Đây là đề tài rất rộng, vì hầu hết đối tượng của ca dao đều có liên quan đến tình tự con người rất sống động. Cảnh trong ca dao không phải những tấm ảnh chụp có tính cách khách quan lạnh lùng, mà là những bức tranh vẽ có tính cách nghệ thuật sáng tạo mang tình tự, cảm nghĩ của con người. Sau đây là một số ca dao có tính cách như thế, giới thiệu sơ khởi vài nét về con người của vài miền quê hương:
“Đất Đại Từ hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát trong xanh
Dòng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.”
“Làng Bút Trận có làm mía mưng
Có o con gái tiếng lừng gần xa
Khéo tay thu vén việc nhà
Giọng nói ngọt xớt như là mía mưng.”
“Đất Thừa Thiên trai hiền gái đẹp
Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng
Tháp bảy tầng, Thánh miếu, chùa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa."
“Trà My sông núi đượm tình
Nơi đây là chỗ Thượng Kinh chan hòa.”
Đó là miền đất hòa hợp giữa người Kinh và người Thượng thiểu số.
“Hội An đất hẹp người đông
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu.”
Hội An hình thành từ thế kỷ XV, còn có tên là Faifo, nơi gặp gỡ buôn bán quốc tế từ Âu sang Á, dân chúng đã quen tiếp xúc với nhều sắc dân, tính tình rất thuần hậu. “
Bến Tre trai lịch gái xinh
Nói năng duyên dáng, ai nhìn cũng ưa.”
“Ai về Kẻ Mễ mà coi
Con gái cũng giỏi múa roi đánh quyền.”
Đàn bà cũng biết múa roi đi quyền.
“Ngó lên hòn Tháp Cánh Tiên
Cảm thương ông Hậu thủ thành ba năm.”
Đó là gương những bậc trung quân, ái quốc quyết giữ thành trì của tổ quốc đến cùng. Các công thần Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đều tuẫn tiết.
“Em là con gái Giồng Trôm
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Yêu em anh phải nhớ ghi
Đánh Tây giữ đất mới bì trượng phu.”
Những chương trước cho thấy đặc tính của ca dao rất hàm xúc, với những câu ngắn gọn mà đã nói lên được nguyên ngôn, nguyên lý căn cơ, huyền số và chương Tìm về mái nhà mở ra con đường tìm về suối nguồn tâm linh, là quê hương của tính thể con người.
Bây giờ thử đi sâu vào cuộc sống hiện thực của con người để xem ở đó có phản ảnh được ý nghĩa của triết lý nhân sinh hay không?
Tính cách triết lý lưỡng hợp của quê hương
Do tinh thần của triết lý lưỡng hợp thái hòa với huyền số 2 đã ăn sâu vào tiềm thức cộng thông của quần chúng bình dân, ngôn ngữ Việt Nam thường có những chữ kép. Những tên gọi các đối tượng của quê hương do đó cũng không ra ngoài cái lẽ đó.
Trời đất:
Trời đất là phạm trù vừa chỉ thế giới hiện tượng, vừa chỉ thế lực quyền năng chi phối cuộc nhân sinh. Trời đất là biểu hiện cụ thể cho nguyên lý âm dương:
“Ruộng nương là cái đồng lần
Trời đất xoay vần kẻ trước người sau.”
“Em than một tiếng trời đất xoay vần
Chim trên trời còn rơi rụng
Anh là người trần, sao anh lại không thương.”
“Thuyền ai trôi trước
Cho tôi lướt tới cùng
Chiều đã về trời đất mung lung
Phải duyên thì xích lại cho đỡ não nùng tuyết sương.”
“Hóa sinh chi kiếp con người
Cho đeo đẳng nợ, cho trời đất ghen.”
“Cớ sao thấy mặt thì thương
Hay chăng trời đất vấn vương cho mình.”
“Hai tay ôm bản đàn kìm
Nguyện cùng trời đất kết nguyền với nhau.”
“Bước ra cửa ngõ thấy vợ lớn đánh vợ nhỏ
Xuất giá tòng phu, nhất phu mà lưỡng phụ ở đời được đâu."
Nhất phu mà lưỡng phụ là trái với nguyên lý âm dương rồi thì làm sao êm ấm cho được. Mặc dầu trời đất là thế lực siêu nhiên có tác động đến duyên phận, nhưng sự chung thủy của đôi tình nhân cũng rất quan trọng:
“Ví dầu trời đất phân chia
Đôi ta như khóa với chìa đừng rơi.”
Đó là vai trò của con người trong hệ thống tam tài, sao cho nguyên lý âm dương, trời đất được hài hòa. Con người phải nghiền ngẫm thấu đạt cái cơ của trời đất để lo liệu cho cuộc nhân sinh từ việc làm ăn cho đến tình duyên lứa đôi, nói chung là mưu cầu hạnh phúc:
“Hễ mà hoa quả được mùa
Chắc là nước bể nước mưa đầy trời
Ai ơi nên nhớ lấy lời
Trông cơ trời đất liệu thời làm ăn.”
“Lên non trồng tỏi
Xuống đất sỏi trồng hành
Vái Trời cho tỏi tốt, hành xanh
Chàng mua thiếp bán kết thành nợ duyên.”
Trong thế giới ca dao, tâm tư của con người luôn lan tỏa trong mọi cảnh vật, đối tượng dưới nhiều hình thức khác nhau. Với cặp phạm trù trời đất, con người là trung gian, là nhịp cầu nối kết, thúc đẩy nguyên lý âm dương sáng tạo. Các thi sĩ bình dân phối hợp hài hòa cả tình lẫn lý trong cuộc nhân sinh sao cho hợp lẽ Đạo. Mặc dầu với khuynh hướng trữ tình lãng mạn, nhưng ca dao cũng cho thấy giới trẻ bình dân cố gắng tìm hiểu về trời đất, đưa ra định nghĩa, thắc mắc, liên hệ với từng hoàn cảnh, từng cảm xúc, từng suy tư:
“Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng
Chữ địa là đất, đất rộng thênh thênh
Nói ra sợ bạn buồn tình
Đêm nằm lụy (lệ) nhỏ như bình nước nghiêng.”
Bình nước nghiêng là hình ảnh của sự mất quân bình, mất quân bình giữa trời đất, âm- dương, mà nguyên lý ấy thực ra ở ngay trong tâm của con người.
“Trời cao, đất rộng“: Cái nguyên lý trời- đất, âm- dương rất là mênh mông, là nguyên nhân của mọi tạo tác, sinh thành mà trong đó đối tượng cao quý hơn cả là con người. Người bình dân quý trọng sự sinh thành, mà đấng sinh thành gần gũi nhất là cha mẹ, cho nên mới có Đạo hiếu, Đạo ông bà, tổ tiên:
“Trời cao lồng lộng
Đất rộng thênh thênh
Đi ra bỏ mẹ sao đành
Công ơn cha mẹ sinh thành ra con.”
Công ơn cha mẹ lớn ví như trời cao, đất rộng, bể sâu mà kỳ thực chính cha mẹ cũng thể theo cái nguyên lý âm –dương, trời- đất tạo tác sinh thành:
“Ba năm bú mớm con thơ
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào
Dạy rằng chín chữ cù lao
Bể sâu không ví, trời cao không bì.”
Do cái ý thức vừa rộng của chiều ngang như đất rộng, vừa sâu sắc theo chiều dọc như trời cao, bể sâu, thì tình yêu lứa đôi không chỉ đơn thuần trong ý nghĩa vật chất, mà còn bao hàm ý nghĩa tinh thần, tâm linh. Cho nên tình yêu đích thực phải là tình nghĩa thì mới bền vững:
“Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Phận em là gái má hồng
Biết ai người nghĩa sẵn lòng trao thân.”
Có hướng theo chiều dọc triệt để thì mới có thể tận kỳ tính để đạt tính thể con người, tức là đạt nhân. Muốn được như thế, môi trường sống (chiều ngang) phải được chăm sóc tốt lành, do nguyên lý ở bầu tròn, ở ống dài, không ai nỡ phá hại môi sinh một cách vô ý thức:
“Đất lành chim đậu cũng lành
Người nhân ai nỡ bẻ cành tỉa cây.”
Đã là người nghĩa, người nhân thì người ta sẵn sàng chia sẻ trách nhiệm cũng như đem lại hạnh phúc cho người mình yêu dấu trong mọi hoàn cảnh:
“Ngó lên trời, trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông
Phải chi tôi hóa đặng hai mình
Tôi vô mần thế, để bạn mình nghỉ ngơi.”
Nguyên lý âm – dương tạo tác sinh thành cũng tương tự như các qui luật khác trong thế giới tự nhiên, nhưng người bình dân từ thời xa xưa đã quen qui về quyền năng và ý chí của ông Trời:
“Thương chàng từng lóng ngón tay
Chẳng qua duyên nợ, ông Trời biểu thương.”
Ý trời là như vậy, cho nên đừng vì lý do nào mà để lỡ mối tơ duyên:
“Nước trong khe chảy xuôi về vịnh
Trời cao đã định nước chảy vòng cung
Nào ai thương khó với cùng
Thuyền quyên lỡ lứa, anh hùng lỡ đôi.”
Những người quá tin tưởng vào việc Trời cao đã định, duyên tiền định, cho nên mới có thái độ cầu khẩn, van vái:
“Vái Trời xui khiến nợ duyên
Hai đứa tôi vầy hiệp, cám ơn ông Trời già.”
Có người nôn nóng, mong muốn được gặp ông Trời để hỏi cho rõ mối tơ duyên của mình:
“Phải chi lên đặng ông Trời
Hỏi xem duyên nợ đổi dời về đâu?”
Người ta tưởng ông Trời là nhân vật quyền năng có thực ở bên ngoài cái tâm của con người, nên cứ muốn hỏi:
“Lên Sài Gòn phải qua cầu Mỹ Thuận
Có thương không sao em lựng khựng không chịu trả lời
Năm đợi năm, tháng đợi tháng, anh hỏi ông Trời ổng làm thinh.”
Ở sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói (đáp câu hỏi của Tử Cống):
“Trời có nói chăng? Thế mà bốn mùa cứ xoay dần mãi; trăm vật trong vũ trụ cứ sanh hóa mãi. Mà trời có nói gì chăng?” (Thiên hà ngôn tai? Tứ thì hành yên; bá vật sanh yên. Thiên hà ngôn tai?) (Luận Ngữ trong Tứ Thư, bản dịch của Đoàn Trung Còn, trang 279).
Thái độ làm thinh của ông Trời có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo tâm thức của con người. Có người phiền trách ông Trời ăn ở bất công:
“Trách Trời sao lại bất công
Kẻ đôi ba vợ, người phòng không suốt đời
Bắc thang lên hỏi ông Trời
Công bằng không thấy, thấy đời bất công.”
Những phạm trù công bằng, bất công nói lên cái nguyên lý quân bình và không quân bình trong triết lý thái hòa thể hiện ra trong đời sống xã hội, chính trị. Phiền trách cũng chưa đủ, có ngưới còn lớn tiếng kêu gào:
“Ai xui đất thấp trời cao
Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi.”
“Thấp cổ bé miệng, kêu không thấu trời."
Kêu gào mãi rồi hết kiên nhẫn, trở nên gay gắt:
“Trăm lạy ông Trời chớ điếc đừng đui
Để hai con mắt coi người thế gian.”
Thấy vậy, có người không khỏi bật lên tiếng cười:
“Cuộc đời gẫm lại nực cười
Chỉ một ông Trời có mấy người than.”
Ngược lại cũng có người đưa phản biện:“Ai bảo Trời không có mắt”, rồi khẳng định rằng: “Trời cao có mắt“. Rồi cũng có những phê phán:
“Làm chẳng nên lại trách trời cao
Đã vụng múa lại chê đất lệch.”
Đến đây, có người con gái thường sinh hoạt trong các buổi hát hò, đối đáp ở nông thôn vào cuộc, hỏi người con trai:
“Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời
Tạo thiên lập địa, ông Trời ai sinh?“
Hỏi là khơi mào cho câu trả lời tương xứng rồi, bởi vì trai gái trong các sinh hoạt như vậy thường ăn ý với nhau. Lại cũng có người đã thấy được vai trò tích cực của con người có thể nâng cao tầm nhìn, khai thông mọi bế tắc trong nhận thức:
“Phát gai thấy muốn thông đường cả
Vén gút mây thấy quả trời cao.”
Cho dầu có những cái nhìn khác nhau, nhưng đã lến lúc con người nhận ra vai trò của ý chí con người trong sự nên- hư, thành- bại:
“Anh đi lên Bảy Núi
Anh chạy thẳng tới Tà Lơn
Căn nợ keo sơn thấu đến ông Trời
Trời cao đất thấp
Anh đến tam cấp lập cửu trùng đài
Thời hư khiến vậy, lập hoài chũng nên.”
“Trời cao đất rộng thênh thênh
Công danh phú quý còn dành cho ta
Có công mài sắt, diệt tà
Gặp thời lộc sẽ vào ra dồi dào
Công của cũng chẳng là bao
Ra tay tháo vát thế nào cũng nên.”
Bài ca dao sau đây nói lên cái ngông của con người với mục đích không chỉ để đả phá óc mê tín, mà còn cho thấy cái vai trò quan trọng, cao quý của con người trong hệ thống tam tài:
“Bắc thang lên đến tận Trời
Bắt ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay
Đánh rồi lại trói vào cây
Hỏi ông Nguyệt Lão đâu dây tơ hồng?“
Lại còn có những câu tục ngữ nói lên cao vọng của con người như: “Vá trời lấp biển.” “Đội đá vá trời.” “Luyện đá vá trời." (Truyện Bà Nữ Oa luyện đá Ngũ Hành để vá trời) Những ước vọng đó chỉ là huyền thoại như cá hóa rồng, như thuyết địa linh nhân kiệt, nhưng đã trở thành hiện thực của dân tôc trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm để cứu dân, giữ nước:
“Hàm Hô có cá hóa rồng
Bâng khuâng nhớ đến anh hùng họ Mai
Vá trời lấp biển có ai
Ngổn ngang đá chất lớp ngoài lớp trong.”
(Hàm Hô ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng lâp chiến khu chống Pháp năm 1885 ở đây.)
Đất nước:
Phạm trù đất nước cũng là cặp lưỡng hợp gồm hai thành tố đất và nước hợp lại. Đất nước là toàn thể đất đai, lãnh thổ thuộc về một hay nhiều dân tộc cùng sống trên đó:
“Cầu cho đất nước hòa bình
Phụ mẫu nhà trường thọ,
hai đứa mình kết duyên.”
“Em về thưa mẹ cùng cha
Anh vào quân đội mai ra chiến trường
Anh đi bảo vệ biên cương
Mai ngày đất nước huy hoàng có nhau.”
Người ta có thể gọi vắn tắt là nước thay vì đất nước ví dụ như nước Việt Nam. Sự ngắn gọn này đã vô tình đã làm mất đi tính lưỡng hợp ban đầu:
“Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua
Bao giờ cho nước có vua
Cho dân có gạo cho chùa có sư.”
Nước mà không có vua đúng nghĩa vị minh quân, chùa mà không có sư đúng nghĩa bậc chân tu thì không còn kỷ cương, luân thường, đạo đức: nước loạn. Nơi đây không phải là vùng đất lành, mà bao trùm nỗi lo sợ:
“Đến đây đất nước lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo.”
Nước mất thì nhà tan, dân tộc nô lệ, giống nòi lắm nỗi xót xa:
“Em nhìn xuống Đông
Ròng ròng nước mắt
Em trông ra Bắc
Nước mắt đòi cơn
Ông cha mình gây dựng giang sơn
Biết bao nhiêu xương
Biết bao nhiêu máu
Bao nhiêu tủi, bao nhiêu hờn mới nên?
Ơn nghĩa chất chồng
Con cháu sao nỡ đành quên
Để cho quân Hồ lỗ
Đặt nền đô hộ lên đất nước nhà
Giống nòi lắm nỗi xót xa
Tính năm nô lệ nay đà tám mươi.”
Cũng may khí thiêng đất nước vẫn còn, nên còn có những vị anh hùng đứng ra cứu lấy giống nòi:
“Ngó lên Linh Đỗng mây mờ
Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây
Sông Côn khi cạn khi đầy
Khí thiêng đất nước nơi nầy còn ghi.”
Muốn biết đất nước thịnh hay suy người ta có thể quan sát ngay từ đơn vị nhỏ là gia đình tức là nhà. Nếu thế hệ sau mà hơn thế hệ trước thì đó là dấu hiệu thăng tiến của đất nước, dân tộc yên vui:
“Con hơn cha là nhà có phúc
Trò hơn thầy là đất nước yên vui.”
Ở đây có sự liện hệ giữa đất nước và nhà, cho nên lại có phạm trù nước nhà hay quốc gia.
Nước nhà, quốc gia:
Trong chữ kép nước nhà hay quốc gia (Hán Việt), chữ nước không còn mang ý nghĩa là nước như một chất lỏng đối với đất nữa, mà có nghĩa là quốc. Nước đi liền với nhà. Xem thế đủ thấy rằng, theo tinh thần văn hóa truyền thống thì địa vị cái nhà, tức gia đình đã bao đời là nền tảng của quốc gia. Chính gia đình đã từng cống hiến cho tổ quốc những người con ưu tú. Sau đây là một số ca dao, tục ngữ được chọn lọc từ kho tàng văn học bình dân:
“Một lời hưng thịnh quốc gia
Một lời nói quấy nước nhà suy vong.”
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.”
“Lịch triều có sắc truy phong
Tiếng tăm lừng lẫy khắp trong nước nhà...”
“Trông cho rau muống mau xanh
Để em cắt nấu bát canh mặn mà
Mát lòng sau bữa rau cà
Con ơi mau lớn nước nhà cậy trông.”
“Đã là cây bách cây tùng
Nắng mưa đâu quản, bão giông đâu sờn
Đã rằng vì nước vì non
Nước nhà còn giặc, ta còn ra đi.”
“Làm trai cho đáng nên trai
Thanh gươm yên ngựa, dặm dài lướt xông
Vẫy vùng Nam, Bắc, Tây, Đông
Lấy thân che chở non sông nước nhà.”
Ngoài ra còn có những chữ kép khác nữa cũng liên quan quê hương, đất nước như lãnh thổ của cộng đồng dân tộc, nhưng cũng vừa bao hàm ý nghĩa tâm tình gắn bó theo nguyên lý âm dương như giang sơn (giang san), sơn hà, non sông, nước non...
Giang san:
“Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng vườn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm màu giang san.”
"Đứng ở Hòn Chồng trông sang Hòn Yến
Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
Giang sơn cẩm tú chập chùng
Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng.”
“Tấc đất tấc vàng
Một góc giang san
Một dòng máu đỏ
Quyết tâm không bỏ
Một mảnh đất hoang
Trồng bắp trồng lang
Tăng nguồn lương thực.”
Sơn hà:
“Phấn son tô điểm sơn hà
Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam."
“Ai đi cách trở sơn hà
Bậu coi cửa nhà, kính mẹ, dạy con.”
“Đường xa muôn dặm sơn hà
Thân em trôi nổi biết là về đâu
Nao nao mặt nước gợn sầu
Gẫm câu nhân thế ruột đau như dần.”
Non sông:
“Ai đi gánh vác non sông
Để ai chứa chất sầu đông vơi đầy.”
“Cá vàng lội vũng nước trong
Đẹp duyên chồng vợ non sông vững bền.”
“Mênh mông một nước một chèo
Non sông gánh nặng vẫn đeo bên mình.”
Non nước:
“Chè non nước chát xin mời
Nước non, non nước nghĩa người chớ quên.”
“Nước non, non nước khơi chùng
Ái ân đôi chữ xin đừng xa nhau.”
“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên Tháp Bút chưa mòn
Hỡi ai xây dựng nên non nước này.”
“Đò từ Đông Ba đò qua Đập Đá
Đò từ Vỹ Dạ thẳng ngã Ba Sinh
Lờ đờ bóng ngã trăng chênh
Tiếng hò xa vọng nặng tìnhnước non.”
“Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non cao biển rộng người thương đi về
Yến sào mang đậm tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.”
“Vọng Phu thuộc dãy núi Bà
Phước Sơn chất ngất gọi là núi Ông
Phải chi đây đó vợ chồng
Gánh tương tư khỏi nặng lòng nước non.”
Núi Vọng Phu với núi Bà, núi Ông là hình thức nhân cách hóa, huyền thoại hóa mối tình chung thủy vợ chồng. Hình ảnh núi Vọng Phu là đề tài gây nhiều cảm hứng cho các nhà thi sĩ bình dân, cho nên đã xuất hiện nhiều câu ca dao mang cùng chủ đề này và có nhiều nơi như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa đều có núi mang tên Vọng Phu:
“Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao xanh.”
“Vọng Phu cảnh đẹp núi Nhồi
Có người chinh phụ phương trời đăm đăm.”
“Hết hè rồi lại sang thu
Khác nào như đá Vọng Phu đợi chồng.”
Núi Tản Viên là núi cao nhất ở miền Bắc
“Nhất cao là núi Tản Viên
Nhất sâu là Vũng Thủy Tiên cửa Vừng.”
Câu chuyện huyền thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể rằng hai thần núi và biển hận thù nhau vì tranh cưới một nàng công chúa ở triều đại Hùng Vương cuối cùng, đánh nhau, gây bão tố, nước dâng khiến dân chúng khổ sở. Về sau và cho mãi đến ngày nay, hàng năm đều có bão lụt tàn phá vào ngày Hăm Ba Tháng Mười:
“Ông tha mà bà chẳng tha
Đánh nhau một trận Hăm Ba Tháng Mười.”
Núi Nhân ở làng Đùng, Liêm Sơn, cái tên cũng được nhân cách hóa. Tính nhân bản ở đây không dừng lại ở bình diện xã hội, mà vươn đến nhân bản tâm linh, mở rộng tâm thức hướng về cõi Tiên, cõi Phật:
“Ai nặn nên cái núi Nhân
Trông xa như Phật, trông gần như Tiên.”
Núi là khối đất đá rắn chắc nhô khỏi mặt đất hướng thẳng lên trời cao như để nối liền trời- đất, cho nên linh thiêng như cái tên Vệ Linh:
“Tiếc thay con chim phượng hoàng còn dại chưa khôn
Núi Vệ Linh chẳng đậu, lại đậu ngàn cỏ may.”
Ở những vùng nhiều núi hiểm trở thường có đèo là chỗ thấp hơn núi để nối giao thông qua các đỉnh núi. Đèo thì thường quanh co:
“Anh từ trong Quảng ra thi
Leo lên đèo Ải chữ chi mập mờ.”
Đèo Ải là đèo Hải Vân giữa Huế và Quảng Nam uốn khúc như hình chữ chi. Đèo này thì hiu quạnh:
“Chiều chiều mây phủ Ải Vân
Chim kêu Bàn Thạch muôn phần héo hon.”
Do địa thế hiểm trở nên đèo trở thành điểm chiến lược lợi hại, là mồ chôn giặc cướp nước:
“Hải Vân cao ngất từng mây
Giặc đi đến đó bỏ thây không về.”
(Trích trong Ca Dao - Con Đường Văn Hóa Việt của Nguyễn Văn Nhiệm – (Còn tiếp)
Nguyễn Văn Nhiệm