User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
toinghtoichetgiuatroithinhkhong
 
I. Nguyễn Đức Sơn - Một Trong Ba Kỳ Nhân Của Văn Chương Miền Nam Trước 75
 
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937-2020), hay còn gọi là Sao Trên Rừng, Sơn Núi, đều chỉ là một người.
 
Trước năm 1975, người hâm mộ cho rằng, ông là một trong ba kỳ nhân của miền Nam, hai người kia là Thế Phong và Phạm Công Thiện. Cũng như, ông là một trong bốn tứ trụ thơ thời ấy, ba người còn lại là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên.
 
Còn tôi, thì từ lúc bắt đầu đọc thơ ông, kết bạn với ông trên trang Facebook, tôi nhận ra ông vừa là bậc kỳ tài về thơ vừa lại có đôi phần kỳ dị trong tính cách.
 
Tính cách ông, từ trẻ, đã như con ngựa chứng. Đến già, ông cũng vẫn thế, bất kham và yêu thích tự do. Ông tự do trong chọn lựa cuộc sống riêng cho mình, tự do khi suy nghĩ, tự do lúc nói năng, vậy mà khi vào thơ, ông lại đa phần, chọn cho mình một thức thơ gò bó, một thể thơ có luật lệ, đó là thơ lục bát.
 
Cũng có thể, do ông là người của cõi thơ, thở ra thơ, nói ra thơ, nên lục bát hay không lục bát, với ông, cũng chẳng vấn đề chi. Ông làm thơ như người ta đứng lên, ngồi xuống, nằm ra, đi tới đi lui, vần với điệu ăn vào máu ông rồi, mắc cái gì phải rị mọ, nghĩ suy nát óc.
 
Phọt, là ra thôi!
 
******
II. Bài Thơ Một Tay Mở Cổng
 
Thơ ông, không có vùng cấm. Nhiều lúc huỵch toẹt, xổ thẳng, không nương, không ngại, nhưng không hiểu sao, khi đọc, tôi không cảm thấy khó chịu. Có lẽ, ông viết tục, nhưng mục đích ông không chăm chăm vào chuyện tục ấy, mà như là, từ đó, ông đưa ra các quan điểm của ông về sự thế, về nhân thế và về cả lẽ huyền vi của đất trời:
 
Một Tay Mở Cổng
 
Nửa đêm sầu ngất đi về
Trăng sao bàng bạc bốn bề rộng rinh
Trên vòm cao sáng u linh
Có ta dư sức thấy mình lớn lao
Đưa tay hạt cát vẫy chào
Đợi nghe sa mạc rào rào vọng âm
Trăm năm bí lối âm thầm
Một tay mở cổng tay cầm con cu.
 
Với Sơn Núi, thì ở trong cái cuộc đời này, nỗi sầu, nỗi cô đơn, nỗi lo sợ, chẳng nỗi nào bằng cái nỗi “bí”.
 
Bí, mà không giải quyết thì trăm năm kia cũng tiêu. Gì thì gì, cũng phải lo cho nó trước cái đã. Thế cho nên, say mấy thì say, âm thầm, ông, một tay mở cổng, tay cầm nó lên.
 
Để trước hết, thông cho nó đã. Nó mà thông, thì vạn sự, tức khắc, sẽ thông thôi mà!
 
******
III. Bài Thơ Cái Mồng Sắp Ló
 
Sơn Núi không làm thơ, vì để “làm” ra một tác phẩm, dù muốn dù không, cũng có chút vất vả, công phu. Với Sơn Núi thì làm thơ là chơi đùa với chữ, là một trong những thú vui của đời ông:
 
Cái Mồng Sắp Ló
 
Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló - (Tịnh Khẩu)
 
Xin đừng vội rí ré, ghê quá, gớm quá. Nếu đọc toàn bài thơ, mà bạn chỉ tập trung, xoay quanh vô mỗi một từ duy nhất đó, thì bạn thấy ghê, thấy gớm là phải rồi.
 
Hãy đọc thơ, bạn ơi. Và cái từ ấy, chỉ đơn giản là gọi tên, gọi tên một bộ thân thể con người như đầu tóc, như chân tay vậy.
 
Chuyện mà Nguyễn Đức Sơn muốn đề cập là cái chuyện muôn năm, chẳng đổi, là cái có có không không, từ bậc chân tu đến kẻ phàm phu, xưa nay, đã chẳng bàn về nó, luận về nó đến phát ớn ra hay sao.
 
Luận mà làm gì nữa về những chuyện đã đương nhiên. Sống với thực tại đi. Sống với cái sướng, cái khổ, cái đau, ngay bây giờ đi. Sống với chính mình trong giây phút này đi, không phải hơn sao.
 
Rất khéo, rất dí dỏm, rất gây cười. Cười vui, ha hả hay hi hi đều được. Ờ, mà các bạn cười gì đó. Cái cười của các bạn chưa chắc đã giống với cái cười của tôi à nha. Là tôi cười cái vần ó. Đang nghiêm túc, không với có, ông quặt sang, ông quẹo sang, bất ngờ, sắp ló. Đương mồn một, công khai, bỗng y hệt kẻ rình mò thứ của quý thường được giấu cất.
 
Nhưng hề chi, thơ, nói cho cùng, là thay lời muốn nói, nên bạn thấy điều gì mà thơ làm cho bạn vui, làm cho bạn xúc động, và bạn thích nó, thì điều mà bạn đang nghĩ, bạn cho rằng, chính là điều đúng rồi, bạn cứ tận hưởng. Tận hưởng sự khoái lạc. Tận hưởng sự đã đời.
 
Chỉ xin bạn nhớ cho, nó đúng là đúng với chỉ chính bạn mà thôi!
 
******
IV. Bài Thơ Ngẫu Cảm
 
Cái tưởng là khác người của ông, thật ra, nằm ở chỗ, ông nhìn đời, nhìn cuộc sống, nhìn thiên nhiên, nhìn con người, khác với những người chung quanh.
 
Nói cho dễ hiểu hơn, cũng là sự vật đó, cũng là sự việc đó, nhưng ông nhìn bằng một góc nhìn khác, thì các nhận định sau đó của ông, đương nhiên là sẽ khác.
 
Độc đáo, thú vị, và lạ:
 
Ngẫu Cảm
 
Có bay cao chín tầng trời
Chỉ nghe thượng đế ngàn đời nín thinh
Có dòm sâu tận cửa mình
Cũng không thấy được cái hình thế gian(Chút Lời Mênh Mông)
 
Nghĩa là, kiếp người của chúng ta, một trăm năm, chớ có đến ngàn năm, triệu năm nữa, thì cũng chẳng bao giờ đâu, nghe được tiếng thượng đế, chẳng bao giờ đâu, thấy được trọn vẹn khuôn hình, hình hài của thế gian.
 
Cái tiếng mà chúng ta không nghe được của thượng đế ấy mà, thì xưa nay, người ta cũng đề cập đến nhiều. Nhưng cái hình của thế gian, thì đúng là lần đầu tiên, tôi nghe nói tới.
 
Tìm tiếng của thượng đế, thì phải bay cao lên chín tầng trời, nó hợp lý, nên bình thường. Nhưng tìm hình thế gian bằng cách dòm sâu vào tận cửa mình, thì Sơn Núi là duy nhất.
 
Nói rằng trong thơ, ông lúc nào cũng hóm hỉnh, tiếu lâm, cợt đùa, thì cũng chẳng sai, nhưng riêng bài này, thì tôi thấy ông có vẻ như ngẫm nghĩ, ngậm ngùi, nhiều hơn. Nó buộc chúng ta bật ra, ờ ha, vậy cái hình thế gian nó như thế nào? Nó có giống khuôn mặt ta không? Chắc là không rồi, vì là của cả thế gian cơ mà.
 
Cái hình thế gian là vẻ tổng hợp của muôn hình vạn trạng: hiền có ác có, đẹp có xấu có, trẻ có già có, thiện lương có lưu manh có, ngây thơ có cáo già có, thật có giả có.
 
Và với tôi, nếu sâu tận cửa mình ấy có gì, thì cũng chỉ một sinh linh chưa tượng hình, nó đang chờ đợi, nó cần hợp nhiều duyên nữa thì mới tạo thành. Nó nhỏ xíu xiu, như hạt bụi, nên không thấy và nó cũng không phải là hình thế gian mà Sơn Núi đi tìm!
 
******
V. Bài Thơ Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Bờ Biển
 
Ông đơn giản. Đơn giản không chỉ trong việc chọn lựa cho mình một cách sống, một lối sống, mà ông còn đơn giản ngay trong lối nghĩ của mình, không to tát, không quan trọng hóa vấn đề, không gọi tên những sự việc bình thường bằng những từ ngữ lớn lao, huyền bí, không giả danh trí thức, lại càng không ra vẻ cao đạo, lên giọng dạy chúng sinh:
 
Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Bờ Biển
 
Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
 
Sướng nên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru - (Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Bờ Biển)
 
Chỉ cần thêm vào vài từ mang âm hưởng thiền nữa thôi, thì bài thơ sẽ giống như của một bậc cao nhân hay hiền triết viết ra.
 
Trong thơ, ông Sơn Núi ổng “thở cái phào”. Tiếng thở này nghe như trút bỏ, trút chớ không phải buông, mệt quá thì phải trút thôi, không trút, ôm mãi cái mệt, chết sao.
 
Ráp vô vần ào, là “trào”, thiệt là duyên, thiệt là đúng. Đọc lên, nghe thiệt đã, sạch bách, nhẹ tênh: Đầu tiên tôi thở cái phào / Bao nhiêu phiền não như trào ra theo.
 
Rồi “thở cái phèo” và “mộng ảo bay vèo”, cũng thế, sướng gì đâu. Hỏi có chất thiền không? Sao không. Hỏi có triết lý ở trỏng không? Có chớ.
 
Đó chính là triết, đó chính là thiền, chớ còn gì nữa. Cao xa mà chi, bắt mệt. Cứ sống một đời sống bình thường, chẳng cần vẽ vời gì, cũng đã đầy chất thiền, chất triết ở trỏng. Tìm nơi đâu nữa?
 
“Sướng thở phập phồng” thì đi với “trời hồng muôn năm”, cái này sinh thì cái kia sinh. Khi sướng thì nhìn thấy trời màu hồng, không phải sao. Cái sướng ấy của loài người, tiếp nối, cái màu trời ấy của tự nhiên, bất diệt, muôn năm.
 
Còn “chỗ tôi nằm mai sau” thì “lạnh lẽo âm thầm biển”, là phải rồi.
 
Người đã về với cát bụi, có muốn ôm ấp, thờ phượng thêm bao năm nữa, thì rồi cũng phải đến lúc ra biển hết thôi. Cùng lắm, sau trận can qua, hạt bụi may ra bám được vào hang hốc, khe ghềnh nào đó, nhưng cũng rất lạnh lẽo và cô đơn.
 
Sai chạy đi đâu được nữa!
 
******
VI. Bài Thơ Mang Mang
 
Từ thuở sinh viên, Nguyễn Đức Sơn đã kỳ quặc, lập dị với những tuyên bố rất không giống ai của mình.
 
Ông, từ vóc dáng, khuôn mặt đến lời thơ, đều có vẻ gì đó rất hài hài, buồn cười. Hài vậy đó, nhưng không ai dám coi thường, hay có thái độ hỗn hào. La hét, ngông nghênh vậy thôi chớ các bằng hữu, bạn thơ, lúc nào cũng quý và thương ông.
 
Thơ ông cũng thế, không phải lúc nào cũng tục, cũng bông đùa, cũng cười cợt, hay hằn học, tức tối, muộn phiền. Những bài thơ viết về cha, về mẹ, về vợ, về con, về bạn, của ông, dạt dào và thiết tha tình cảm. Đó là những câu thơ rất đẹp và rất đỗi dịu dàng:
 
Mang Mang
 
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
 
Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
 
Mù sương âm vọng tiếng huyền
Có con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không - (Mang Mang)
 
Những ý tưởng tuyệt hay, tất sẽ sản sinh ra những từ ngữ tuyệt hay, tương ứng. Chim ăn trái xong, nhả hột, tiếng rụng của hột, nghe, đều như tiếng kinh.
 
Còn liên tưởng nào có thể hay hơn được nữa không? Tôi thì cho rằng, thế là hết nấc rồi. Thế là đã tận cùng của cái hay rồi. Tiếng kinh đều, càng tô đậm thêm vẻ tịch liêu, càng nghe lòng “mang mang” hơn - lưu ý, “mang mang”, chớ không phải mênh mang - trong rừng im, suối vắng.
 
Cùng là từ láy, nhưng nghĩa của “mang mang” không chỉ lớn rộng, bao la như từ mênh mang, mà còn như thêm vào cái trạng thái lững lờ, trôi trôi, bất định, trong cái cõi vừa thực lại vừa rất huyền ảo của trời đất lúc chiều về, tà dương bóng xế.
 
Thơ cứ thế, lên xuống nhịp nhàng, khéo léo, tài tình mà vẫn rất tự nhiên. Sau khi tai đã nghe đủ tất cả các âm thanh, tiếng kinh, tiếng sương mù, tiếng dơi vỗ cánh bay lên; sau khi mắt đã đã ngợp với tất cả các hình ảnh mang mang trên lối đi về, thì - tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không.
 
Đi hay về, cũng một cảm giác như nhau. Một cảm giác không nhìn thấy được, một cảm giác không cầm nắm được, nhưng lại nghe ra được.
 
Nghe ra được: tôi chết giữa trời thinh không!
 
******
VII. Bài Thơ Hẳn Nhiên
 
Có một cô phóng viên nọ, tìm lên đồi thông Phương Bối để thăm Nguyễn Đức Sơn. Lúc chuyện trò, cổ hỏi, vậy chớ, ông nể ai, ông thích ai nhứt. Ổng lắc đầu nguầy nguậy, ai ổng cũng chê.
 
Rồi ổng im. Ổng ngẫm nghĩ. Hồi sau, ổng nói, thằng cha Thích Ca, chả hay chớ, quá xuất chúng.
 
Bởi mới nói Sơn Núi cuồng ngông. Bởi mới nói Sơn Núi lạ lùng, chẳng giống ai mà cũng chẳng ai giống ổng. Cá biệt. Duy nhứt. Có một không hai:
 
Hẳn Nhiên
 
Có cơm không pháp
Lầm rầm cũng táp
Có pháp không cơm
Trước sau cũng ngáp
Nhưng trần gian thúi thúi thơm thơm
Có chỗ nào có cơm không pháp
Có chỗ nào có pháp không cơm
 
Tán hươu tán vượn dị òm! - (08.03.1972)
 
Ai dị òm thì chắc các bạn cũng đoán ra rồi. Đó là những người tán hươu tán vượn chớ còn ai vào đây nữa. Thói đời, biết một, thì lại thích nói mười, còn những người biết trăm, biết ngàn, thì có cạy miệng, họ vẫn cứ im im.
 
Thanh cao và ô uế, chân tu và giả tu, sự thật và dối trá luôn tồn tại, đồng hành trong trời đất này. Chẳng ai nhịn đói mà giảng pháp được. Chùa nào cũng cần tiền. Sư nào cũng cần ăn. Thúi thúi và thơm thơm. Thức đưa lên cúng thì thơm, chớ vào trong bụng rồi, qua một ngày, đương nhiên phải thúi.
 
No bụng thì nói pháp mới thông, nên - có chỗ nào có cơm không pháp.
 
Nói pháp khô cổ rồi, đói bụng, thì cần phải ăn cơm, nên - có chỗ nào có pháp không cơm.
 
Hẳn nhiên.
 
Tán hươu tán vượn mà chi? Dị òm!
 
******
VIII. Mối Giao Tình Của Sơn Thơ Và Sơn Nhạc
 
Nơi cái vùng đồi tan hoang mà Nguyễn Đức Sơn đã dắt díu vợ con về ở suốt nửa thế kỷ, trước kia, là thiền thất tu tập của thầy Nhất Hạnh. Năm 1979, thiền thất bị sập, chỉ còn bốn vách tường trơ. Sau này, nền đất cũ ấy, trở thành nhà của gia đình Sao Trên Rừng. Cũng nghe kể lại rằng, năm 1982, vợ Sơn Núi bệnh thập tử nhất sinh, Trịnh Công Sơn đã ghé bệnh viện Bảo Lộc và gởi một số tiền rất lớn. Nhờ số tiền đó mà sinh mệnh của bà Phượng đã được giằng lại từ tay của tử thần.
 
Những câu chuyện xưa; tình cảm của những người làm văn nghệ xưa; nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ xưa - lúc nào cũng đẹp, lúc nào cũng đem lại cho người nghe kể, nhiều xúc động.
 
******
IX. Bài Thơ Bọt Nước
 
Thơ Nguyễn Đức Sơn hay. Hay một cách tự nhiên, bẩm sinh, như thơ của Bùi Giáng. Ông không chăm chăm vào kỹ thuật nhưng cũng không cẩu thả. Tài tình một cách tự nhiên, thơ ông, nối tiếp nhau, như nước chảy, như mây trôi. Ý thơ không quá cao siêu nhưng cũng không có những câu tầm thường, vô nghĩa, nhạt nhẽo. Dòng thơ uyển chuyển, mềm mại mà đọc tới đâu, đau tới đó. Câu thơ hiền hòa, nhẹ nhõm mà để lại bao bứt rứt, suy tư:
 
Bọt Nước
 
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Nhìn trước nhìn sau thấy rõ ràng
Những người đi trước sầu đeo nặng
Những người đi sau sầu không tan
 
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Thấy hay hay nhưng làm sao cười
Như chuyện lớn lên rồi có vợ
Cuối đời về đất lạnh nằm xuôi
 
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Thấy vắng tan hoang ngụt đất trời
Cha mẹ anh em còn đông đủ
Mình tôi sao mối sầu không nguôi
 
Ngập ngừng chân bước con đường vắng
Mây trắng bay lên òa đất trời
Tôi cúi đầu nghe mình nhỏ lệ
Biết chuyện gì rồi cũng buồn thôi
 
Rộng biển trời ơi cái chán chường
Nhạt phèo cả những mối sầu vương
Ôi từng đêm thức nghe xa vắng
Về ngập trong hồn tự bốn phương
 
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Đôi lúc còn mơ chuyện trên trời
Đôi lúc còn buồn chuyện xa xôi
Khi biết trước sẽ lui về hủy diệt
 
Vẫn biết thương nếu cha mẹ chết
Vẫn thấy sầu khi nhớ người yêu
Nhưng tình tôi thì vẫn không đều
Biết sao được hỡi người tôi mến
 
Vâng tình tôi thì cũng không nhiều
Coi tất cả chỉ là bọt nước
Vâng tất cả chỉ là bọt nước.
 
******
 
X. Mà Thôi Không Thể Nói Thêm Nữa Rồi
 
Võ Phiến, khi viết về Nguyễn Đức Sơn, có cảm thán, làm thơ là chuyện muôn vàn khổ đau, khen thơ, nếu có tự chuốc lấy ít nhiều nguy hiểm, đã sao!
 
Nghĩa là, ông Võ Phiến ổng cũng có hơi chút băn khoăn khi khen thơ của Nguyễn Đức Sơn, thơ của một kẻ coi trời bằng vung, vừa dâm lại vừa tục.
 
Ông Võ Phiến, ổng to thế, bự thế, có vị trí trên văn đàn thế, mà cũng còn bày tỏ sự e ngại khi quyết định dấn thân và bất chấp, để vì thơ, vì người thơ.
 
Mới nói, văn thơ là lĩnh vực thiêng liêng, đồng thời, nó cũng là lĩnh vực nhiều thị phi nhứt.
 
Nhưng nếu như ông Võ Phiến còn sống, thì tôi sẽ nói với ông rằng, lo chi chuyện xa xôi ấy, hãy nghe một bậc chân tu - ngài Tuệ Sỹ - nói về Nguyễn Đức Sơn. Hẳn, Võ Phiến sẽ rất vui mà thấy rằng, chẳng gì phải gọi là tự chuốc, chẳng gì phải gọi là nguy hiểm như ông đã mường tượng đâu:
 
“Khi người ấy làm thơ, thì khi ấy, con người thơ, và cõi mộng của thơ, là ẩn ngữ huyền nhiệm. Tôi biết, và cũng có thể chỉ là biết một cách tưởng tượng, rất nhiều người, những người làm thơ, đọc thơ, và cả những người nguyền rủa thơ; có rất nhiều người nhìn anh với cái nhìn ngạc nhiên, tò mò, như đang nhìn một vật thể rất lạ, rất quái lạ. Tôi nhìn anh, cũng thấy rất lạ. Nhưng không lạ hơn khi tôi nhìn chính khuôn mặt mình. Cho nên, tôi thấy mình quen biết anh nhiều hơn là quen biết chính mình. Người ta hỏi tôi, Sơn là ai? Làm sao tôi trả lời được. Tôi vẫn chưa biết mình là ai.”
 
Tuyệt siêu. Siêu tư tưởng. Vô cùng giản đơn mà đất trời lộng gió. Một câu trả lời cho mọi câu hỏi. Một câu trả lời cho mọi hoài nghi.
 
Với hàng ngàn bài thơ để lại, mà bài nào cũng hay, thì việc chọn ra những bài hay nhứt là việc không thể. Thế nên, những bài thơ tôi đưa lên hôm nay, chỉ là ngẫu nhiên, nhớ đến đâu thì ghi ra đến đấy:
 
Thật ra trên trái đất này
Trời sinh đâu chỉ có ngày có đêm
Có luôn cái cứng cái mềm
Mà thôi không thể nói thêm nữa rồi! - (Không Thể Nói Thêm - 01/03/1972)
 
Sài Gòn 21.05.2025
Phạm Hiền Mây
Nguồn: Fb Phạm Hiền Mây