không lường trước được.
Ðang phân vân lo lắng, ông sửa xe nói: – Bác và chị đi vào khoảng 10 cây số, đến xã Ðồng Nơ, vào trạm y tế gặp cô Phượng xem cô ấy có giúp gì được không. Bác và chị phải mất thêm một ngày đường nữa mới đến trại.
Ðành chịu vậy. Chúng tôi cám ơn và đi theo đường xe đất đỏ thỉnh thoảng tung bụi mù khi cơn gió đến. Lúc này ba tôi mới hối hận vì đã để cái xe đạp tại nhà trọ, vì vác túi quà càng đi càng thấy nặng, giá có cái xe, buộc vào đấy, dắt xe đi nhẹ nhàng hơn. Tôi phụ vác với ba tôi nhưng chẳng đi được bao xa đã thấy mệt vì trời nóng bức, muốn chuyển mưa nên mồ hôi ướt đẫm, đi một đoạn khoảng trăm thước lại ngồi nghỉ. Nhìn ba tôi thân già khi ôm, khi vác túi quà đi từng bước mệt mỏi trên con đường dài vô tận, lòng tôi đau xót. Vì thương tôi, thương anh ấy mà vất vả, cực khổ như thế. Ba tôi chỉ còn một trái thận, lúc nào cũng thấy mỏi lưng. Nay đi xa, lỡ trái thận còn lại bị đau nữa thì biết làm sao!!! Còn tôi, chưa bao giờ đi bộ xa như hôm nay. Thật là bế tắc, tiến thoái lưỡng nan, không lẽ bỏ cuộc.
Càng đi càng thấy đường xa, càng mệt mỏi, đã gần hai tiếng rồi mà chưa thấy bóng người, chưa gặp được ai. Con đưởng đất đỏ nhiều chỗ lồi lõm, nhưng vũng nước cạn khô. Bước đi là bụi đỏ bay lên, nhuộm đỏ cả quần áo. Chúng tôi cố gắng, chậm bước, hy vọng sẽ tìm được chỗ ngủ trọ đêm nay trước khi trời tối. Ðến xế chiều, mới thấy mấy căn nhà nho nhỏ chỉ to hơn cái chuồng heo của nhà tôi. Nhà ở thưa thớt, lợp bằng lá. Ði một quãng nữa thấy tấm bảng cắm bên đường: Xã Ðồng Nơ. Thỉnh thoảng lại thấy có căn nhà cháy rụi, tôi bỗng thấy tội nghiệp cho những người dân nghèo, cơ nghiệp chỉ có thế mà lại cháy mất. Sau này tôi mới hiểu, dân bị lùa đi vùng kinh tế mới, bị nhà nước lừa bịp, đem con bỏ chợ, nhiều người không sống nổi nên đốt nhà tự vẫn hay tìm trở về thành phố, ở lang thang, kiếm sống qua ngày, trở thành bất hợp pháp vì công an đã cắt hộ khẩu, không có quyền cư trú tại thành phố nữa.
Bỗng ba tôi vui mừng nói: – Sắp đến rồi, hình như có bóng người ở phía trước?
Ði tiếp thấy nhiều nhà và có vẻ như gần đến. Bỗng có một cô gái băng qua đường, ba tôi gọi hỏi thăm cô Phượng làm việc ở trạm y tế. Cô ấy vui vẻ trả lời: – Chị Phượng là chị của cháu. Bác và chị đi theo cháu, ở gần đây thôi.
Nói gần mà cả mấy trăm thước, hai chân tôi vừa đau, vừa mỏi rã rời. Ðến nơi, cô gái vào nhà nói to: – Chị Phượng ơi, có khách Sài Gòn ghé thăm.
Một cô gái, trạc tuổi tôi, trong nhà bước ra, tay bắt mặt mừng, nói giọng Bắc, nắm lấy tay tôi: – Chào bác, chào chị, mời bác và chị vào nhà.
Tôi ngẩn ngơ trước sự tiếp đón niềm nở và đầy tình người của cô Phượng. Cả buổi chiều đi bộ lo lắng, nay thấy cử chỉ thân thiện của Phượng làm tôi yên tâm và xúc động. Tuy chưa bao giờ biết nhau nhưng Phượng xem bố con tôi như người thân trong nhà. Phượng hỏi: – Bác và chị đi thăm ai?
Ba tôi trả lời: – Ði thăm cải tạo.
Cô Phượng giải thích: – Cháu hỏi vì trong đó có hai trại, một trại tù hình sự và một trại cải tạo.
Ba tôi hỏi tiếp: – Từ đây vào còn xa không?
Phượng nhìn chúng tôi ái ngại trả lời: – Còn xa lắm, khoảng một ngày đường nữa. Bác và chị tối nay ngủ tại đây, cháu nấu cơm cho bác và chị ăn, sáng mai mới đi được.
Nghe thế ba tôi nói: – Chúng tôi cám ơn cô rất nhiều. May gặp cô, có cho ở nhờ đêm nay là quá tốt rồi, ăn uống để chúng tôi tự lo liệu.
Phượng lắc đầu: – Bác đừng lo, chẳng mấy khi bác và chị ghé vào đây. Cháu mời bác và chị cùng ăn một bữa cơm thanh đạm với cháu, chẳng đáng gì, bác đừng lo nghĩ.
Nghe thế, tôi cảm động, nước mắt muốn trào ra. Ai ngờ trong rừng hoang xa thẳm, một vùng đất lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân đến, nghèo nàn, thiếu thốn, buồn thiu lại có một cô gái giàu lòng bác ái và đón tiếp người xa lạ như người thân trong nhà. Thời buổi gạo châu củi quế, mua gạo từng ký, cuộc sống ở vùng kinh tế mới hết sức khó khăn hơn, bữa no, bữa thiếu vậy mà cô Phượng sẵn sàng mời chúng tôi dùng cơm.
Ăn xong, thấy cô làm bánh, ba tôi hỏi: – Cô làm bánh để ăn hay bán?
Phượng nhìn chúng tôi trả lời: – Cháu làm để má cháu bán, kiếm thêm tiền chứ lương không đủ tiêu!!
Ba tôi cảm động nói: – Ở đâu cũng vậy, làm cho nhà nước rồi cũng phải xoay trở thêm.
Phượng nói: – Cháu bận tay, bác và chị đi nghỉ cho khỏe, lấy sức mai còn đi khá xa.
Sáng sớm hôm sau, hai bố con dậy sớm, chuẩn bị đi vào lúc trời còn mát nhưng Phượng không cho, cô cản lại nói: – Bác và chị không thể đi sớm, phải đợi trời thật sáng vì heo rừng, có khi có cả cọp nữa vẫn lảng vảng ở vùng này, nguy hiểm lắm. Ở đây, không ai dám đi làm sớm đâu.
Nghe thế chúng tôi khựng lại, đành ngồi chờ. Ðến khoảng 8 giờ, Phượng dẫn chúng tôi ra ngoài đường, đến một sạp bán chuối và bánh, giới thiệu người đàn bà đang ngồi bán là mẹ của cô, chúng tôi chào, hỏi thăm, ngỏ lời cám ơn. Tôi mua hai nải chuối chín để ăn đồng thời mở hàng cho bà.
Phượng đưa chiếc xe đạp cô đang đi cho ba tôi rồi nói: – Cháu cho bác mượn chiếc xe đạp để chở đồ cho đỡ nặng, khi nào thăm xong trả lại cháu.
Hai bố con tôi sững sờ, kinh ngạc trước quyết định của Phượng. Thời buổi khó khăn này, đối với rất nhiều gia đình, cái xe đạp là cả một gia tài, là phương tiện di chuyển và chở đồ đạc. Ðối với người không quen biết, không biết từ đâu đến, lần đầu tiên biết nhau đã dám cho mượn hết sức dễ dàng. Lỡ gặp người gian tham, lấy xe đi mất thì sao?
Ba tôi lưỡng lự nhưng sợ phụ lòng tốt của cô nên nói: – Cám ơn cô rất nhiều, đã cho ở nhờ lại còn cho mượn xe. Tôi hứa thăm xong sẽ đem trả lại cho cô.
Phượng vui vẻ trả lời: – Bác yên chí, cứ lấy đi, cháu giúp bác và chị cũng như giúp cho anh ấy thôi. Bác và chị vào thăm, chắc anh vui lắm, tôi nghiệp các anh, vì thời cuộc đổi thay nên mới khổ như vậy.
Ba tôi hỏi Phượng: – Từ đây vào đấy đi như thế nào?
Phượng dặn chúng tôi: – Bác và chị đi khoảng quá trưa sẽ thấy hai ngã rẽ, bác rẽ phải vào con đường thứ hai rồi đi mãi sẽ đến trại.
Ba tôi hỏi tiếp: – Cô Phượng đã vào chỗ đó chưa?
Phượng trả lời: – Dạ có, cháu vẫn thường vào chích ngừa cho mấy anh.
Nghe thế chúng tôi yên chí. Phượng đưa chúng tôi đi một đoạn đường rồi trở về đi làm. Chúng tôi đi tiếp đoạn đường còn lại. Càng đi càng xa, trời bắt đầu nóng, ba tôi dắt xe, tôi phụ đẩy phía sau, ban đầu còn nói chuyện, sau mệt nên mạïnh ai nấy đi. Thỉnh thoảng thấy đường rẽ nhưng bị cỏ cây mọc che gần hết, mãi rồi ba tôi lùng bùng không biết rẽ vào đường nào. Giá có người qua lại hỏi thăm thì chắc ăn hơn, nhưng từ sáng đến giờ chẳng gặp ai. Tôi và ba tôi băn khoăn lo lắng, hay bị lạïc rồi. Giữa rừng hoang vắng lặng, chơ vơ chỉ có hai bố con, lỡ có chuyện gì hay tai nạn xảy ra biết làm sao đối phó. Tôi mệt một thì ba tôi mệt mười, tuổi già sức yếu chưa bao giờ lặn lội đi xa như thế. Không bao giờ cuộc đời mình có lúc lại lang thang trên con đường đất đỏ ở khu rừng vắng lặng như hôm nay, tôi nghĩ thú rừng đang rình rập chung quanh, chưa biết lúc nào nhào ra cắn, hoặc xui xẻo gặp cướp thì chắc chết hết, không ai biết. Nghĩ thế nên đâm ra hoảng sợ, chân bước đi mà lòng lo lắng, tôi không dám nói gì vì sợ ba tôi cũng lo thêm.
Ði một quãng rồi lại nghỉ, lúc này đã gần trưa, mặt trời sắp đứng bóng, không đói, chỉ thấy khát. Nước mang theo uống gần hết, cứ tình trạng này, đi mãi chưa đến, hai bố con tôi lấy nước đâu mà uống. Ðã qua hai ngã rẽ, có dấu bánh xe hơi nhưng phân vân không biết đúng hay sai. Ðang đi thêm một đoạn nữa thì thấy một người đàn ông mặc quần đùi, trên người áo lính đã bạc màu, tay cầm cái rựa băng ngang qua đường. Thấy bóng người ba tôi mừng quá, không cần biết họ là người tốt hay xấu, vội dơ tay ngoắc và gọi lớn: – Ông ơi, cho tôi hỏi thăm.
Người đàn ông tí nữa thì đi vào rừng, nghe gọi vội đứng lại trả lời: – Bác hỏi gì vậy?
Ba tôi chạy đến gần nói:– Tôi đi thăm con tôi ở trong trại cải tạo, bây giờ không biết đường nào vào, nhờ ông chỉ giùm.
Người đàn ông trạc 40 tuổi trả lời: – Bác đi quá rồi, đường này đi vào sông Sài Gòn, vào trại hình sự, còn mấy anh cải tạo thì phải rẽ cách chỗ này mấy trăm thước.
Ba tôi cám ơn, quay trở lại. May quá, nếu không gặp ông này thì hai bố con lạc luôn, không bao giờ đến. Ði vào ngã rẽ như đã dặn, mặt trời đã nghiêng hẳn xuống, lúc đó khoảng 3 giờ chiều, vẫn chưa thấy trại đâu cả. Hai bên đường cỏ cây có đoạn thưa thớt, có đoạn rậm rạp kín mít. Hai chân tôi đau nên không đi dép nữa, tôi lấy cái cây, một đầu hai nải chuối, đầu kia hai chiếc dép, gánh trên vai đi chân đất thấy thoải mái hơn. Ði khoảng nửa tiếng nữa, bỗng nghe tiếng chặt cây từ xa, ba tôi tỏ vẻ vui mừng nói: – Chắc đến rồi con ơi, nghe nhiều tiếng chặt cây, chắc mấy anh ấy đang phá rừng?
Tôi cũng nghe nhưng chưa tin, biết đâu dân thường thì sao? Ði một đoạn nữa, bỗng thấy mấy anh đang chặt cây, lố nhố trong rừng.
Có anh dừng lại, chạy ra đường hỏi: – Bác với chị đi đâu?
Nhìn người đàn ông gầy gò, đen đúa, gấu áo rách tả tơi, mồ hôi ướt đẫm cái áo lính cũ kỹ, tôi hình dung người tôi thương chắc cũng giống như thế.
Ba tôi trả lời: – Ði thăm cải tạo.
Lúc này có thêm mấy anh nữa, mỗi người một cái rựa to, chạy đến hỏi thăm vồn vã: – Bác và chị đi thăm ai?
Ba tôi nói tên, các anh trả lời: – Anh L cháu biết, có ở trại này.
Nghe thế hai bố con tôi mừng rỡ vì sắp đến nơi. Không còn lạc nữa.
Lúc đó, tên công an đến đuổi các anh vào làm việc, hắn hỏi ba tôi vài điều rồi nói: – Bác với chị đi vào trại, cách đây khoảng 2 cây số, trình giấy tờ, sẽ có người lo, giải quyết cho anh ấy ra thăm. Bác đi mau kẻo trời tối.
Chúng tôi đi tiếp, các anh cải tạo đứng nhìn theo. Các anh bị đọa đày trong rừng sâu, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài đã lâu nên khát khao gặp lại hình ảnh những người thân, những người dân ngoài xã hội. Tôi không ngờ nó nhốt các anh trong rừng xa thăm thẳm như vậy, có ai biết vào thăm. Mà có trốn cũng không biết đường nào về nếu không có người dẫn đường.
Khi đến khu vãng lai, thấy có mấy căn nhà lợp bằng tranh, to, rộng rãi, trông khá đẹp, giữa là một cái sân đất bằng phẳng khá rộng, có những vườn bông hoa đủ màu, trông rất quy cũ và thơ mộng. Tôi đã đi thăm nhiều trại nên biết những gì có được hôm nay tại khu vãng lai này là mồ hôi, công sức của các anh chứ công an nó đâu có làm. Bắt làm nhà cho nó ở thì đúng hơn.
Ba tôi gặp công an trực trại, trình giấy tờ. Tên cán bộ dẫn chúng tôi vào trong nhà nói: – Bác và chị nghỉ ở nhà này. Có bếp nấu ăn, có giường để ngủ. Ngày mai trại sẽ cho anh ra thăm.
Nói rồi nó bỏ đi. Vào nhà đã thấy có một bà già đang ngồi nhai trầu, hỏi thăm mới biết bà đi thăm con, đang chờ xe của trại tiếp tế lương thực lên rồi quá giang về. Hóa ra vì thương con bà đã lặn lội đoạn đường xa thăm thẳm như bố con tôi, bà đã đến trước, đã gặp con. Ôi, lòng mẹ bao la như biển Thái Bình là thế.
Ðang nói chuyện với bà thì thấy mấy anh chặt cây hồi chiều đi về. Ngang qua, ai cũng giơ tay vẫy chào. Các anh gầy gò, đen đủi vì phơi nắng, dáng đi thất thểu, mệt nhọc.
Sáng hôm sau, các anh lại đi ngang qua khu vãng lai để chặt cây nữa, những cánh tay gầy gò vẫy chào chúng tôi. Tôi nhìn kỹ nhưng không thấy ai quen. Một lát, thấy một tên cán bộ đi trước, tay cầm cuốn sổ, phía sau có một người đi theo. Từ xa, nhìn màu áo quen thuộc, tôi biết là anh. Tên cán bộ bắt ba tôi ký vào sổ, nó nói:
— Nếu anh ấy trốn, bác chịu trách nhiệm.
Nói rồi nó bỏ đi vào trại.
Anh chào ba tôi và nhìn tôi mỉm cười, có lẽ anh không ngờ chúng tôi đi thăm. Anh hỏi thăm gia đình, công ăn việc làm. Ba tôi kể chuyện đi thăm. Thấy anh còn mạnh khỏe, tôi vui lắm. Anh cho biết bệnh sạn thận đã gần như khỏi sau khi ăn 18 quả dứa tôi gởi vào. Chỉ còn sốt rét thôi.
Có một người Thượng đi xe đạp với cái thúng to buộc sau xe hỏi có mua thịt heo rừng không? Ba tôi ra xem và mua mấy lạng. Anh và ba tôi ngồi nói chuyện, tôi đi nấu cơm. Ðây là lần đầu tiên trong 5 năm, tôi được thăm lâu nhất, trại cho cả ngày, đó là điều không ngờ vì vẫn tưởng chỉ được một hai tiếng là cùng. Ðây cũng là bữa cơm anh ăn chung với bố con tôi sau năm năm xa cách. Ðây cũng là lần đầu tiên sau 5 năm, tôi với anh được ngồi bên nhau, nói chuyện mà không có cán bộ đứng kè kè bên cạnh. Người anh gầy gò, ốm yếu. Ai cũng giống nhau. Anh cho biết làm ở đội nông nghiệp, lúc nào cũng thấy đói, ăn xong rồi cứ tưởng như chưa ăn. Làm việc nặng, đi xa nên mệt nhưng còn đỡ hơn mấy anh ở đội lâm sản, đi lấy cây, chặt tre nắng nôi, xa xôi, vác về cực lắm.
Anh cho biết ở đây có hai trại, mỗi trại khoảng 300 người, làm đủ thứ việc, dọn rẫy trồng bắp, lúa, đậu phọng, khoai mì rau muống… nhưng vì cán bộ không kinh nghiệm và cải tạo không biết làm nên cơn mưa đầu mùa xuống, cứ ngồi chờ cơn mưa to hơn mới gieo. Ðến khi thấy rẫy của người Thượng bắp mọc cao cả gang tay rồi mới hoảng hồn về ra lệnh trồng. Vì vậy cỏ mọc cao hơn lúa, hơn bắp, làm không xuể, mất mùa. Trại thông báo phải tự túc lương thực, được nhiều ăn nhiều, được ít ăn ít, kiểu này chắc đói đến nơi.
Ba tôi hỏi có hy vọng chừng nào được về, anh cho biết đã có nhiều đợt về nhưng không nhiều, còn anh thì không biết bao giờ..!!! Có thể nay mai, có thể vài năm nữa, không biết đâu mà đoán.
Hôm sau, anh trở vào trại, hai bố con đi về. Nghĩ đến đoạn đường dài mà ngao ngán nhưng lòng tôi rất vui vì đã gặp anh như ý nguyện. Lúc về mau hơn vì không có gì nặng. Cô Phượng thấy chúng tôi về mừng lắm, có lẽ cô tưởng mất xe rồi vì gần ba ngày không thấy bố con tôi trở lại. Hôm sau ba tôi hỏi thăm đường ra tỉnh Bình Long thăm bà cô đã lâu không gặp. Bố con tôi ghé nhà người quen một ngày nữa mới về. Như vậy, đi về mất cả tuần lễ, mợ tôi ở nhà lo lắng, không biết truyện gì xảy ra?
Trước khi đi, anh có nhờ ba tôi nuôi giùm một con sáo, tưởng rằng thời gian ngắn sẽ về. Ai ngờ anh đi biền biệt. Vì con sáo trở thành niềm vui trong lúc nhàn rỗi nên ba tôi nuôi và chăm sóc cẩn thận. Lâu lâu mua thịt về nấu ăn, ba tôi cũng cho chim ăn vài miếng. Thế rồi mấy năm sau, chim biết nói và cũng khá khôn. Nó nói nghe rõ lắm. Nhưng không biết ai trong tổ may dạy nó lúc nào mà mỗi khi tôi xuống bếp, ra sau vườn, thấy tôi con chim nói: “Diễm ơi, khổ chưa. Diễm ơi, khổ chưa”. Nó nói tỉnh bơ trong khi tôi vừa buồn cười vừa tức vì vô tình nó khơi nỗi đau khổ đeo đuổi mấy năm nay. Lần thăm này, ba tôi khoe với anh con sáo đã biết nói. Nhưng khi đi thăm về thì con sáo gần chết vì mợ tôi quên không cho nó ăn. Con sáo đói, lấy mỏ cạy lồng để chui ra nhưng cuối cùng cái mỏ trên bị gãy. Ba tôi về, tiếc quá, đút cho nó ăn nhưng vẫn không cứu được.
Hai tháng sau, khoảng 2 giờ chiều, lúc đó tôi đi học may ở Tam Hiệp về, gần đến nhà thì thấy chú Mến đang đi ngược chiều vội đứng lại. Chú Mến bán hàng ở ngoài chợ, thùng hàng đặt trên chiếc xe đạp, bán xong, gấp lại, đi về rất tiện. Mỗi lần thấy tôi, chú nói: – Cô ơi, chú sắp về rồi. Tôi mỉm cười vì biết chú ấy nói để tôi hy vọng, đừng nản chí chứ làm sao chú biết ngày về của anh ấy. Ðã hàng trăm lần chú nói với tôi như thế và cũng chẳng bao giờ thành sự thật. Hôm nay, chú đứng lại chờ tôi, khi đến gần chú nói với nụ cười thật tươi: – Cô ơi, chú về rồi, thật đấy.
Tôi nhìn chú Mến, chào và nói giễu: – Bao nhiêu lần rồi có thấy gì đâu?
Chú Mến nói tiếp: – Thật mà, cô về xem, chú về rồi.
Tôi không tin, lên xe đạp đi về.
Khi đến con đường Quốc Lộ 1, tôi xuống để dắt xe băng qua đường như mọi lần vì nhà tôi ở bên kia đường, nhìn qua thấy ba tôi và anh đang đứng ở trước cửa, lòng tôi bỗng vui hẳn lên. Chú Mến nói đúng, anh đã về, anh về vào lúc chẳng ai ngờ. Tôi lấy tay dụi mắt, tưởng như nằm mơ nhưng anh, người tôi thương yêu, đợi chờ hơn 5 năm qua nay đang đứng đón tôi và đã thực sự may mắn sống sót trở về.
Hai tháng sau, chúng tôi chuẩn bị đám cưới. Thiệp mời được gởi đến hàng xóm, bà con thân thuộc ở Sài Gòn, Thủ Ðức và các tỉnh xa. Những người hàng xóm sau một thời gian gièm pha tưởng tôi không đủ kiên nhẫn đợi chờ đến khi anh về nhưng thấy tôi một lòng nhất quyết nên ai cũng theo dõi xem mối tình lận đận này sẽ đi về đâu, chung cuộc như thế nào? Nay, nhận được thiệp cưới, họ vui vẻ chúc mừng. Chuyện của tôi đợi chờ… người tù cải tạo hầu như ai cũng biết nên khi anh về, nhiều người tò mò đến xem, hỏi thăm.
Chỉ còn một tuần nữa là đám cưới, ngày vui nhất của đời con gái đi lấy chồng. Cả gia đình đang chuẩn bị cho ngày vui ấy. Nhưng đột nhiên tôi bị sốt, người mệt mỏi rã rời, nặng đến nỗi phải đi nhà thương Ðồng Nai. Bác sĩ khám vẫn chưa biết bệnh gì, chỉ truyền nước biển và chờ kết quả xét nghiệm. Lòng tôi buồn vô hạn, chưa bao giờ bị bệnh mà tôi mệt như thế, miệng đắng ngắt, sức lực như mất gần hết, giọng nói thều thào vì đuối sức. Có lẽ nào định mệnh lại oan nghiệt chia lìa chúng tôi. Hơn 5 năm đợi chờ mỏi mòn, mong một ngày anh về, nay anh về thì tôi có thể… sẽ ra đi vĩnh viễn. Anh lên thăm, nhìn tôi buồn vời vợi.
Sau này nghe ba tôi kể, ba tôi quá buồn, nằm dài trên sàn nhà, còn anh ngồi trên ghế suy tư, lo lắng. Hai bố còn bàn nhau bây giờ đã quá muộn, không thể hồi báo được, sợ đám cưới này thiếu cô dâu vì đang nằm ở bệnh viện. Biết đâu bà con thân thuộc xa gần lâu ngày không gặp, về thay vì tham dự đám cưới lại dự đám ma. Biến ngày vui trở thành tang tóc. Theo dự trù, chiều thứ Sáu anh chịu Phép Rửa Tội, chiều thứ Bảy Lễ Cưới, ngày Chủ Nhật Ðám Cưới; hôm nay thứ Tư, tôi còn nằm đây, ở nhà thương. Tôi tủi cho thân phận đen tối, kém may mắn của mình. Những ước mơ ấp ủ bao năm qua, mong một ngày đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc lứa đôi nay sắp tan thành mây khói. Nghĩ vậy, tôi đau lòng, tủi thân nằm khóc.
Tôi biết càng khóc thì bệnh của tôi càng nặng thêm. Nghĩ ngợi, lo lắng nhiều chẳng có ích gì trong lúc này nhưng không sao dằn lòng được. Tôi cố ngồi dậy, đọc kinh xin Thiên Chúa và Ðức Mẹ cho tôi qua khỏi cơn hoạn nạn để trở về nhà càng sớm càng tốt kẻo mọi việc lỡ làng. Sáng hôm sau, tôi thấy đỡ mệt, căn bệnh có triệu chứng thuyên giảm. Ngày Thứ Sáu bỗng thấy người dần dần ấm lại và thèm ăn. Bác sĩ khám cho về mặc dù chưa khỏi hẳn.
Chiều hôm ấy, còn ốm dở, sợ đứng lâu không được nên ba tôi không cho đi tham dự lễ rửa tội của anh. Tôi tiếc lắm vì đó là sự kiện trọng đại của đời anh lại thiếu tôi, không được chứng kiến. Ngày hôm sau Thứ Bảy, miệng đắng ngắt, đi chưa vững nhưng cũng phải đi làm tóc, trang điểm lại sơ sơ để làm cô dâu. Buổi chiều mưa không lớn nhưng kéo dài dai dẳng. Từ nhà tôi đến nhà thờ khoảng 100 thước, vì trời còn lất phất mưa, không dám đi bộ, người còn yếu sợ trúng mưa nên ba tôi nói gọi xe xích lô chở chúng tôi. Hóa ra, ngày vu quy, vô tình xe hoa chở cô dâu chú rể là chiếc xích lô, có ai ngờ lại như vậy.
Xe chạy đến cổng nhà thờ. Ðường vào bị dốc nên xe khựng lại, không lên được. Anh tài xế nhảy xuống định ra phía trước nắm càng xe kéo lên, chưa kịp kéo thì đuôi xe nhổng lên, đầu xe gục xuống, tôi với anh tí nữa ngã ra khỏi xe, may anh níu lại. Lúc này mà ngã xuống đất, quần áo cưới bị ướt, dính bùn bẩn hết thì không biết làm sao. May không bị gì, đành lấy dù che đi bộ băng qua sân vào nhà thờ. Lúc này đã trễ 5 phút, Cha và mọi người đang đứng chờ.
Tôi với anh, sau bao năm chờ đợi, trong tiếng kèn rộn rã vui tươi của đội kèn đồng mở đầu Thánh Lễ, cùng nắm tay nhau tiến bước lên lãnh nhận phép Hôn Phối, tuyên hứa thủy chung, thương yêu nhau trọn đời. Số người tham dự đông hơn mọi ngày vì họ biết chúng tôi đã lận đận lại còn muộn màng hơn những đôi tân hôn khác, có lẽ họ đã cầu nguyện nhiều cho chúng tôi.
Thời gian trôi qua mau, thấm thoát đã 26 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm thử thách trong cuộc sống nhưng chúng tôi vẫn có nhau, bên nhau và thật nhiều hạnh phúc. Ðồng hồ thời gian vào thời điểm các anh đi tù hình như sắp hết pin nên chạy quá chậm, làm tôi cũng như các chị đợi chờ mòn mỏi. Bây giờ thì lại chạy quá nhanh, đã bước vào tuổi ngũ tuần, mái tóc không còn đen tuyền như trước nữa mà đã bạc màu.
Nhìn lại năm xưa tháng cũ đợi chờ người tù cải tạo, tôi không hiểu sao mình lại vượt qua được, nó như một cơn ác mộng, một quãng đời kinh hoàng đầy ưu tư, lo lắng. Tất cả nay đã trở thành kỷ niệm, ăn sâu vào ký ức, không bao giờ quên, những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui.