
* Cổ Tích Vọng Phu
Về hình ảnh Hòn (Núi) Vọng Phu, ở Trung Hoa đã có tự ngàn xưa, trong tác phẩm Hòn Vọng Phu, nữ sĩ Quỳnh Dao đã ghi lại ở chương đầu của sự tích: “Ở phía Bắc Trung Hoa, giữa những rặng đồi núi chập chùng, ẩn hiện rõ nét hình thù người mẹ bồng con mà dân giả bao nhiêu năm qua đều ngậm ngùi thương nhớ đến câu chuyện thật cảm động… có một thiếu nữ xinh đẹp vừa lấy chồng chưa tròn một năm thì người chồng phải xa lìa vợ trẻ lên đường chinh chiến. Bao nhiêu năm đợi chờ mùa lá rụng ôm con mong ngóng tin chồng về. Nàng không quản ngại gió mưa sương tuyết phủ phàng… cho đến một ngày kia mẹ con người chinh phụ không còn chịu đựng nữa đã thoát hồn vào cõi hư vô. Trời cao đã chứng giám tấm lòng trung trinh của nàng. Thân xác mẹ con nàng đã hóa thành tượng đá và đã đi vào lịch sử, đi vào lòng kính ngưỡng của thế gian. Và từ đó, hình ảnh mẹ con nàng trở thành núi Vọng Phu…” (Hòn Vọng Phu – Ái Cầm chuyển ngữ). Ngọn núi Vọng Phu nhìn ra ngoài biển, dưới chân núi là vùng hoang dãû, rừng cây um tùm tăm tối đầy hang động. Khu rừng đó gọi là Đoản Tùng Cương, băng qua nữa là Sơn Phong và Sơn Cốc.
Ngoài ra còn có: Vọng Phu Sơn tại Quảng Tây, Quảng Đông, Sơn Đông… Trong Thanh Hiên Thi Tập, Nguyễn Du có bài Vọng Phu Thạch tại Hà Bắc:
“Thạch gia? Nhân gia? Bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp yểu vô vân vũ mộng,
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân.
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,
Đài triện trường minh nhất đoạn văn.
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế,
Độc giao nhi nữ thiện di luân”
Đá Vọng Phu
“Là người? Là đá? Hỏi là ai?
Đầu núi bao năm đứng giữa trời.
Bặt mộng mây mưa trong một kiếp,
Giữ lòng trinh bạch trọn muôn đời.
Lớp rêu đoạn sách còn ghi mãi,
Dòng lệ mưa thu cứ chảy hoài.
Bốn phía mênh mông nhìn dãy núi,
Luân thường riêng để má hồng soi!”
(Nguyễn Thạch Giang dịch)
Việt Nam có nhiều hình ảnh mẹ bồng con nằm rải rác từ Lạng Sơn vào tận Hà Tiên, mang sự tích người vợ ôm con, trông chồng hóa đá được đặt tên Hòn Vọng Phu. Qua hình ảnh đó, dân gian mường tượng bóng dáng mang tên “vọng phu”, mang ý nghĩa là mong ngóng đợi chồng. Truyền thuyết về hình ảnh “vọng phu” ngày xưa với giai thoại tương tự như nhau, trong thời điểm luư lạc xa nhau… thời gian sau vì không nhận ra nhau mà họ trở thành vợ chồng và có con. Theo đạo lý, sự nhầm lẫn là nỗi đau tột cùng, vợ chồng cùng chung huyết thống cha mẹ, ray rứt với loạn luân, không thể chấp nhận được nên đành ra đi….
Từ địa đầu giới tuyến, Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn nằm trong quần thể cảnh quan Động Tam Thanh và Chùa Tam Thanh. Núi này còn được gọi là núi Tô Thị. Trên đỉnh núi có một khối đá tự nhiên hình một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương xa. Từ xa xưa tượng đá tự nhiên này đã gắn với truyền thuyết về người vợ chung thuỷ đứng chờ chồng. Chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con đã hoá thành đá, từ đó người dân gọi đây là tượng nàng Tô Thị đứng trông chồng là Đậu Tháo. Hình tượng đó tại Đồng Đăng, được đi vào dân gian qua ca dao:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa’
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Mải mê quên hết lời em dặn dò”.
Ở Thanh Hóa, trên núi Nhồi, thuộc xã Đông Hưng, huyện Đông Sơn nổi bật hình ảnh hòn đá lớn như chân dung người đàn bà đứng bế con. Vẫn theo tương truyền ngày xưa, người chồng theo tiếng gọi núi sông, chinh chiến kéo dài, người đàn bà mòn mỏi chờ mong, ôm con đứng trông chồng đến khi hóa thành đá.
“Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi
Có người chinh phụ mắt ngời đăm đăm”.
Ở Nghệ An còn có câu ca dao về ngọn núi bên bờ khe Giai nói trên:
“Ngước mắt nhìn sang
Đá vọng phu ôm con trán ướt
Mắt đăm đăm nhìn nước sông Giai…”.
Núi Vọng Phu ở Quảng Trị thuộc huyện Vũ Xương, xưa ở cửa bể đạo Thuận Hóa.
Ở Quảng Nam, núi Vọng Phu ở Đá Bà Rầu. Theo Nguyễn Cẩm Xuyên: “Câu chuyện lưu truyền về pho tượng đá có hình người đàn bà này có khác với những truyền thuyết Vọng Phu trên cả nước: Người vợ có chồng đi buôn xa, ngày ngày nàng ra bờ sông mòn mỏi trông chồng. Ngày lại ngày qua, nàng vẫn hy vọng… và cuối cùng chàng trở về nhưng hạnh phúc đã không đến mà lại vỡ tan cùng với bao nhiêu nghi ngờ, ghen tuông…; chồng nàng lại bỏ nhà ra đi. Nàng buồn rầu ra cửa biển, đau thương rồi biến thành khối đá sầu muộn. Bên cạnh tượng đá nay còn có một ngọn tháp, gọi là Tháp Bà Rầu.
Ở Bình định có Núi Vọng Phu ở núi Bà thuộc địa phận thôn Chánh Oai, huyện Phù Cát. Mỏm đá xanh trên đỉnh núi cao, nhìn ra Vũng Rô, cạnh suối Bún. Nếu ta ngồi thuyền dưới biển nhìn vào trông giống một bà mẹ dắt con đăm đăm nhìn ra khơi như ngóng trông.
“Bình Định có núi Vọng Phu,
Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh. ..”
Ở Phú Yên có núi Đá Bia thuộc dãy Đèo Cả, chân núi phía Nam giáp biển Vũng Rô, trên đỉnh có một khối đá lớn, mọc dựng đứng, chóp nhỏ và tròn trông tựa hình người đàn bà nên gọi là Núi Vọng Phu còn gọi là núi Mẹ Bồng Con.
Ở Khánh Dương, Khánh Hòa có hòn Vọng Phu, còn gọi là hòn Mẫu Tử. Theo Nguyễn Tử Quang trong tác phẩm Điển Hay Tích Lạ “Chóp núi Vọng Phu là một khối đá hoa cương khổng lồ, đứng thẳng lên trời, bên cạnh lại có một khối đá khác nhỏ hơn, hai khối đá nầy tương tự hình người”.
Theo Quách Tấn trong tác phẩm Xứ Trầm Hương, núi Vọng Phu này người Pháp gọi là La Mère et L’Enfant – dịch ra là Mẹ Bồng Con, và còn có tên khác là Mông Công, đọc trại ra thành Bồng Con; đồng bào dân tộc trong vùng gọi là T’Yang Mên. Những người lớn tuổi trong vùng Ninh Hòa – Vạn Giã đều cho rằng trông lên hòn Vọng Phu, đứa con càng ngày càng lớn trong vòng tay mẹ, còn bà mẹ thì ngày càng già yếu mỏi mòn vì bao nhiêu năm dạn dày sương gió.
Núi Vọng Phu ở Tây Ninh: Núi Bà Đen ở Tây Ninh, thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, xưa kia gọi là Núi Một. Hơn hai trăm năm nay mang tên là núi Bà Đen, nguyên do sự tích: Xưa có một cô gái người Trảng Bàng xinh đẹp tuyệt trần, nước da ngăm đen, tên là Lý Thiên Hương. Thiên Hương thường đi lại cúng hương hoa ở một ngôi chùa trong núi. Chẳng may, cô bị bọn cướp hành hung. Có một chàng trai thấy sự bất bằng, ra tay đánh tan bọn cướp. Hai người yêu thương nhau. Khi chàng ra lính xa. Bọn cướp trả thù bắt nàng, nàng chạy trốn trong núi Một và mất ở đó. Vị hòa thượng trụ trì trên chùa chôn cất nàng tại sườn núi phía Đông. Nàng thường hiển linh cứu giúp người hiền. Dân chúng tưởng niệm, coi nàng là Linh Sơn Thánh Mẫu, hương khói phụng thờ, gọi núi Một là núi Bà Đen. Hình ảnh “vọng phu”, “mẹ bồng con”… là hình ảnh cao đẹp, ngưỡng mộ người đàn bà với đức tính cao cả, sự hy sinh, thủy chung, oan nghiệt… do dân gian cảm phục và thêu dệt rồi được truyền từ đời này qua đời khác thành câu chuyện truyền thuyết.
* Trường Ca Hòn Vọng Phu
Qua âm nhạc, Hòn Vọng Phu của Lê Thương cho thấy sự trưởng thành của âm nhạc Việt Nam trong giai đoạn đầu; ở đó thể hiện trọn vẹn câu chuyện nhân gian thành trang sử đầy màu sắc về hình ảnh, tâm tư và cả bối cảnh bi hùng, cao đẹp của thời chinh chiến.
Trường ca Hòn Vọng Phu gồm có ba bài. Mỗi bài là được xem như bài hát riêng được kể trong trong ca khúc:
Hòn Vọng Phu 1: Đoàn Người Ra Đi (Hương Mộc Lan xuất bản năm 1946)
Hòn Vọng Phu 2: Ai Xuôi Vạn Lý (Hương Nam xuất bản năm 1946)
Hòn Vọng Phu 3: Người Chinh Phu Về (Dân Tộc xuất bản năm 1949)
Trong các hình ảnh về Hòn Vọng Phu, bối cảnh Lê Thương tạo dựng trong ca khúc ở địa danh núi Nhồi, giữa vùng Thanh Hóa – Nghệ Tĩnh. Và nếu nhìn lại thời gian xa xưa, từ Cổ Loa thành – địa danh của Vĩnh Yên – nhìn về “Nơi phía Nam giữa núi mờ, ai bế con như đứng chờ” thì chân dung Hòn Vọng Phu trong ca khúc được tạo dựng nơi đây. Ba ca khúc trong Hòn Vọng Phu dàn dựng ra qua lời ca, tiếng nhạc theo tiến trình câu chuyện với đầy đủ hình tượng trong thời chinh chiến, nam nhi theo tiếng gọi của non sông, nữ nhi trong bổn phận nuôi con, thờ chồng, kẻ đi, người ở đều mang trong lòng tình yêu thương cao quý, trang trải nỗi niềm luyến nhớ, đau thương giữa nghĩa vụ và tình yêu, giữa phong ba thời cuộc và tình nghĩa vợ chồng.
Hình ảnh đó khơi dậy câu truyện được lưu truyền, nó tàng ẩn cái tình, cái nghĩa, sự thủy chung, vừa náo nhiệt vừa tĩnh lặng tạo thành bức tranh sống động trong nhiều bối cảnh thời đao binh của lịch sử nước nhà.
Theo nhạc sĩ Lê Thương, việc sáng tác ba bản Hòn Vọng Phu xuất phát từ những bước luân lạc kéo dài tại xứ dừa Bến Tre. Những rung cảm êm đềm lẫn ghê rợn, tuyệt vọng đã giúp cho chàng nhạc sĩ giang hồ gốc Thăng Long chắp nối dần các tình tiết thành một “truyện ca”. Và từ năm 1945 đến đầu 1948, ba ca khúc Hòn Vọng Phu lần lượt được tái bản tại Sài Gòn.
Hòn Vọng Phu I mở đầu với hình ảnh chiến chinh, “là một bức tranh phác họa vài nét tiêu sơ theo điệu quân hành. Thực hiện nó bằng cảm xúc mãnh liệt cộng với trí tưởng tượng mông lung, diệu vợi… Viết ca khúc này lúc đang sống bên bờ kinh đào Chạc Sậy nối liền sông Đại với sông Bến Tre” (Lê Thương). Không khí thời đó giống như hình ảnh trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Lê Thương miêu tả hình ảnh hùng dũng của chàng trai với tiếng gọi núi sông:
“Lệnh vua hành quân, trống kêu dồn.
Quan với quân lên đường.
Đoàn ngựa xe cuối cùng. Vừa ruổi theo lối sông…”
Không khí và hình ảnh bắt gặp trong Chinh Phụ Ngâm “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi” phận nam nhi phải “Xếp bút nghiên theo việc đao cung” để rồi “đi vào nơi gió cát”. Và, người vợ ở nhà mang nỗi nhớ khôn nguôi, nuôi con, ngong ngóng bóng chinh nhân trở về. Hòn Vọng Phu I đã phác họa tổng quát câu chuyện khi chia ly trở thành ly biệt:
“Người không rời nửa kiếp gian nan
Người biến thành tượng đá ôm con”!
Hòn Vọng Phu II (Ai Xuôi Vạn Lý) bày tỏ tâm trạng người vợ, thương chồng, nhớ chồng, chờ chồng bất kể nắng mưa:
“Bế con đã hoài công để đứng chờ.
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về.
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ…”
Khi nàng đứng chờ thì than ôi:
“Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ.
Cho đến bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già”
Thế nhưng nàng vẫn
“Đứng ôm con xem chàng về hay chưa?”.
Đứng trên ngọn núi chờ chồng, mong ai xuôi vạn lý để nhắn tin nhưng rồi tháng năm vẫn biền biệt trôi, mòn mỏi đứng vọng về chân trời xa xôi cho đến khi hóa đá.
Hòn Vọng Phu III (Người Chinh Phu Về), qua mùa chinh chiến, trên đường về chập chùng núi non, mang bao niềm nhớ thương mong giải bày với người yêu bao năm xa cách… nhưng nhìn về phương Nam, than ôi! giữa núi mờ, nàng biến thành tượng đá ôm con.
Trong thời kỳ bùng nổ chiến tranh Việt-Pháp, giai đoạn người trai phải tham gia vào cuộc chiến, có người nhạc sĩ trẻ Lê Thương. Và, chính 3 ca khúc đó đã tạo thành được kích thước rộng lớn. Vì theo ông: “Lý do khác thôi thúc tôi viết Hòn Vọng Phu là do cảm mến thân phận người chinh phụ qua Chinh Phụ Ngâm phúc nổi tiếng… Không có gì đẹp hơn bằng cách chuyển cuộc ra đi của người chồng vì mối tình ngang trái thành cuộc ra đi vì đại nghĩa, và hình ảnh người đàn bà cũng trở nên hợp hơn, đúng hơn với người chinh phụ! Người đàn bà luôn luôn chịu thiệt thòi. Cần phải trả lại cho họ cái chức phận thiêng liêng, cao quý”.
Theo diễn biến, giai điệu lúc hùng, lúc bi, lúc giục giã lúc lắng đọng, dòng nhạc và lời ca của Lê Thương lột tả được ý nghĩa sâu lắng, thể hiện được tinh hoa của âm nhạc để đi vào trái tim, niềm rung cảm của mọi người.
* Chân Dung Nhạc Sĩ
Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại phố Hàm Long, Hà Nội. Bút hiệu Lê Thương bởi chữ ghép họ mẹ và sông Thương. Theo học trường Nhân Bắc ở Hà Nội đến năm 1935 hành nghề giáo. Bố mẹ ông là nghệ sĩ chơi nhạc cổ ở Hà Nội vì vậy khi ở học đường, ông tham gia phong trào ca hát, năm 20 tuổi, sáng tác nhạc phẩm đầu tay Trưng Vương. Thời gian theo học ở Hà Nội, ông thường xuống Hải Phòng, cùng với Văn Cao, Hoàng Quý, Hoàng Phú, Phạm Ngữ Canh Thân… thành lập nhóm sáng tác ca khúc âm nhạc lấy tên Đồng Vọng.
Đang chuẩn bị thi Thành Chung (diplôme) thì ông trúng tuyển vào hãng buôn của người Pháp nên bỏ học vào Nam. Và cuộc sống lưu lạc kéo dài từ đó. Ông là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy cho học sinh tại một số trường Trung Học tư ở Sài Gòn. Lê Thương và nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh qua làn sóng điện các chuyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng… Trong thập niên 60, ông phụ trách chương trình Phát Thanh Học Đường cho Trung Tâm Học Liệu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục ở Sài Gòn.
Lê Thương là một trong năm nhạc sĩ khai sinh cho nền tân nhạc Việt Nam với nhạc phẩm Tiếng Đàn Âm Thầm và Trưng Vương vào giữa thập niên 30, tiếp đó với các ca khúc Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử… Nhạc sĩ tiên phong trong thể loại truyện ca như Nàng Hà Tiên (1940) rồi được tiếp nối với Hoa Thủy Tiên, Lịch Sử Loài Người, Truyền Kỳ Lịch Sử…
Năm 1940, Lê Thương rời Hải Phòng vào Bến Tre, lên Sài Gòn và tham gia trong dòng sinh hoạt văn nghệ cùng anh em văn nghệ sĩ. Qua Hồi Ký của Phạm Duy (Tập III) viết: “Trong số những bạn đồng nghiệp, tôi yêu nhất nhạc sĩ Lê Thương. Anh rời Bến Tre lên Sài Gòn làm nghề thầy giáo… Lê Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản dị… Vào những năm đầu của cuộc chiến Nam Bộ, cũng như hầu hết những người trai của thời đại, Lệ Thương có những đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chống xâm lăng, giành Tự Do, Độc Lập của toàn thể nhân dân… Thì ra Lê Thương cũng đi vào kháng chiến để tạo những huyền thoại về người mẹ Việt Nam… Lê Thương vào thành rất sớm. Vào năm 48, anh soạn bài Hòa Bình 48… Vào thời đó, nằm trên trục tuyên truyền của phe tả, chim bồ câu được chọn làm biểu tượng cho hòa bình… nhưng anh Lê Thương của chúng ta cho rằng con chim đó đang bị đau nặng… Bài Hòa Bình 48 là loại nhạc châm biếm chính trị (satire politique) do Lê Thương dẫn đầu… Lê Thương còn soạn thêm những bài ca châm biếm như Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Gòn, Đốt Hay Không Đốt…
… Lê Thương cũng cũng là người chuyên soạn nhạc cho thiếu nhi, thiếu niên qua những bài Thằng Cuội, Tuổi Thơ… Bài Bà Tư Bán Hàng và bài Học Sinh Hành Khúc phổ biến đến độ có những câu nhại… tôi vẫn quan niệm bài hát nào có lời ca nhại là bài hát thành công nhất. Tôi cũng cho rằng trong làng tân nhạc, Lê Thương là người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc, mỗi giai đoạn nhạc của anh đều chứa đựng thông điệp”.
Nhìn lại toàn bộ nhạc phẩm của Lê Thương, bao gồm hầu hết mọi thể điệu. Bên cạnh nhiều nhạc phẩm về thiếu nhi rất quen thuộc, nhạc châm biếm, những bài thơ được phổ thành ca khúc như Bông Hoa Rừng, Tiếng Thùy Dương, Người Chơi Độc Huyền… cùng nhiếu ca khúc với tình tự quê hương, dân tộc được trải dài suốt nửa thế kỷ là công trình đóng góp thật quý giá.
Lê Thương thích tham gia vào kịch nghệ, cuối thập niên 30 với ban kịch Thế Lữ. Khi vào Sài Gòn, tham gia vào ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch, sáng tác nhiều bài hát cho kịch phẩm. Vào thập niên 50 ông viết nhạc phim cho hãng Mỹ Vân.
Là giáo sư dạy về nhạc sử ở Trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn, ông triển khai nền âm nhạc Tây phương để chuyên chở vào nền âm nhạc Việt Nam để tạo sắc thái đặc biệt. Qua hàng trăm nhạc phẩm đều phản ánh tâm hồn dân tộc, dòng nhạc bình dị, đơn giản; giai điệu nhẹ nhàng không cầu kỳ, rắc rối được thể hiện qua tiết tấu. Trên bục giảng, là một nhà giáo nghiêm nghị nhưng trong giao tiếp, ông là người hòa nhã, tận tình, lịch sự, từ tốn và hòa nhập với mọi người. Vì vậy, căn nhà của ông trên đường Bùi Viện trở thành thân quen cho giới nghệ sĩ. Ngoài ra, Lê Thương có tài vẽ tay trái, kiến thức rộng và giảng dạy rất lôi cuốn trong bộ môn khô khan Sử Địa.
Về mặt tình cảm, là nghệ sĩ, Lê Thương cũng phong lưu đa tình nhưng kín đáo, không ba hoa, khoác lác vì vậy không bị tai tiếng. Người tình đầu tiên sống với ông là cô đầu hát ả đảo nổi tiếng ở Hà Nội, sống với nhau nhưng không thành hôn. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn. Trong quyển Tâm Tình Văn Nghệ Sĩ của Lê Phương Chi.
Lê Thương cho biết: “Đầu năm 1947, sau khi tôi về sống ở Sài Gòn. Bấy giờ tôi gặp một người đàn bà thật lòng yêu thương và giúp đỡ trong lúc tôi còn bỡ ngỡ nơi đô thành hoa lệ nầy. Thời gian sau đó hai bên cùng thỏa thuận kết thành cuộc sống vợ chồng, bởi tôi vốn là một kẻ mồ côi và xa xứ, lại đang bơ vơ không nơi nương tựa, nên chúng tôi ‘cặp’ với nhau chớ không tổ chức cưới hỏi gì cả”… Và, người đàn bà đó đã chia tay sau khi sinh được mấy người con. Trước đó, Lê Thương có mối tình câm với cô nữ sinh, sau đó trở thành vợ của tác giả Giáo Đường Im Bóng. Lê Thương gởi tâm sự qua truyện ca Nàng Hà Tiên.
Người bạn đời trăm năm với ông, gốc Hưng Yên, ở Pháp về gặp nhau tại Sài Gòn, sống với nhau được 3 người con mới làm giấy hôn thú, tiếp tục hành trình, có tất cả 9 người con. Tuy nhiên, mối tình của Lê Thương với vũ sư Năm Ngọc ở chợ Vườn Chuối thời Lê Thương làm việc ở trung tâm Học Liệu, tuy kín đáo nhưng bị lọt vào mắt mấy tay cầm bút. Cuộc tình nầy đã gây xôn xao một thời.
Kết
Sau tháng 4-75, Lê Thương kẹt lại ở quê nhà, không còn cơ hội thuận lợi tham gia trong sinh hoạt nghệ thuật. Bước vào đầu thập niên 90 tinh thần và thể xác suy yếu. Cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn, may mắn được sự giúp đỡ của vài nghệ sĩ quý trọng ông. Vào giữa thập niên 90, ông hoàn toàn mất trí. Gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn với con đông, chạy ăn từng bữa khi trụ cột của gia đình mang căn bệnh hiểm nghèo!
Trong khi hàng triệu người ở quê nhà và hải ngoại đón Tết Trung Thu, tác giả Thằng Cuội nhắm mắt lìa đời ngày 17-9-1996, hưởng thọ 83 tuổi tại Sài Gòn. Lê Thương trở về với cát bụi, theo “Gió không có nhà, gió bay muôn phương, biền biệt chẳng ngừng trên trời nước Nam…” .
Hơn nửa thế kỷ đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, Lê Thương sáng tác hàng trăm tác phẩm, nhiều ca khúc khai sinh cho nền âm nhạc Việt Nam tuy đánh dấu cái mốc lớn lao trong lịch sử tân nhạc nhưng thời gian rồi sẽ phôi phai như nhiều ca khúc khác cùng thời của ông.
Lê Thương là người viết nhạc đa dạng, thú vị nhất là nhạc châm biếm và nhạc tuổi thơ. Trước năm 1975, thời học sinh, nhạc tuổi thơ của ông được nhại nhiều nhất nên dễ đi vào tuổi trẻ.
Ngày nào còn nhắc đến hình ảnh Hòn Vọng Phu, không thể nào quên trường ca còn vang vọng, ngày đó tên tuổi Lê Thương vẫn còn bay lượn giữa suối nguồn âm thanh bồng bềnh trong tâm thức.Vương Trùng Dương