Lời Giới Thiệu:
Wendy Nicole NN Duong (Dương Như Nguyện) sinh ở Hội An, Việt Nam, đến Hoa Kỳ năm 1975 khi cô khoảng 16 tuổi, một tháng sau khi cô nhận giải Danh Dự Văn Chương Phụ Nữ Toàn Quốc Lễ Hai Bà Trưng cuả Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1992, cô trở thành Luật Sư đầu tiên gốc Việt được bổ nhiệm vào ghế quan tòa tại thành phố Houston, được Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ vinh danh là một trong những phụ nữ da màu tiên phong cuả ngành Tư Pháp Mỹ. Cô từ bỏ vị trí ứng viên chung kết đại diện các bang vùng Tây Nam tranh học bổng Tòa Bạch Ốc (White House Fellowship) năm 1991, từ chức Thẩm Phán Texas để làm việc ở Châu Á và Châu Âu (Who’s Who in the World 1996), đồng thời cô theo đuổi nghệ thuật trình diễn và viết văn ngoài việc hành nghề Luật Sư Thương Mại Quốc Tế. Năm 2000, cô chọn nghề dạy Luật toàn thời gian, cống hiến gần 12 năm đời sống vào địa hạt giáo dục. Năm 2011, bộ ba tiểu thuyết cuả cô về lịch sử người tỵ nạn Việt Nam ở Mỹ qua tiếng nói của nhân vật nữ, chưa hề được gửi đi tham dự bất cứ giải thưởng văn chương nào trong dòng chính nước Mỹ, lại được nhà xuất bản cuả cô, AmzonEncore, gửi đi và nhận giải Văn Học Quốc Tế bộ môn tiểu thuyết đa văn hoá, do một cơ quan ở Mỹ tổ chức cho tác phẩm tiếng Anh từ phía ngoài nước Mỹ. Sau khi phục vụ chương trình Fulbright cuả Mỹ, cô quyết định quay trở về săn sóc và cận kề song thân trong tuổi già ở Texas.

Lời Nói Đầu Của Tác Giả:
Năm 1989, tôi dự thi cuộc tuyển lựa diễn viên cho vở nhạc kịch “Miss Saigon” ra mắt lần đầu ở thành phố New York. Trong cuộc thi tuyển bán kết cattle call ở Broadway, không có ai là Việt Nam thực sự, ngoài tôi. Trong cuộc tuyển lựa, Cameron Mackintosh, lúc đó còn rất trẻ, hỏi tôi tại sao một Luật Sư lại muốn... đi hát kiểu này. Tôi trả lời, đó là vì... Giọt Mưa Trên Lá!!! [1]
Footnote 1: Tôi đi dự thi Miss Saigon trong khi chưa có sự đào luyện đúng nghĩa về sân khấu thanh nhạc, bằng cách hát bài Giọt Mưa Trên Lá cuả Phạm Duy, pha trộn lời Việt với lời Anh, theo lời đề nghị cuả bác Nguyễn Túc ở Virginia và giáo sư âm nhạc Elizabeth Verenios cuả Đại Học American và Catholic, vùng Hoa Thịnh Đốn. Tôi phảỉ xin nghỉ làm ngày Thứ Sáu để lên Nữu Ước dự thi. Ngày thi thì tôi lại mất giọng vì bị cảm, chắc là vì quá mệt. Trước khi hát, tôi giới thiệu bản nhạc như sau: Mưa là nước mắt cuả Trời, mà Lá là từ trái tim cuả Đất, Khi Mưa gặp Lá, thì đó mới là tiếng lòng cuả cô em bé nhỏ, Miss Saigon. Nếu quý vị đem cô em bé nhỏ cuả Saigon lên sân khấu Hoa Kỳ, thì xin nghĩ đến nước mắt cuả Trời và trái tim cuả Đất. Rain is the tears from Heaven, and Leaves are part of the heart of Earth. When Rain meets Leaves, there lies the voice of Miss Saigon. If you put on a stage production for the little woman from Saigon, please think of the tears from Heaven and the heart of Earth.
Lúc đó, tôi vừa rời công việc ở tổ hợp Luật Washington DC., Wilmer Cutler & Pickering, để trở thành Luật Sư Tố Tụng Cấp Một cho Cơ Quan Liên Bang Giám Sát Thị Trường Chứng Khoán Hoa Kỳ (SEC). Cha mẹ tôi bay từ Texas đến Washington nhằm hỗ trợ tinh thần trong thời điểm phiên xử đầu tiên tôi phải xuất hiện ở Tòa Án để đại diện SEC nhằm truy tố và phạt các Chuyên Viên Kiểm Tra Kế Toán, tranh biện với đội ngũ bào chữa gồm thành viên cao cấp cuả tổ hợp Arnold & Porter ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Đầu não đội ngũ bào chữa cho các Kế Toán Viên là một Luật Sư lão thành trước kia là thành viên trẻ nhất cuả đội ngũ truy tố Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate. Vậy mà bây giờ ông ta lại phải tranh biện với "con bé Việt Nam vô danh tiểu tốt" là... tôi! Phiên tòa này đem đến kết quả tôi được SEC tăng thưởng lên chức vị Tố Tụng Đặc Biệt (Special Trial Attorney), Cấp Ba, ngay năm đầu tiên tôi làm việc cho chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ. Nhưng ngay sau đó thì vùng Đông Bắc xôn xao với sự xuất hiện cuả nhạc kịch Miss Saigon, thực hiện bởi đội ngũ đã thành công rực rỡ với vở Les Miserables, dựa trên tiểu thuyết nhân bản cuả văn hào Victor Hugo mà tôi... thần tượng!!! Qua năm thứ ba làm việc cho chính phủ Liên Bang, sau khi hỏi ý kiến Luật Sư lão thành Paul Gonson, đại diện cho SEC trước Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (Solicitor General), và cũng là một nghệ sĩ nhảy "tap dancing" rất tuyệt vời mà công chúng bên ngoài SEC chưa chắc đã biết, tôi nghe lời ông, quyết định xin nghỉ giả hạn không lương, để theo học nhạc kịch tại Viện Kịch Nghệ Hoa Kỳ (American Academy of Dramatic Arts), và từ đó tôi có cơ hội trở thành người học vai chính vở "Cô Gái Sài Gòn," một loại diễn viên... đàm thụ!)
Tôi viết một bài nghị luận về hình ảnh phụ nữ Á Châu trong thời điểm ấy, khi tôi phải chọn lựa những gì mình “thích” cho cuộc đời, không người hướng dẫn, ngoại trừ Luật Sư Paul Gonson khi ông và tôi ngồi chung chuyến tàu subway từ văn phòng SEC đi về Northern Virginia một buổi tối đầu hè năm 1991. Cha mẹ tôi, những nhà giáo tỵ nạn, với lòng yêu thương con gái tuyệt đối, không hề có ý kiến gì trên những chặng đường tôi đi qua, mà chỉ hỗ trợ bằng những cử chỉ ân cần nhỏ nhoi nhưng với tất cả nỗ lực cuả trái tim cha mẹ, khi cần thiết. Sau cuộc thử nghiệm với sân khấu ở Mỹ, tôi không trở lại SEC để tiếp tục nghề nghiệp của mình với chính phủ Liên Bang, một quyết định mà cho đến giờ, tôi thật sự hối tiếc.
Trong thời điểm kế tiếp, cha tôi có lẽ đã đưa bản sao bài Nghị Luận ấy (đăng lại dưới đây) cho giáo sư Lê Văn, cựu Khoa Trưởng Sư Phạm thuộc viện Đại Học Huế. Giáo sư Lê Văn là thầy mà cũng là đồng nghiệp của ba tôi trong nghề giáo. Trong hai thập niên 1980 và 1990, giáo sư Lê Văn tổ chức nhiều hội thảo cho các diễn giả về Việt Học, liên kết với Bộ Giáo Dục tiểu bang California ở Sacramento. GS Lê Văn có nhã ý mời tôi đến phát biểu ở một buổi hội thảo do ông đề xuất, và đón tiếp tôi tại nhà riêng của ông bà. Tôi không được biết giáo sư Lê Văn và các cộng sự viên đã đưa bài viết cuả tôi vào hợp tuyển nghiên cứu người Việt gọi là Dòng Việt (Viet Stream), hiện vẫn còn trên mạng lưới. Có lẽ đây là dịp độc nhất tôi được "xuất hiện" qua giấy bút bên cạnh những tên tuổi xuất sắc cuả thế hệ đi trước, các đồng nghiệp/bạn hữu cuả cha tôi (cha tôi là một nghệ sĩ nghiệp dư, dưới nếp áo cuả bục gỗ, phấn trắng bảng đen, từ trước 1975 của cố hương mà tôi đả bỏ lại sau lưng).
Đây là lý do cá nhân khiến tôi muốn làm sống lại bài viết này. Nhưng lý do chính, lý do xã hội bao quát chứ không phải lý do cá nhân, là việc khởi phát phong trào "ME TOO" ở Mỹ, trong đó tôi chưa thấy rõ rệt bóng dáng cuả phụ nữ Việt, hay gốc Á...
Lần cuối tôi gặp giáo sư Lê Văn là khi ông bà ghé thăm cha mẹ tôi ở Houston khoảng năm 1999-2000, trước thiên niên kỷ, thời điểm tôi đang chuyển từ hành nghề Luật qua công việc giảng dạy. Khoảng thời gian đó, trong số bạn bè và đồng nghiệp cuả tôi, có một ít nữ Luật Sư đã đưa đơn tố giác ở EEOC (cơ quan liên bang bảo vệ dân trước vấn nạn kỳ thị), với mục đích khiếu nại, thưa kiện, chống lại các tổ hợp Luật Sư lớn và các tổng công ty đa quốc gia về tệ nạn quấy rối tình dục. Tôi được người hướng dẫn (mentor), một nữ Luật Sư kỳ cựu, Cố Vấn Trưởng của một công ty Viễn Thông Fortune 500, bà bảo rằng các nguyên đơn khiếu kiện hoặc cáo giác nạn kỳ thị hay quấy rối tình dục chắc chắn phải đối mặt với một tương lai bị lọt vào sổ đen, đồng nghĩa với việc ô uế thanh danh và mất luôn con đường sự nghiệp, cho dù mình là nạn nhân. Vì vậy, tốt hơn nên cắn răng cam chịu và tiếp tục xây dựng nghề nghiệp mới, ở một nơi chốn khác.
Tôi không bao giờ quên cuộc bàn luận thân tình rất thẳng thắn này, qua điện thoại với người nữ Luật Sư kỳ cựu ấy, người đã ngồi ở bực thang cao nhất cuả điạ hạt công ty thương trường Mỹ: cuộc đàm thoại khẳng định một thực tế khắt khe trong một nước Mỹ bình đẳng, một xã hội nơi mà mọi người cứ tưởng ai cũng có thể tiếp cận công lý và tự do ngôn luận. Lời khuyên giữ “yên lặng” rất phù hợp với hình ảnh truyền thống của phụ nữ Châu Á, phần tử "yếu mềm" của “một nền văn hóa yên lặng, một mô tả khá thịnh hành trong nước Mỹ, rằng phụ nữ yên lặng là những thành viên khuôn mẫu của một “thiểu số yên lặng.” Châu Á yên lặng trong một thế giới... không yên lặng.
Song song với phong trào “ME TOO” của nước Mỹ, cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2016 mở ra một chương mới về hình ảnh phụ nữ tại Mỹ: Đệ Nhất Phu Nhân Melania Trump đã phá vỡ những rào cản, vượt qua những hình ảnh người mẫu gợi cảm phô trương, công khai bỏ qua các cáo buộc hành vi thiếu chuẩn mực về tính dục của chồng. Bà tuyên bố với truyền thông Mỹ là bà xem đó như vấn đề “chuyện đàn ông con nít” (boys' talks), và các cáo buộc chính khách ngoại tình “chẳng phải là quan tâm của tôi,” bà nói.
Bà Trump không phải là người đầu tiên nâng cao hình ảnh người mẫu và phụ nữ trong giới giải trí lên tầm vóc “nguyên thủ quốc gia” nhờ kết hôn. Đệ Nhất Phu Nhân Pháp quốc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng: quay ngược lại thời gian, Marilyn Monroe xinh đẹp với tấm lưng ong đã có thể biến nghệ thuật trình diễn của mình trở thành ngôi vị Đệ Nhất Phu Nhân, thập niên 1960, bằng cách thoát khỏi hình mẫu của biểu tượng tính dục (sex symbol), số mệnh đàn bà, và tiêu biểu đau khổ cuả một mỹ nhân có số phận bi thảm. Gần như nửa thế kỷ sau cái chết của Monroe, và sau hàng chục và hàng chục diễn viên nữ đứng lên bày tỏ tiếng nói về kinh nghiệm ghê rợn của họ trong thế giới của những người đàn ông quyền lực ưa “sờ mó”, “xô đẩy”, và hành động vũ phu, ngay cả hãm hiếp. Nếu Monroe còn sống, bà cũng sẽ thì thào, “ME TOO!” bằng giọng nũng nịu, hơi khàn khàn nhưng ngọt lịm từ cần cổ trắng nõn của bà.
Phong trào “ME TOO” ở Mỹ đã đi quá xa, theo ý kiến cuả người đẹp Catherine Deneuve mẫu mực, một diễn viên quốc tế và là báu vật cuả nước Pháp, và cũng là người hâm mộ Monroe. Ngôi sao cao sang cuả nước Pháp này tham gia với hơn 100 phụ nữ Pháp trong ngành giải trí, xuất bản, và hàn lâm, đưa lập luận trong một bức thư gởi tới tờ Le Monde rằng phụ nữ và đàn ông ngày nay đã dùng phương tiện mạng xã hội như một diễn đàn táo bạo mô tả những hành vi sai quấy tình dục, bằng cách công khai theo đuổi, trưng bày những kinh nghiệm cá nhân, từ đó tạo ra một không khí độc tài toàn trị. Bức thư có đoạn viết: “Hiếp dâm là tội ác. Nhưng tán tỉnh lỳ lợm hay xô bồ không phải là tội ác, cũng không phải dâm ô, hay vồ vập coi thường phụ nữ.” Deneuve sau này đã xin lỗi vì có ký tên trên lá thư đó, lá thư đã mô tả phong trào “ME TOO” ở Mỹ là “trò săn phù thủy” “khắt khe.” Trong một bài viết mục xã luận, Deneuve giải thích lời xin lỗi của bà: “Tôi làm diễn viên từ khi tôi 17 tuổi… Tôi chứng kiến nhiều tình huống còn hơn là tế nhị nhạy cảm… Đơn giản hoá, tôi không cần phải lên tiếng nói thay cho chị em của mình.”
Dĩ nhiên, trong những "chị em" của Deneuve bắt buộc phải có những phụ nữ gốc Á "trầm lặng," có mặt ở châu Âu, Mỹ, Á, Phi, trong các nền “tiểu văn hóa của sự yên lặng,” nơi mà câu nói “ME TOO” có thể là biểu hiện của nỗi hổ thẹn ở quê nhà, nơi mà “ẩn số của yên lặng” áp đặt lên người phụ nữ bởi một "thế giới bên ngoài vô cảm.”
Gần đây nhất (tháng 11 năm 2019), cũng trong chính quyền Trump, một phụ nữ Châu Á duyên dáng, Mina Chang, người được bổ nhiệm Phụ Tá Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đã bị cáo buộc gian lận, làm ô danh “con gái châu Á hiền lành nghiêm túc và chăm chỉ.” Đây là một phụ nữ bị cho rằng đã leo bậc thang danh vọng nghề nghiệp trong khi không xứng đáng, cho nên phải "gian lận" về thành quả xuất sắc của mình, nào là tốt nghiệp Ivy League Harvard, vân vân. Nói một cách khác, Chang đã lộ liễu đi ngược lại chuẩn mực văn hóa và đạo đức cuả phụ nữ châu Á đến nỗi cô ta đã ngang nhiên tạo ra "một thực tế hư ảo thay thế thực trạng có thật" (alternative reality), để củng cố cho mình trước quần chúng: theo cáo buộc, thì cô ta đã gian trá bằng cấp Harvard, thổi phồng thành quả nhiều kinh nghiệm trong công tác nhân quyền quốc tế, tổ chức từ thiện, và khả năng lãnh đạo, để được cất nhắc vào một chức vụ chính trị của chính phủ Trump. Trong lịch sử cuả phụ nữ cộng đồng Mỹ gốc Á, Chang đã trả một giá rất đắt.
Trường hợp Chang đã tạo nên thành kiến gì cho biểu tượng phụ nữ gốc Á xinh đẹp?
Lại mới đây nữa, trước thềm năm 2020, năm bầu cử quyết định vận mạng nước Mỹ, một nữ ứng cử viên Tổng Thống, gốc Á và da màu, cựu Công Tố Viên tiểu bang California, và đương kim Nghị Sĩ Liên Bang Kamala Harris, đã bước ra ngoài vòng tranh cử Tổng Thống cuả đảng Dân Chủ, từ bỏ "ánh đèn sân khấu gay go nhất" ấy, sau khi công chúng biết rằng khi còn trẻ, bà đã "hẹn hò tình ái" với một người đàn ông quyền lực quá nhiều tuổi so với bà. Theo bà, thì ngay hôm nay, việc bà "bỏ cuộc chơi" nơi chốn chính trường của "siêu quốc gia quyền lực thế giới" này, chung quy cũng chỉ vì bà "không tiền rừng bạc bể."
Đối mặt với tất cả bối cảnh này, trong một giây phút hoài niệm, tôi dùng Google Internet để tìm kiếm và phát hiện bài viết của mình trong Viet Stream của giáo sư quá cố Lê Văn. Tôi quyết định cập nhật bài viết và đưa ngòi bút đến độc giả Việt Nam dưới hình thức dịch thuật, với sự giúp đỡ đánh máy cuả độc giả Việt (vì rất đáng tiếc tôi lại không có khả năng đánh máy tiếng Việt), bởi lẽ tôi tin tập thể người Việt tỵ nạn có nhu cầu nhìn lại quá khứ cho hành trình trước mặt cuả phụ nữ gốc Việt tại Mỹ, ở đủ các loại "sân khấu," kể cả sân khấu cuả "yên lặng" (nhưng thật ra đóng cửa che nhau thì cũng chẳng yên lặng gì lắm), nơi chốn mà chúng ta gọi là "nguồn cội." [2]
Footnote 2: (Tình trạng từ 1975 và đã bao lâu nay thì hình như sự “yên lặng” cuả Đất đã trở thành hiện tượng "đóng cưả mà cãi nhau" -- người Việt cãi người Việt mà thôi, dễ dàng đi đến tình trạng mạ lỵ phỉ báng, tựu trung là hiện tượng "ai muốn nói gì thì nói," xong rồi thì... biến mất, hoặc người Việt đưa nhau ra toà án Mỹ, với những trở ngại tâm lý chẳng hạn như: tránh voi không xấu mặt nào, chén kiểu chọi với chén sành, không nên dây dưa với hủi, một sự nhịn chín sự lành, vân vân.)
Nhìn lại tổng quát thế kỷ 20 và nhìn trước mặt, chúng ta cần hỏi: Có một sự tiến bộ, hay chỉ là nuối tiếc hoặc thoái hoá, hay là kết hợp cả hai thái cực, trong cái nhìn biểu tượng nhưng thấu đáo về phụ nữ gốc Á trong dòng chính cuả thế giới Âu Mỹ?
Từ thời điểm tuổi trẻ của tôi, những năm sau 2010, tôi đã chứng kiến và ghi nhận rất nhiều chu trình trưởng thành lớn mạnh cuả phụ nữ Mỹ gốc Á và gốc Việt: nhiều gương mặt xuất hiện, chiếm những vị trí cao ở chốn công quyền, các chức vụ dân cử, môi trường nghệ thuật, giải trí, hàn lâm và doanh nghiệp.[3]
Foonote 3: (Trong thập niên 2000, khi tôi còn dạy đại học luật, thì danh sách niên giám giáo sư luật gốc Việt tại Mỹ có tất cả là bả̉y người: Việt Đinh, Lan Cao, Nhân Vũ, Thảo Nguyễn, Huyền Phạm, tôi Wendy NN Duong, và thêm một vị đã về hưu là bà Tăng Thị Thành Trai. Hình như chỉ có tôi là dạy môn bắt buộc phải có mặt trên kỳ thi vào Luật Sư Đoàn khi sinh viên tốt nghiệp. Còn các vị kia dạy những môn mà sinh viên chọn lựa ̣ (elective). Ngoài điểm bảy người này là gốc Việt, thì trong số bảy người, đến sáu người đều chia sẻ mẫu số chung rằng họ có bằng cấp từ trường Luật cuả Đại Học Harvard hoặc Yale. Riêng bà Trai thì tốt nghiệp Luật ở bên Pháp và sau đó học lại ở Chicago, được coi là Ivy League như Yale và Harvard. Trong số bảy người, đã dạy rồi từ chức để quay trở lại hành nghề thì chỉ có tôi và Nhân Vũ. Và hai người tốt nghiệp Luật sớm nhất ở Mỹ là tôi và bà Trai (bà thuộc thế hệ cuả cha mẹ tôi). Khi tôi đang học Luật năm thứ nhất thì bà Trai đang làm việc cho nhà in thông số về Luật, công ty Sheppard (muốn đăng tải thông số về Luật cho các Luật Sư nghiên cứu xem Luật có còn được áp dụng hay không thì phảỉ có Luật gia đọc những án lệ cuả toà). Vì thế trong những năm đi học tôi có được niềm an ủi là thế hệ cuả cha mẹ tôi có người làm gương cho tôi ở nước Mỹ trong thế giới Luật, tuy rằng giữa tôi và bà Trai không hề có liên lạc cá nhân trong thời điểm đó. Và những quyết định về nghề nghiệp tôi không hề có ai trong cộng đồng gốc Việt hướng dẫn hay chia sẻ.)
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật: sau gần nửa thế kỷ, chưa có được một nữ Đại Sứ, nữ Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, nữ Giám Đốc Chủ Tịch điều hành CEO Fortune 500, nữ Chủ Tịch Viện Trưởng Đại Học, người nữ đoạt giải Nobel, nữ Thẩm Phán Tòa Án Liên Bang tối cao U. S. Supreme Court, nữ diễn viên hay nữ đạo diễn giải Oscar, mà là phụ nữ Mỹ gốc Việt. Và còn nhiều vai trò khác mà chúng ta có thể hình dung, kể từ khi tôi được "lôi ra" đảm nhận việc ngồi tòa khiêm nhường ở địa phận Houston, và kể từ khi tôi tạm tháo bỏ áo Luật Sư, đơn thân độc mã trên đại lộ Broadway cuả Nữu Ước, với tờ giấy nhạc đơn sơ bản Giọt Mưa Trên Lá, không chút kinh nghiệm hay huấn luyện công phu trường kỳ nào, mà lại dám gõ cưả văn phòng Casting Agency cuả Johnson Liff.
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, không có một Nguyên Thủ Quốc Gia là phụ nữ Việt nào, thực sự so với hình ảnh 2000 năm trước của Hai Bà Trưng (người dựng nước Việt Nam năm 40 sau công nguyên), hay một Triệu Thị Trinh muốn chém cá Tràng Kình ở Bể Đông, khoảng 200 năm sau đó?
Nhưng điều này có ý nghĩa gì, khi gương mặt một người nữ Việt Nam hay một phụ nữ Mỹ gốc Việt nào, cuối cùng thì cũng sẽ xuất hiện trong bất kỳ những vai trò này, có thể thực sự làm nên khác biệt? Khác biệt như thế nào? Và đó là sự khác biệt gì, ra sao?
Có phải chúng ta sẽ chỉ nhìn một gương mặt, nguồn gốc di truyền và sắc tộc, hay là chúng ta nên nhìn sự hy sinh, cá nhân hay tập thể, từ một người, nhiều người, rất nhiều người, có tên hay không tên, được nêu danh hay không hề được biết đến, tất cả những ai đã góp phần xây đắp vun trồng và dấn thân, đặt mình xuống để trở thành những viên đá đầu tiên qua sự hy sinh, đầu óc xuất sắc, thái độ kiên trì, và lòng can đảm, kể luôn cả cá tính lập dị, để chiếm lấy cơ hội, hay để bỏ qua cơ hội, cuả từng người, nhằm đưa sự thành tựu cuả cá nhân trở thành dấu ấn cuả tập thể?
Đó mới là nguyên nhân tôi muốn khôi phục lại bài viết này trước hết là để tưởng nhớ Giáo Sư Lê Văn – một cái nhìn về quá khứ, cần thiết để bắt đầu phản ảnh sâu xa hơn, về con đường trước mặt, bước ra bên ngoài “VietStream” của cố giáo sư Lê Văn khả kính và nhân ái. (Tôi cũng chỉ mới được biết chính con gái Giáo Sư Lê Văn là một phụ nữ tiên phong đã nhận giải thưởng cuả McArthur Foundation ở Mỹ, qua chu trình tác phẩm nhiếp ảnh cuả cô, mô tả chiến tranh Mỹ ở Trung Đông.)
Tôi muốn đưa ra thách thức, và dành câu trả lời cho mỗi người, hay tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, coi như bất kỳ một câu trả lời khả thi nào, ở mọi tầm nhìn với mỗi chọn lựa cá nhân cũng như sự chuẩn bị tập thể. Quan trọng nhất, là nhìn cho ra chân dung một lý do thật chính đáng, đi đến sự chung tay hỗ trợ, sự đoàn kết tối cần thiết cho gánh nặng can đảm nhất: việc chung góp nhau gìn giữ, làm tồn tại và gây khởi sắc cho văn hóa và tập thể Việt Nam, ở Việt Nam hay ở Mỹ thì cũng thế.
~~~***~~~
Bài Viết Năm 1991, Cập Nhật Hóa Tháng Hai, 2020
Nhìn Lại Thế Kỷ 20: Từ Madam Butterfly (Hồ Điệp Tử) Đến Hòn Vọng Phu -- Phụ Nữ Gốc Á Giữa Hai Thế Kỷ
Tôi, một người đàn bà Phương Đông
đứng giữa những bức tường hỗn loạn…
Đang kiếm tìm một lối về quê
Tôi không còn ngóng trông chồng
trên đỉnh núi cô đơn
không còn ru con nữa
Giờ đây
tôi phải chấp nhận di sản
thanh gươm của người chinh phu
Phần Một: Từ Thân Phận Hồ Điệp Tử Của Nhạc Kịch Cổ Điển Puccini…
I- Hình ảnh cánh bướm
Tình yêu lớn của tôi trên đời là âm nhạc Madam Butterfly của Puccini. Dĩ nhiên, âm nhạc trong tác phẩm tuyệt vời này dựa trên câu chuyện cảm động về một người phụ nữ Nhật chết vì một người đàn ông Mỹ không xứng đáng với nàng, cưới nàng nhưng không thật lòng, bỏ rơi nàng trong tuyệt vọng với ảo tưởng chàng sẽ một ngày quay lại.
Nhưng cái nhìn của Puccini về số phận bi thảm của phụ nữ biểu tượng phương Đông không chỉ là cái nhìn trên sân khấu. Chiến tranh Triều Tiên, tiếp theo là cuộc chiến Việt Nam, sản sinh ra những người Mỹ lai Á “bị ruồng bỏ,” mắc kẹt trên những đường phố quê mẹ. Tuy nhiên, hình ảnh cánh bướm của Puccini, ngay cả khi được trình bày bởi một ca sĩ luống tuổi, có đôi mắt kẽ viền trắng như hạt hạnh nhân nằm nghiêng, vẫn còn là niềm say mê của phương Tây đối với phụ nữ châu Á.
Hình ảnh cánh bướm, dẫu sao, trong văn chương và triết học phương Đông, thật ra tiêu biểu những gì sâu xa hơn là sự mảnh mai và trang nhã của phụ nữ Châu Á. Hình ảnh cánh bướm là sự giao tiếp của người quân tử với thế giới siêu hình – sự kết nối giữa cái “tôi” và một vũ trụ huyền bí. Trang Tử, triết gia cổ đại người Trung Hoa, học trò Lão Tử, một lần mơ thấy mình biến thành bướm. Ông viết nhiều sách nổi tiếng về triết lý vũ trụ như muốn bày tỏ về giấc mơ này.
Trong giấc mơ Trang Tử, cánh bướm là một hóa thân được chọn để kết nối thế giới phàm tục con người với thế giới ảo, đầy tưởng tượng, một nơi mà tất cả ràng buộc trần thế không còn vương vấn, linh hồn con người giải thoát khỏi chính cái tôi, cái "ngã." Cánh bướm do đó trở thành biểu tượng của những giấc mơ, tiềm thức, sáng tạo, và bí mật của bóng đêm, chỉ được thắp sáng bởi sự giải thoát khỏi cái tôi. Phải qua quá trình tự giải thoát khỏi cái tôi thì con người mới có thể hòa nhập vào vũ trụ. Khái niệm hòa nhập với vũ trụ là nền tảng của cả Phật giáo lẫn Lão giáo – cốt lõi triết học và văn hóa phương Đông.
Cánh bướm, hay chuyện thần bí biểu tượng cuả cánh bướm, cũng là biểu thị hình thái nguyên thủy của nữ tính trong văn chương phương Đông. Một nhà văn thời xưa khác cũng người Trung Hoa, ông Bồ Tùng Linh, viết cuốn Liêu Trai Chí Dị, một cốt truyện huyền bí đầy tưởng tượng, trong đó có những mẩu chuyện về loài bò sát như thuồng luồng, hoặc cáo, gấu, chồn, bướm, hay côn trùng, hóa thân thành “phụ nữ” để kết hợp với đàn ông có học hay danh giá trong mọi tầng lớp xã hội, nhiều khi là học trò nghèo không tiến thân được trong xã hội Trung Hoa. Những “phụ nữ” này cực kỳ xinh đẹp, thông minh, thường có phép thuật và theo đuổi một thứ chuẩn mực đạo đức rất thực dụng nhưng linh hoạt, không phù hợp những giá trị Khổng-Nho giáo đang thống trị xã hội hồi ấy. Với tự do khám phá tình yêu và quan niệm cấu trúc gia đình mới mẻ, những “phụ nữ” này khẳng định nữ tính của mình và xác định ý thức hệ về công bình hay chính nghiã. Vì lẽ không hoàn toàn là con người, họ không bị xét đoán bởi những lễ nghi, tục lệ, và giá trị đạo đức cuả xã hội Trung Hoa.
Tuy nhiên, để tuyên dương loại phụ nữ mới xuất hiện này, Bồ Tùng Linh đã lồng các nhân vật của mình bằng hình ảnh bò sát, cáo chồn, chim, gấu, ngay cả thực vật, hay cánh bướm, có khi là con ong hay những con côn trùng khác, hoặc đơn giản là những.... hồn ma. Tiểu thuyết trở thành công cụ để bình thường hoá các phụ nữ không bình thường này, nhằm thay đổi đời sống Trung Hoa qua cách vẽ ra một chân trời hoang tưởng. Tác phẩm của Bồ Tùng Linh vẫn còn nổi tiếng đến hôm nay, không những trong các nền văn hóa nói tiếng Hoa mà còn ở những nước láng giềng như Việt Nam. Chỗ đứng của tiểu thuyết Bồ Tùng Linh trong văn học Đông Á, dẫu còn tranh biện, thực sự không thể chối cãi.
(Xem tiếp ngày mai)