
Lời giới thiệu: Dịch giả Trần Công Trí tốt nghiệp Tiến Sĩ Đại Học UCLA, trong ngành Ngôn Ngữ Học chuyên về các thứ tiếng gốc La Tinh. Ông hiện là giáo sư khoa ngôn ngữ học, chú trọng vào tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, và tiếng Việt, đã xuất bản nhiều sách giáo khoa, từ điển, biên khảo về các ngôn ngữ này, cùng tham gia tích cực vào các dự án về chương trình Việt ngữ hải ngoại, cũng như những sinh hoạt liên hệ đến văn hoá và giáo dục tại cộng đồng miền Nam California.
Ông cũng đã cộng tác với Làng Văn, Canada (từ 1987 đến 1997), và với Da Màu trong những năm gần đây, qua nhiều tác phẩm độc đáo, sâu sắc, và công phu, ở nhiều lãnh vực như truyện ngắn, kịch, biên khảo, nhận định, và dịch thuật. Tuyển tập Trong Vườn Mắt Em là tác phẩm dịch thuật đầu tay của ông, với một số truyện dịch đặc sắc đã xuất hiện lần đầu trên Da Màu.
Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện qua email từ tháng 2, sau đó được bổ sung và hoàn tất vào đầu tháng 8 năm 2022.
Trong Vườn Mắt Em do nhà xuất bản Nhân Ảnh ấn hành tháng 7 năm 2022 hiện có mặt trên amazon.com.
Đinh Từ Bích Thúy
*************
Đinh Từ Bích Thuý: Mến chào anh Trí, để mở đầu, xin anh vui lòng cho biết lý do anh đã chọn ngành ngữ học và văn chương Tây Ban Nha? Tuy Tây Ban Nha là một ngôn ngữ phổ thông ở California do miền Nam của tiểu bang giáp ranh giới Mexico và đây cũng là nơi sinh sống của nhiều người di dân gốc Mễ hoặc từ các nước Châu Mỹ La-tinh, nhưng trong bối cảnh cộng đồng Việt hải ngoại, sự chọn lựa nghề nghiệp này cũng không giống nhiều người, phải không anh?
Trần C. Trí: Xin tách ý của cô hỏi thành hai phần là phần “dạy” và phần “học tiếng Tây Ban Nha” để tuần tự trả lời. Tôi thích dạy học từ lúc còn… chưa đi học! Trong cái xóm nhỏ của tôi ngày ấy, tôi thường phải dụ dỗ những đứa bạn hàng xóm suýt soát tuổi mình bằng cách cho chúng nó bánh kẹo để chúng chịu ngồi yên một chỗ trong một thời gian ngắn để tôi vừa “dạy” vừa “dỗ” chúng nó! Khi những viên kẹo ngọt vừa tan hết trong miệng chúng thì lớp học cũng theo đó mà tan tầm. Sau đó, giấc mơ dạy học tạm ngủ yên trong tôi trong suốt thời gian cắp sách đến trường. Mãi sau này khi vào Đại Học, tôi mới thi vào trường Sư Phạm, tiếp tục ước vọng của mình. Khi ra trường, số phận lại dun rủi tôi vào làm thủ thư trong phòng đọc sách ngoại văn của một thư viện gần nhà, trong khi các bạn đồng môn của tôi đã ra đi dạy. Tuy nhiên, lúc đó tôi cũng bắt đầu mở lớp dạy kèm tiếng Anh và tiếng Pháp tại nhà, phần nào cũng đạt được giấc mơ làm thầy giáo của mình.
Về phần ngôn ngữ, khi vào Trung Học tôi mới khám phá ra là mình thích học những thứ tiếng khác. Sau khi cộng sản vào, tôi dùng những tháng ngày rảnh rỗi với nỗi buồn mất nước để tự học thêm ngoại ngữ. Vì tham lam muốn học nhiều thứ tiếng, tôi chia thời khoá biểu ra để học—thứ Hai: tiếng Tây Ban Nha, thứ Ba: tiếng Nga, thứ Tư: tiếng Đức, v.v. Dạo ấy, chưa thứ tiếng nào là ưu tiên của tôi, vì tôi thấy ngôn ngữ nào cũng hay cả. Mấy năm sau, khi vượt biên, được tàu Đức Cap Anamur vớt, sau đó lên đảo Palawan, dạy tiếng Đức trong trại tỵ nạn, tôi đã tưởng rằng tiếng Đức sẽ là ngôn ngữ “định mệnh” của mình. Tất cả thuyền nhân trên tàu đều được chính phủ Đức cho đến xứ sở này định cư. Tuy nhiên, tôi đã chọn ở lại trại lâu hơn để được đi Mỹ. Khi vào Đại Học ở Mỹ, tôi quyết định đi theo “tiếng gọi của đam mê,” bất chấp những lời bàn ra tán vào của mọi người chung quanh, khuyên tôi học một ngành gì thực dụng, để cuối cùng chọn ngành ngôn ngữ học tiếng Tây Ban Nha. Tâm niệm của tôi là, đi học vốn cực khổ rồi, nên học ngành gì mình thích thì sẽ đỡ khổ hơn. Tôi nhớ hoài một câu tiếng Đức đã học được trong cuốn L’Allemand sans peine lúc còn ở bên nhà, rất hợp với suy nghĩ của mình: “Das Sprachenlernen ist mir ein Zeitvertreib und nicht eine Arbeit.” (tạm dịch: “Đối với tôi, học ngôn ngữ là một thú giải trí chứ không phải là một công việc”).
Tuy vậy, lúc đó tôi chỉ cắm đầu vào mà học chứ thực tình không dám nghĩ đến việc sau này sẽ dám ra đi dạy tiếng Tây Ban Nha, nhất là ở Nam California, chung quanh tôi là cả một “rừng” người nói (và giảng dạy) thứ tiếng này. Sau khi xong bằng B.A., học lên M.A., rồi Ph.D., tôi mới từ từ nghiệm ra rằng học ngôn ngữ phần lớn là để ra đi dạy chứ ít khi kiếm được nghề gì khác. Vậy là cuối cùng, tôi đã may mắn mà đạt được ước mơ “kép” của mình là dạy học, và dạy về ngôn ngữ. Tôi thường khuyên con cái và học trò của mình một cách đơn giản như sau: “Hãy chọn học và làm một nghề theo sở thích của mình. Tôi thích nghề nghiệp của tôi, nhưng cũng có những buổi sáng thức dậy, tôi thấy chán nản, không muốn đến trường, vào lớp để giảng bài. Đó là những ngày mà người Mỹ gọi là “bad days.” Tưởng tượng chúng ta học và làm một nghề mình không thích, thì còn bao nhiêu cái “bad days” hơn thế nữa.

Đinh Từ Bích Thuý: Chuyên đề Văn Chương Nam Mỹ vào tháng 7 năm 2016 của Da Màu đã dùng Anh ngữ như một trạm “chuyển xe đò,” hay tấm gương phản chiếu những nền văn hóa khác: lúc đó chuyển tải các tác phẩm Nam Mỹ từ bản dịch Anh ngữ của các dịch giả Hoa Kỳ đã dịch những tác phẩm này từ nguyên văn tiếng Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha, do đó coi Anh ngữ không là “tâm điểm” mà chỉ là một chặng chuyển tiếp giữa nguyên bản và ngôn ngữ đích là tiếng Việt. Nhưng ở Trong Vườn Mắt Em, anh đã dịch từ nguyên bản Tây Ban Nha các truyện ngắn — đây không phải chỉ một ngôn ngữ Tây Ban Nha thống nhất mà là nhiều thể loại, từ các quốc gia khác nhau, tuy cùng phát nguồn từ Tây Ban Nha.
Xin anh cho biết kinh nghiệm của anh, khi đối diện những biến hóa, hay “mảnh rời” từ ngôn ngữ này. Nói cách khác, tiếng Tây Ban Nha của người Nam Âu có khác tiếng Tây Ban Nha của người Chile, Colombia, Argentina, hay với ngôn ngữ Tây Ban Nha của người miền Tây Phi hay không?
Trần C. Trí: Trước hết, phải nói là cho đến bây giờ tôi vẫn còn tiếc là vào năm 2016, tôi đã lỡ chuyến xe… đò về chuyên đề Văn Chương Nam Mỹ! Lúc đó, tôi đã biết nhà văn Đặng Thơ Thơ qua những sinh hoạt chung về Việt ngữ ở Nam California, nhưng không biết gì về Da Màu. Phải đến gần ba năm sau tôi mới được góp mặt với tờ tạp chí mạng này qua một số truyện ngắn tiếng Việt và truyện dịch từ tiếng Tây Ban Nha.
Hình ảnh “mảnh rời” của ngôn ngữ chính thức thường được biết đến qua tên Castellano thật thú vị, gợi hình và đầy ý nghĩa. Nó làm tôi liên tưởng đến những mảnh đủ hình thù khác nhau trong một tấm jigsaw puzzle, như tên gọi trong tiếng Anh. Mỗi mảnh nhỏ mang một hình ảnh chưa đủ để gợi nên một ý niệm gì, nhưng khi đã được xếp chung lại với nhau, tất cả những mảnh rời đó tạo thành một bức tranh tổng thể, không thể thiếu một mảnh nhỏ nào trong đó. Tất nhiên là mỗi thứ tiếng Tây Ban Nha trong từng quốc gia, tự nó, đã mang nhiều ý nghĩa hơn là mỗi mảnh jigsaw, nhưng sự toàn vẹn, nét linh động và vẻ đẹp mà tất cả các thứ tiếng địa phương đó góp lại cho ngôn ngữ Castellano cũng là một cách so sánh gợi nhiều suy nghĩ.
Tôi “đối diện” với những biến hoá muôn màu muôn vẻ đó của các ngôn ngữ Tây Ban Nha theo từng quốc gia, trước tiên, là qua những năm tháng giảng dạy môn ngôn ngữ học Tây Ban Nha bậc đại học và cao học. Sinh viên ngành ngôn ngữ học Tây Ban Nha của tôi phần lớn là thành phần mà trong ngành giáo dục song ngữ gọi là heritage students, hay nói khác đi là những người sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ, nói tiếng Tây Ban Nha do học hỏi từ cha mẹ (những người nói tiếng này là tiếng mẹ đẻ). Nhiều sinh viên học các lớp này đã tốt nghiệp đại học, đang giảng dạy tiếng Tây Ban Nha ở một số trường trung học, muốn có bằng master’s về ngành này để thăng tiến trong nghề nghiệp. Những sinh viên thuộc thành phần như trên tất nhiên là phải nói tiếng Tây Ban Nha lưu loát hơn ông thầy người Việt! Trong khi họ học ở tôi những khái niệm phức tạp về ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ học tiếng Tây Ban Nha nói riêng, tôi lại được cơ hội học hỏi từ họ biết bao nhiêu là đặc điểm của từng thứ tiếng Tây Ban Nha mà cha mẹ của họ đã mang từ quốc gia của mình đến xứ sở này. Những nét phong phú đó bao gồm sự biến hoá của cách phát âm, văn phạm, ngữ vựng (đặc biệt là tiếng lóng và thành ngữ). Vốn ngữ vựng để giảng dạy của tôi sách vở, khô khan, thuần tuý học thuật bao nhiêu, thì ngữ vựng của các sinh viên đóng góp vào lớp học linh động, đầy màu sắc bấy nhiêu. Chính nhờ vậy mà sau này, khi chuyển ngữ những tác phẩm tiếng Tây Ban Nha từ nhiều nước khác nhau, tôi vô cùng thích thú mỗi khi gặp những chữ hay thành ngữ mà tôi đã tình cờ biết được qua các sinh viên của mình.
Nhìn chung, người ta có thể phân biệt các thứ tiếng Tây Ban Nha khác nhau qua cách phát âm. Ví dụ như phụ âm ll trong chữ calle (‘đường phố’) ở Tây Ban Nha đọc là [kalye] (tương tự như cách đọc gli trong tiếng Ý), ở Mexico đọc là [kaye], trong khi ở Argentina và một số nước lân cận ở vùng cực nam châu Mỹ (thường được gọi là El Cono Sur) lại được phát âm là [kashe] hay [kazhe]. Mặt khác, cách dùng đại danh từ nhân xưng của một người cũng có thể cho chúng ta biết người đó từ đâu đến. Chẳng hạn như ở Tây Ban Nha người ta dùng đại danh từ vosotros (tương tự như ‘you guys’ trong tiếng Anh), nhưng đại danh từ này coi như đã “tuyệt chủng” ở Châu Mỹ La-tinh (được thay thế bằng ustedes), hoạ hoằn lắm mới được nghe thấy trong một buổi giảng kinh thánh trong một ngôi nhà thờ nào đó. Ngược lại, ở vùng Trung và Nam Mỹ (ở một số nước như El Salvador, Nicaragua, Honduras, Argentina, v.v.), có một đại danh từ xuất hiện sau này (thế kỷ thứ 15) là vos (vốn được “cắt” từ số nhiều vosotros mà ra), được dùng như “you” một cách thân mật. Trong khi tiếng Pháp chỉ có hai đại danh từ là vous (trang trọng) và tu (thân mật), thì ở các nước này có đến ba dạng: tú, vos và usted, được dùng tuỳ theo mức độ thân mật giữa những người đối thoại với nhau.
Về những nét khác nhau giữa các thứ tiếng Tây Ban Nha ít nhất cần phải có một lớp nhập môn (chỉ nhập môn thôi!) về Spanish Dialectogy mới tạm gọi là đã cưỡi ngựa xem hoa. Tôi chỉ muốn tạm kết thúc phần này bằng một ví dụ về tính đa dạng về mặt từ vựng trong thế giới nói thứ tiếng của Don Quijote này. Trong khi tiếng Việt chỉ có hai danh từ con lợn ở miền Bắc và con heo ở miền Trung và miền Nam, có khá nhiều tên gọi khác nhau cho con vật này theo từng vùng: puerco (nói chung, hay cũng có nghĩa là ‘thịt heo’), cerdo (España, República Dominicana, Puerto Rico), chancho (Perú, Argentina, Chile, Ecuador, Uruguay), cuchi (Bolivia), marrano (Colombia, Nicaragua, Panamá), cochino (Costa Rica, Cuba, México, Venezuela), coche (El Salvador, Guatemala, Honduras). Tất nhiên là tên gọi của con vật ở một chỗ này có thể vẫn hiểu được ở một chỗ khác, nhưng mỗi cái tên cũng có thể nói lên một chút bản sắc của từng địa phương.
Đinh Từ Bích Thuý: Nếu chấp nhận khái niệm về ngôn ngữ Tây Ban Nha đã bị “cắt mảnh,” giống như lời nhận xét của Jorge Ibaruengoitia trong phần Elliptics (Elípticas) của Hàm Răng Kể Chuyện của Valeria Luiselli [tr. 179, bản dịch Anh ngữ của Christina Sweeney (Coffee House Press, 2015)], rằng:
“Tiếng Tây Ban Nha giống như một cái áo cưới cô dâu cũ kỹ, luân lưu từ đời này sang đời khác mà con cháu như bị ép buộc phải giữ sao cho sạch sẽ, thẳng thớm… nhưng những tấm áo cưới cổ kính thì chỉ tốt cho xác chết hay để bộ xương đắp lên người. Tốt nhất là cắt cái áo cưới này ra từng mảnh rồi may áo sơ mi thay vì ướp nó trong rương với mấy viên băng phiến.”
Trong tình cảnh hiện nay, khi ngôn ngữ Tây Ban Nha, lúc trước là của thế lực đô hộ, đã bị cắt mảnh và tái chế cho từng địa lý, xã hội, hoàn cảnh hiện đại, từ quan điểm của dịch giả/giáo sư ngữ học, anh thấy đây là hiện tượng khả quan (tạo ra nét đa diện và sáng tạo cho văn phong của từng môi trường), hay hiện tượng không thống nhất trong cùng một ngôn ngữ cũng có những yếu tố tiêu cực?
Trần C. Trí: Tôi không thấy tiếng Tây Ban Nha “bị” cắt mảnh thành từng phần từ một cái áo cưới cũ kỹ, không hồn không vía như Jorge Ibaruengoitia đã ví von. Trái lại, tôi muốn so sánh tiếng Tây Ban Nha—từ khi bắt nguồn từ tiếng La-tinh, thông qua giai đoạn chuyển tiếp được gọi là Ibero-Romance, thành tiếng Castellano, rồi cuối cùng được sử dụng trong phần lớn vùng Châu Mỹ La-tinh—với hình ảnh một cái cây xanh tươi, được chiết cành và giăm xuống nhiều mảnh đất trù phú, để ngày nay là những cây ngôn ngữ tươi trẻ, phát triển không ngừng. Mỗi cái cây đó mang cùng một tên gọi, bên cạnh một tên khác mang căn cước đặc biệt của mình như español argentino, español mexicano, español cubano, español hondureño,… Mỗi cây mỗi vẻ, mười phân vẹn mười!
Nói như vậy vì tôi đã có cơ duyên thấy và cảm được sức sống tràn đầy của các thứ tiếng Tây Ban Nha qua việc giảng dạy cũng như dịch thuật. Về mặt ngôn ngữ, những nét khác nhau về cấu trúc, phát âm, từ vựng đã nói lên những tính cách riêng của những người sử dụng nó theo từng địa phương. Chẳng hạn như những phụ âm [sh, zh] mà chỉ người ở Argentina. Paraguay hay Uruguay mới có (rất gần với phụ âm [dzh] trong tiếng Ý, như âm đầu của chữ giorno (Ở đây tôi dùng chữ thông thường để phiên âm mà không dùng ký hiệu phiên âm quốc tế IPA), luôn nhắc nhở chúng ta về sự có mặt (và ảnh hưởng về nhiều phương diện) của cộng đồng di dân người Ý khá đông đảo ở những nước này, đến nỗi tiếng Tây Ban Nha ở đó cũng có âm hưởng ngân nga, trầm bổng chẳng khác gì giọng Ý. Hay những từ ngữ mang tính địa phương, trong những tác phẩm văn chương, đã giúp cho người đọc hoà mình sâu rộng hơn, thấy mình như đang ở ngay trong bối cảnh của câu chuyện của một vùng nào đó trên bản đồ trải dài xuyên đại dương của ngôn ngữ Tây Ban Nha. Một người ở thủ đô Madrid muốn đáp một chuyến xe buýt thì phải coger un autobús, người ở Buenos Aires thì tomar un omnibús, còn người ở La Habana thì lại tomar una guagua!
Tất nhiên là những nét đa dạng nào cũng có những yếu tố tiêu cực kèm theo những yếu tố tích cực. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng tính đa diện của các ngôn ngữ Tây Ban Nha đã góp phần làm cho đời sống văn hoá, nghệ thuật của các quốc gia sử dụng thứ tiếng này mỗi ngày một thêm trù phú hơn là làm trì trệ đời sống xã hội hay văn hoá qua những mặt tiêu cực của nó.
Đinh Từ Bích Thuý: Xin anh cho biết những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến sự chọn lựa những truyện ngắn cho tuyển tập Trong Vườn Mắt Em? Có phải do những đề tài về tệ nạn quyền lực, sự bất công, những đe dọa cho tuổi trẻ, môi sinh, chuyện kỳ thị giới tính, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo? Và theo anh thì những đề tài này có liên hệ gì với các độc giả người Việt, ở trong nước cũng như ở các cộng đồng di dân/tị nạn Việt Nam ngoài lãnh thổ Việt Nam?
Trần C. Trí: Khi tôi bước những bước chân dọ dẫm vào nền văn chương tiếng Tây Ban Nha (nói hẹp hơn là qua truyện ngắn và kịch), quả thật là tôi không biết phải bắt đầu từ đâu trong thế giới bao la này, trong nền văn chương đã có mặt từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay. Dần dần, tôi định thần lại và bắt đầu thấy được hướng đi của mình. Cũng chẳng có gì cầu kỳ cho lắm, chỉ cần khởi sự với những truyện về cảnh ngộ cá nhân hay gia đình (“Lời Chia Tay Êm Ái”), về tình yêu (đề tài muôn thuở!) trong “Cây Hạnh Phúc” chẳng hạn; sau đó tôi tìm đến những đề tài rộng lớn hơn như âm nhạc, nghệ thuật (“Căn Chung Cư Số 1”), hay một số nan đề của xã hội như kỳ thị màu da hay giới tính (“Tha Hoá”), độc tài chính trị (“Loài Khỉ”), nạn nghèo đói tha phương cầu thực (“Tấm Thiệp”, “Giấc Mộng”), vấn đề lưu vong (“Hồn Ma Bồ Đào Nha”)—và cả một truyện mang đề tài thời sự nóng hổi của cơn đại dịch thế kỷ mang tên Corona virus! —Tất cả những đề tài này đều có liên quan ít nhiều đến người dịch lẫn độc giả trong một ý nghĩa hay thời điểm nào đó.
Cô đã đề cập đến chủ đề hiện thực huyền ảo trong nhiều tác phẩm mà tôi chuyển ngữ. Đây không phải là một chọn lựa tình cờ mà hoàn toàn có chủ ý của tôi. Tôi rất thích khuynh hướng hiện thực huyền ảo mà tôi cũng đã áp dụng vào một số truyện ngắn tiếng Việt của mình. Sự thích thú này bắt nguồn từ một khuynh hướng khác có ít nhiều liên quan đến khuynh hướng này. Hồi còn ở Việt Nam, tôi tình cờ đọc được vài vở kịch của Eugène Ionesco như Les chaises hay La cantatrice chauve bằng tiếng Pháp. Lần đầu tiên làm quen với trường phái phi lý, lại thông qua một thứ tiếng chỉ là sinh ngữ thứ ba của mình, tôi như lạc vào mê hồn trận. Vì sách ngoại ngữ lúc đó không có nhiều, tôi cứ đọc đi đọc lại mấy vở kịch… phi lý đó đến nỗi thuộc lòng nhiều đối thoại. Với kinh nghiệm sống và vốn ngoại ngữ còn ít ỏi của tôi vào thời điểm ấy, tôi chưa thể hiểu hết những gì nằm phía sau những lời đối đáp lạ lùng đó, nhưng tôi vẫn thấy thích lối miêu tả cái thực bằng lối văn và hình thức lập dị, kỳ quặc của tác giả này từ khi nào không hay.
Ngẫm lại, tôi thấy rằng sự yêu thích những vở kịch phi lý của Ionesco đã đưa tôi đến việc khám phá và tìm hiểu khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong văn chương Mỹ La-tinh sau này khi đã đến Hoa Kỳ. Sau khi đã thưởng thức một số truyện ngắn kinh điển có chủ đề hiện thực huyền ảo, tôi nhận thấy cái phi lý của magical realism có vẻ nhẹ nhàng, dễ chấp nhận hơn là cái phi lý quá hiển nhiên trong absurdism. Chẳng hạn như tôi rất thích cách pha trộn khéo léo giữa thực tế trong rạp hát với hồi tưởng về quá khứ của nhân vật nữ trong truyện “Cây Hạnh Phúc”, hay những mẩu đối thoại không có thật giữa nhân vật nam và một người nữ trong đêm khuya thanh vắng trong “Trong Vườn Mắt Em”. Điều may mắn cho tôi là văn chương Mỹ La-tinh chính là cái nôi của trường phái hiện thực huyền ảo, luôn luôn đem lại cho tôi nhiều hứng thú trong việc dịch thuật của mình.
Những câu truyện và vở kịch trong cuốn sách này, dù được chuyển ngữ từ một thứ tiếng tương đối xa lạ với người Việt, vẫn phản ảnh những điều rất nhân bản, cũng nói lên thân phận con người, dù ở đâu trên trái đất này. Các nhân vật trong truyện hay kịch, dù mang những cái tên lạ tai, vẫn rất “người” như tất cả chúng ta, cũng yêu thương, đau khổ, đầy ước vọng, chán đời hay tràn trề joie de vivre. Truyện nào cũng cũng có đầy hỉ, nộ, ái, ố mà văn chương ở đâu trên thế giới cũng có (cộng thêm những nét đặc thù của vùng châu Mỹ La-tinh làm bối cảnh). Nhân vật cũng tham, sân, si, cũng đau khổ vì “ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc”, nói theo kiểu nhà Phật. Vì thế, tôi nghĩ người Việt nào, trong cũng như ngoài nước, với một chút ham thích về văn chương dịch thuật, cũng có thể dễ dàng đồng cảm với cảnh ngộ và tâm tình của một số nhân vật, tìm thấy đâu đó một chút hình ảnh của mình.
Đinh Từ Bích Thuý: Thí dụ, “Con Trai Người Thợ Rèn” là một truyện “thần tiên” từ cái nhìn của Thượng Đế và mang hơi hướm thời đại phong kiến (như thời Thập Tự Chinh của Âu châu). Đây có phải là sự cố tình của tác giả, dùng phông cảnh phong kiến và lời kể chuyện của một Thượng Đế bất lực như một cách chỉ trích chế độ Cộng sản duy vật của Cuba hiện đại (và cũng có thể áp dụng cho Việt Nam thời nay), với những “giao kèo xã hội” (social contracts) vẫn đầy sự vô lý và bất bình đẳng cho người dân quê?
Trần C. Trí: Với tác giả của truyện ngắn này, tôi có một mối quan hệ khá đặc biệt. Anh là tác giả duy nhất trong cuốn sách này tôi có hân hạnh được tiếp xúc và trở thành bạn, thoạt đầu là gặp gỡ qua Zoom trong thời gian đại dịch, mãi đến gần hai năm sau mới gặp nhau ở trường Đại Học nơi tôi giảng dạy (trong dịp này anh đã ký tặng tôi cuốn tiểu thuyết mới xuất bản có nhan đề El Planete Rojo, mà anh phải về tận Cuba để xuất bản). Anh hiện sống, học tập và làm việc tại Nam California. Nhà văn, nhà thơ Eliécer Almaguer—mà như tôi và gia đình, bạn bè của anh thường gọi một cách thân mật là “Cheche” —là một nhà văn Cuba lưu vong. Qua những bức emails trao đổi qua lại giữa chúng tôi, đúng vậy, tôi được biết rằng truyện ngắn “Con Trai Người Thợ Rèn” chính là một ẩn dụ mà tác giả đã dùng để ám chỉ chính quyền cộng sản Cuba. Trước đó, tôi đã chuyển ngữ một truyện ngắn của một tác giả Cuba khác, định để vào tuyển tập này (cuối cùng, chính cô Đinh Từ Bích Thuý đã thuyết phục tôi để vào phần “bonus” của tuyển tập). Về sau, khi được tình cờ quen biết Eliécer Almaguer, được anh đồng ý cho dịch truyện “Con Trai Người Thợ Rèn”, tôi hết sức thích thú với bối cảnh phong kiến và nhân vật xưng tôi—thật bất ngờ lẫn thú vị—là Thượng Đế, mà tác giả đã dùng cho câu chuyện. Chủ đề về bất công xã hội hay sự đàn áp của các thể chế độc tài đối với người dân không thiếu trong văn chương trên thế giới, nhưng bối cảnh và quan điểm của người kể chuyện trong truyện ngắn này đã làm cho một chủ đề bình thường trở nên độc đáo. Tôi nghĩ đây là một cái duyên hạnh ngộ văn chương mình đã có được với tác giả và tác phẩm này cũng như hình thức văn chương khác thường của nó.
Đinh Từ Bích Thuý: Tuyển tập thể hiện những suy tư, ẩn dụ, châm biếm, thậm chí sự bất lực, về vai trò trí thức/nhà văn/nghệ sĩ, trong nhiều xã hội Châu Mỹ La-tinh, qua vai trò kẻ đấu giá/nói láo ăn tiền (“Hàm Răng Kể Chuyện”), người lên đồng (“Loài Khỉ”), người làm vườn (“Trong Vườn Mắt Em”), nhà giám đốc ôm đồm nhưng vô dụng (“Rác Rưởi”), hồn ma/kẻ lưu đày trường kỳ (“Hồn Ma Bồ Đào Nha”), và người thợ rèn (“Con Trai Người Thợ Rèn”–động từ forjar trong tiếng Tây Ban Nha vừa là “rèn/chế tạo” vừa là “làm giả”–như động từ forge trong tiếng Anh). Ngay cả cặp vợ chồng trong “Những Người Không Ngủ” và “Người Đàn Bà Đến Lúc Sáu Giờ” cũng là những nghệ sĩ phải thêu dệt nhiều hư cấu về cuộc sống hàng ngày để sống còn. Tại sao lại có nhiều suy tư và châm biếm về vai trò trí thức/nhà văn/nghệ sĩ trong những truyện có vẻ rất khác nhau về tình tiết cũng như cấu trúc này?
Trần C. Trí: Khi nêu lên câu hỏi này, cô đã đặt tôi vào vị trí của một người phải “đại diện” cho 21 tác giả để giải thích, phân tích hay thậm chí biện hộ cho họ về nội dung lẫn hình thức trong tác phẩm của họ, qua những thủ thuật văn chương mà họ dùng trong tác phẩm, cũng như những thông điệp mà họ muốn gởi đến độc giả. Trong bất cứ xã hội nào, với nhiều thành phần khác nhau, giới trí thức và giới văn nghệ nói chung, bao gồm những người, trong một chừng mực nào đó, cảm thấy mình có một trách nhiệm đặc biệt đối với bản thân, gia đình và xã hội, thông qua các sinh hoạt chuyên nghiệp hằng ngày của mỗi người. Từ các tác phẩm trong sách, độc giả có thể thấy nỗ lực—cũng như sự bất lực—của những người đó bàng bạc qua nhiều trang sách, như cô, như tôi cũng nhận thấy. Đối lại với những con người đó là toàn cảnh của một xã hội đầy dẫy bất công, mưu mô, bạo lực, đầy cạm bẫy… như cả một bể khổ lúc nào cũng sẵn sàng nhấn chìm con người vốn nhỏ nhoi, yếu đuối, mong manh. Sự tranh đấu để sống còn hay sự bất lực của các nhân vật trong truyện/kịch đại diện cho những con người đó đã được mô tả bằng những suy nghĩ, bút pháp, bố cục và tình tiết hết sức khác nhau của từng tác giả. Ví dụ như cách lường gạt của người đấu giá những hàm răng trong “Hàm Răng Kể Chuyện”—dùng tài hùng biện (hay ngụy biện?) để đạt cứu cánh—rất khác với cách lừa đảo của người đàn ông trong vở kịch “Rác Rưởi”—dùng phương tiện điện thoại để điều khiển, sắp xếp âm mưu, kế hoạch, cũng để đạt mục đích tương tự là đồng tiền bất lương. Nói cách khác, một chủ đề chung được trình bày, thể hiện từ nhiều quan điểm và khía cạnh rất riêng tư. Điều này là một tổng hợp của nhiều yếu tố riêng biệt trong mỗi tác giả: tuổi tác, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, kinh nghiệm, tài năng, hoàn cảnh cá nhân, xã hội, lịch sử và địa lý. Các tác giả đều viết bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha, nhưng—như chúng ta có thể thấy—ngôn ngữ chung nhất đó đã biến hoá linh động như những mảnh rời đủ màu sắc nhìn qua một cái kính vạn hoa. Đó chính là nét đẹp độc đáo của các tác phẩm mà chúng ta được thưởng thức trong tuyển tập này.
Đinh Từ Bích Thuý: Anh có nghĩ rằng như ngôn ngữ Tây Ban Nha đa diện, khái niệm hiện thực huyền ảo cũng được định nghĩa qua nhiều lăng kính tùy từng nhà văn hoặc tùy nhiều địa lý, hoàn cảnh khác nhau? Thí dụ, hiện thực huyền ảo về những con bò bị quỷ ám của Patricio Pron cũng khác với hiện thực huyền ảo về xác chết vẫn hoạt động như người bình thường của Claudia Hernández, “cái cây hạnh phúc” của María Luisa Bombal, và đôi mắt như vườn hoa có thỏ kẹo đường của Javier Abril Espinosa, hay những dụ ngôn/giai thoại về hàm răng kể chuyện của Luiselli?
Trần C. Trí: Tên gọi của trường phái này là một sự kết hợp giữa cái thật (hiện thực) và cái không thật (huyền ảo). Tôn chỉ của những nhà văn theo trường phái này là mượn cái ảo để miêu tả cái thật, hay cũng có thể là mượn cái thật để chỉ ra cái ảo. Vì dựa vào hai khái niệm vừa song hành, vừa đối nghịch, các tác giả cũng đồng thời bị chi phối một cách vật lý và phi vật lý. Về mặt vật lý, nơi họ sinh ra, lớn lên và tất cả những hệ luỵ của nó tất nhiên có nhiều ảnh hưởng đến cách thể hiện tính hiện thực huyền ảo trong tác phẩm của mỗi người. Chẳng phải vô tình mà Patricio Pron dùng hình ảnh những con bò điên trên đồng cỏ ở miền quê, hay Claudia Hernández cho một thực thể nửa người nửa ma tới lui trong một công sở ở thành thị. Nói khác đi, cái ảo dù sao đi nữa cũng phải được đặt vào một không gian thực nào đó, chẳng khác nào linh hồn của chúng ta—một cái rất ảo—phải trú ngụ trong thân xác là một hiện tượng sinh vật lý, để tồn tại. Còn về mức độ huyền ảo và cách dựng những hình tượng huyền ảo của mỗi tác giả là tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố cá nhân như tính cách, trí tưởng tượng và tài năng thiên bẩm của họ. Cũng trong “Lời Chia Tay Êm Ái”, Patricio Pron còn dùng cái thật để làm ẩn dụ cho cái ảo, hay ít nhất là sự ngờ vực, khi miêu tả gương mặt bị tê liệt một nửa của một nữ nhân vật trong truyện. Khi một nửa gương mặt lành lặn của bà ta mỉm cười, nửa kia hoàn toàn bất động. Các hình tượng khơi gợi lên cái thực và cái ảo kề cận nhau như thế chính là từ những gì rất riêng tư, độc đáo mà mỗi tác giả có thể đóng góp vào kho tàng của nền văn chương hiện thực huyền ảo từ trước đến giờ. Đó cũng là một điều lý thú cho độc giả khi đọc các tác phẩm văn chương từ nguyên bản tiếng Tây Ban Nha. Bên cạnh những màu sắc linh động của ngôn ngữ từ vùng này sang vùng khác, độc giả còn được thưởng thức nét đa dạng của những trường phái văn chương, mà ở đây đặc biệt là trường phái hiện thực huyền ảo, qua các thủ pháp biến hoá linh động từ ngòi bút này qua ngòi bút khác.
Đinh Từ Bích Thuý: Bản Anh ngữ cho Hàm Răng Kể Chuyện (The Story of My Teeth) của Christina McSweeney đã thêm vào phần “The Chronologic” không có trong nguyên bản La historia de mis dientes của Luiselli, nhưng đã được tác giả Luiselli công nhận như một “biến tấu” thú vị và cần thiết cho bản dịch. Phần “Chronologic” của dịch giả McSweeney, theo tác giả Luiselli, là “bản đồ, chỉ mục, phê bình, và giải mã”— coi như cách đối thoại trực tiếp với nguyên bản, chứ không phải là phụ chú —“để truất phế khái niệm truyền thống về sự vô hình của dịch giả và cũng là một khẳng định cho sự tương tác giữa dịch giả, tác giả, và văn bản.” Anh có đồng ý với nhận xét này của Luiselli hay không?
Trần C. Trí: Khác với một thông dịch viên—người có nhiệm vụ theo sát những gì được nói ra để chuyển ngữ một cách chính xác, gần như là một cái máy (tất nhiên là cũng phải uyển chuyển phần nào về mặt văn hoá nói chung), người dịch thuật là chiếc cầu nối giữa một nguyên tác và độc giả. Mối quan hệ đó thật ra phức tạp hơn là chúng ta nghĩ, cũng như Luiselli đã nhấn mạnh đến sự tương tác giữa ba đối tượng là tác giả, văn bản và độc giả. Như vậy, người dịch cũng phải coi trọng chiếc cầu nối giữa tác giả và tác phẩm nữa. Là một người làm công việc dịch thuật, ai lại không muốn dịch phẩm của mình “hiện hữu,” được coi như thành quả một công trình mồ hôi nước mắt (nghề chơi cũng lắm công phu, huống hồ gì là nghề… dịch!) Tôi rất thích thái độ cởi mở của tác giả Luiselli, thái độ tôn trọng dịch giả, vì chắc bà cũng hiểu, dịch giả có tôn trọng và ngưỡng mộ tác giả và tác phẩm đến chừng nào mới bỏ ra thời gian và công sức để làm công việc chuyển ngữ. Thái độ tích cực của tác giả và dịch giả không khác gì một thoả thuận ngầm để có được sự hợp tác nhịp nhàng giữa hai bên. Được như thế, những độc giả có thể đọc cả nguyên tác lẫn bản dịch sẽ có dịp so sánh và thưởng ngoạn gấp đôi tất cả những nét đẹp, những điều thú vị mà cả hai văn bản, với hai ngôn ngữ, hai phong cách cùng đem lại.
Đinh Từ Bích Thuý: Có phải tinh thần sáng tạo về bản dịch cũng là yếu tố đã gây cảm hứng cho anh để sáng tác “Đoạn Kết Khác của Người Dịch” cho truyện “Ma Sống” của Claudia Hernández? “Đoạn Kết Khác” của anh có nên được xem như một lời bàn, hay cách dịch/đọc truyện hầu nới rộng tầm hướng của “Ma Sống,” từ khía cạnh ngụ ngôn/chính trị/gần như khoa học giả tưởng của hiện thực huyền ảo (dùng ẩn dụ về ma sống để bình phẩm về nhân quyền trong một xã hội tư bản) đến khía cạnh kinh dị cũng là của hiện thực huyền ảo nhưng nghiêng về khía cạnh giải trí của phim ảnh và truyện tranh comics nhiều hơn?
Trần C. Trí: Chúng ta ai cũng có lần nghe qua câu “Dịch là phản,” bắt nguồn từ tiếng Ý (“Traduttore – Traditore”), rồi qua tiếng Pháp (“Traduire, c’est trahir”— tam sao thất bản, vì hai danh từ trong tiếng Ý đã biến thành hai động từ trong tiếng Pháp, ai dịch câu này nghe cũng rất “phản”, ít nhất là về mặt hình thức!) Tuy nhiên, cũng không hẳn câu này thật sự hàm ý quá đáng như vậy. Tôi nghĩ ai nói thế chắc chỉ để nhắc nhở những người làm công việc dịch thuật nên hết sức cẩn trọng, vì ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là ngôn ngữ, mà còn kéo theo bao nhiêu hành trang cồng kềnh khác như văn hoá, xã hội, lịch sử, địa lý, khoa học, tôn giáo, tuổi tác, giới tính… Nếu được nói lên quan điểm cá nhân, tôi sẽ mạn phép đổi câu tiếng Ý thành “Traduttore – Recreatore”. Quả thế, nếu tác giả là người sáng tạo thì dịch giả là người sáng tạo thêm một lần nữa. Dịch giả không phải như Google Translate, chuyển một chữ, một câu từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác một cách máy móc, vô hồn. Một mặt, dịch giả phải vận dụng cùng một lúc nhiều kỹ năng về từ vựng, cú pháp, bút pháp, phép tu từ… về mặt ngôn ngữ. Mặt khác, dịch giả còn phải uyển chuyển để dung hoà những “hành trang cồng kềnh” như đã nói ở trên giữa nguyên tác và bản dịch. Có thể dùng hình ảnh của một người đi dây, cầm một cây sào dài để giữ thăng bằng trong khi đi qua hết sợi dây đó, để mường tượng ra công việc đầy thách thức của một người dịch thuật. Một bản dịch phải hài hoà về mọi mặt, lời văn, lời đối thoại, không được quá “tây”, mà cũng không thể quá “ta”, chỉ cần chênh về bên nào một chút thôi là độc giả đã không thấy hài lòng. Làm được những điều như vậy, tưởng cũng là sáng tạo một lần nữa rồi.
Về “đoạn kết khác” mà tôi thêm vào truyện “Ma Sống”, có thể nói đó là một sự tái sáng tạo khá táo bạo, gần như “khiêu khích” nguyên tác như cô đã nói ở phần trên, tuy thật tình tôi không hề có ý đó. Số là khi dịch đến cuối truyện, tôi thấy đoạn kết của tác giả làm cho mình khá ngỡ ngàng vì thấy nó gượng ép thế nào ấy. Tất nhiên đây là một câu chuyện xây dựng trên nền tảng hiện thực huyền ảo, tác giả có quyền đưa độc giả đến đâu hay bằng cách nào cũng được. Lúc đó, tôi chợt nghĩ đến nhiều cuốn phim mà trong phần sau, đạo diễn có thêm vào một “alternative ending”. Tôi mới nảy ra ý tại sao mình không làm như vậy đối với câu chuyện này, nhất là thời điểm tôi hoàn tất truyện dịch này lại nhằm vào lễ Halloween, làm câu chuyện trở nên kinh dị hơn một chút chắc cũng hợp thời hợp cảnh. Tôi thấy cách bà lão trong truyện làm cô gái trở lại nguyên vẹn hình hài bằng những đoá hoa thơm và những lời kinh hay câu hát có vẻ hơi khiên cưỡng. Tại sao mình lại không làm nó thực tế hơn, dù chỉ là là thực tế huyền ảo? Tôi nghĩ, “lấy thịt nuôi thịt” nghe có vẻ dễ thuyết phục hơn, để cho cô gái ăn từng phần thịt, từng phần lục phủ ngũ tạng của bà lão (và độc giả có thể tưởng tượng ra rằng, trong khi cô gái đang hồi sinh thì cũng là lúc bà lão đang chết dần chết mòn). Tôi muốn dùng đoạn kết này để làm ẩn dụ cho một trong những cách sinh tồn trong xã hội. Cái được của người này có thể là cái mất mát của người khác. Và sự hy sinh ngoài sức tưởng tượng của bà lão, thách đố cả thiên nhiên và khoa học, là một tấm gương hy sinh vô vị lợi. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống, dù sao đi nữa, cũng còn có những điều tốt đẹp, làm chúng ta yêu thương và trân quý nó mỗi ngày.
Đinh Từ Bích Thuý: Một số truyện ngắn trong tuyển tập phản ảnh sự xung đột giữa khái niệm trung ương/toàn cầu hóa và văn hóa địa phương, như “Loài Khỉ,” “Con Trai Người Thợ Rèn,” “Giấc Mộng,” “Tấm Thiệp,” “Trong Vườn Mắt Em,” “Căn Chung Cư Số 1,” “Tha Hóa,” “Rác Rưởi,” v.v.
Theo Javier Abril Espinosa (“Trong Vườn Mắt Em”):
“Thời điểm mà tất cả những nhà lãnh đạo trên Trái Đất này, kể cả Hillary [Clinton], ngồi lại với nhau để mong biến nó thành một nơi bình an, giờ đây chỉ là những truyền thuyết đô thị mà người ta bịa ra để quên đi những nhàm chán cố hữu. Thời buổi này đã có một kiểu bình an khác. Đó là cái bình an nằm trong nỗi kinh hoàng thường nhật...”
Và qua bi hài kịch “Rác Rưởi” của Carlos Rehermann, trong đó nhân vật coi có vẻ quan trọng với nhiều máy điện thoại lại là nhân vật bất lực nhất — do không kiểm soát được những sinh hoạt ở địa phương). (Rehermann cũng nhận định trong một bài bình luận rằng cách phân loại “rác” ở Hà Lan không như cách người dân Uruguay định nghĩa rác của mình.)
Tại sao những nhà văn Châu Mỹ La-tinh, (và một nhà văn Tây Phi), lại bị dằn vặt bởi khái niệm toàn cầu hóa? Có phải sự xung đột giữa toàn cầu hóa và văn hóa địa phương cũng phát xuất từ lịch sử bị đô hộ và vấn nạn kỳ thị chủng tộc, do đó giới trí thức/nhà văn ở các nước này không mấy tin tưởng vào lòng hào hiệp vô vị lợi của Mỹ và các cường quốc Tây Âu?
Trần C. Trí: Tôi nghĩ sự dằn vặt của các nhà văn viết bằng tiếng Tây Ban Nha trong tuyển tập này đối với khái niệm toàn cầu hoá có lẽ cũng là cảm xúc chung của những người sống trong thế giới thứ ba, thế giới của những quốc gia còn nghèo đói được khoác lên cái nhãn hiệu hoa mỹ là “các nước đang phát triển.” Việc toàn cầu hoá đem lại cho người dân trong các nước nhược tiểu quyền bình đẳng và những cơ hội tiến thân thì ít, mà xem ra như càng làm cho những cường quốc, những đại công ty tư bản có thêm nhiều quyền lực và lợi nhuận thì nhiều. Sự lấn áp về kinh tế hay tài chính còn kèm theo cả những áp đặt bất công về văn hoá, ngôn ngữ hay chính trị. Người dân ở những địa phương càng nhỏ, càng “xa mặt trời” bao nhiêu thì cuộc sống của họ trong thời đại toàn cầu hoá càng “rét mướt” bấy nhiêu. Hình ảnh, sản phẩm hay lối sống của các nước giàu có du nhập vào các nước nghèo khó đã đem lại biết bao nhiêu là ảo tưởng cho người dân ở những nước này. Nhân vật xưng tôi trong “Giấc Mộng” đã mất đi tất cả, những truyền thống địa phương tốt đẹp, quê hương làng mạc, tình yêu, và cuối cùng là sự sống của chính mình, chỉ vì đã chạy theo những giá trị “mới” của tiến trình toàn cầu hoá, mà người ta đã ru ngủ những người dân quê thật thà chất phác như anh bằng cách vẽ ra bức tranh của “thế giới bây giờ giống như một ngôi làng nhỏ.”
Nỗi dằn vặt đó lại càng sâu xa hơn ở những ai đã từng nếm qua nhiều cay đắng trong chế độ thực dân hay đã từng là nạn nhân của nạn kỳ thị màu da. Họ như những con chim bị thương sợ cành cong, lúc nào cũng lo sợ không biết lịch sử có lặp lại trên đất nước của họ chăng. Thấy nhiều thế lực kinh tế và chính trị từ những cường quốc mới đang hiện diện trên quê hương họ, họ lo lắng tự hỏi đây có phải là một thứ chủ nghĩa thực dân mới hay không. Toàn cầu hoá là những chiếc vé cho nhiều người thuộc chủng tộc có màu da “thượng đẳng” ngang nhiên đến những nơi xa xôi hẻo lánh, để rồi những thổ dân da màu ở các nơi đó phải chịu nạn kỳ thị chủng tộc ngay trên mảnh đất của mình. Nhân vật Boby trong “Tha Hoá” là một ví dụ điển hình. Anh đã trả một giá đắt đốm để chối bỏ căn cước và bản sắc của mình, phải bỏ xứ mà đi, để rồi cuối cùng phải cay đắng nhận ra rằng anh chỉ có mất mát mà không nhận được gì cả.
Đinh Từ Bích Thuý: Qua vị trí là một dịch giả/giáo sư ngữ học, có bao giờ anh bị “dằn vặt” về tình trạng toàn cầu hóa của Anh ngữ khi đối chiếu với các văn hóa, ngôn ngữ khác, như Tây Ban Nha, Việt ngữ? So với Việt ngữ, Tây Ban Nha có nên được xem như một ngôn ngữ toàn cầu hóa hay không? Thế nào là toàn cầu hóa, và thế nào là địa phương/ngoài lề?
Và theo anh, vị trí lưu đày vĩnh viễn của “hồn ma Bồ Đào Nha” hoặc của anh hùng xa lộ “Carretera” đấu giá bằng cách tái chế mọi thượng vàng hạ cám của văn hóa Tây Âu theo quan điểm cá nhân rất “lộng ngôn” của mình có phải là những giải pháp cho sự xung đột giữa toàn cầu hóa và địa phương?
Trần C. Trí: Về phương diện ngôn ngữ, tôi không thấy bị “dằn vặt”— chữ của cô dùng trong câu hỏi—về tình trạng toàn cầu hoá của tiếng Anh. Trước hết là vì tôi đã sống hơn nửa đời người tại Hoa Kỳ, cái nôi của Anh ngữ, không có được cảm nghiệm của những người sống ở những quốc gia nơi tiếng Anh mới là cơ hội tiến thân hơn là ngôn ngữ bản xứ. Thứ đến, từ quan điểm ngôn ngữ–xã hội học, tôi cho rằng tình trạng toàn cầu hoá của tiếng Anh—hay nói khác đi, tiếng Anh là một lingua franca trên toàn thế giới—là có lợi về mặt kinh tế và khoa học cho những người sử dụng nó, hơn là cái hại về văn hoá và chính trị mà nó có thể mang lại. Chính sách của Hoa Kỳ hay can dự vào nội bộ của các nước khác (trong các cuộc chiến Triều Tiên, Việt Nam, Afghanistan, Iraq, v.v.), thường bị những người cộng sản Việt Nam trong thập niên 70 nói mỉa mai rằng đó là chính sách của một “tên sen đầm quốc tế”. Tuy nhiên, phải công bình mà nói, người Mỹ có thể muốn gây ảnh hưởng của họ đối với một số nước khác về nhiều phương diện, nhưng rõ ràng là họ không có ý muốn “bành trướng” tiếng Anh ra những nơi đó. Tiếng Anh, nếu có đi chăng nữa, cũng chỉ là một “phó sản” tự nhiên của chính sách hay can thiệp của Hoa Kỳ.
Theo thống kê năm 2021 của viện ngôn ngữ Berlitz, tiếng Tây Ban Nha xếp thứ tư trên thế giới về số người nói—hơn 500 triệu người—(sau tiếng Anh, tiếng Quan Thoại và tiếng Hindi—tiếng Việt không nằm trong danh sách “top ten” này). Về địa lý, tiếng Tây Ban Nha được sử dụng như là ngôn ngữ chính thức trên ba lục địa: Châu Âu, châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Theo tôi nghĩ, một ngôn ngữ xếp hạng cao về số người nói và trải dài về địa lý không nhất thiết là một ngôn ngữ đã được toàn cầu hoá. Có thể hiểu khái niệm toàn cầu hoá của một ngôn ngữ ở mức độ thực dụng, ngoài tầm lan rộng về địa lý của nó. Theo định nghĩa này, tiếng Anh phải là ngôn ngữ toàn cầu hoá chứ không phải tiếng Tây Ban Nha, tiếng Quan Thoại hay tiếng Hindi. Cần có những nghiên cứu, thống kê, nhận định rõ ràng hơn để xem có thể xếp những thứ tiếng này vào hạng mục đó hay không. Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ, nếu chúng ta thử đi vào khắp hang cùng ngõ hẻm ở trên trái đất này để làm một cuộc thí nghiệm hết sức đơn giản, chắc kết quả sẽ cho chúng ta thấy là con số người hiểu và dùng chữ OK của tiếng Anh vẫn nhiều hơn là những ai hiểu và dùng những chữ Vale hay Está bien của tiếng Tây Ban Nha chẳng hạn.
Như vậy, định nghĩa một ngôn ngữ địa phương hay “ngoài lề” cũng không khó. Một thứ tiếng không có tầm quan trọng quốc tế, mức độ thực dụng không cao, địa lý không trải dài, ít người hiểu hay sử dụng rộng rãi, hẳn phải là một ngôn ngữ xếp vào hạng mục đó.
Cuối cùng, bàn về “hồn ma Bồ Đào Nha” trong truyện ngắn cùng tên—kẻ vẫn khư khư giữ tiếng mẹ đẻ của mình trên đất khách quê người, hay “anh hùng xa lộ” trong “Hàm Răng Kể Chuyện”—người dùng xảo ngôn để lừa mị những ai ngây thơ tôn sùng các giá trị áp đặt của văn minh Âu Tây—theo tôi thấy, chỉ là những phản ứng cá nhân, lạc loài, ngắn hạn, trong mối xung đột bao quát giữa toàn cầu hoá và quyền lợi của các nước nhỏ/địa phương, chứ không được xem như là những giải pháp cho sự mâu thuẫn có tính cách lâu dài đó. Tuy nhiên, những phản ứng riêng lẻ trong từng tác phẩm đó có thể kết hợp với nhau thành một thông điệp chung, kêu gọi tất cả những ai hằng quan tâm và ưu tư về giá trị nhân bản và đời sống tâm linh của mọi người trên trái đất hãy cùng nhau tiếp tục tranh đấu cho một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn trong điều kiện và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Đinh Từ Bích Thúy: Trước khi kết thúc cuộc nói chuyện hết sức thú vị này, xin anh cho biết tại sao những độc giả Việt nên tìm đọc tuyển tập truyện ngắn Trong Vườn Mắt Em?
Trần C. Trí: Tôi nghĩ những độc giả tìm đến Trong Vườn Mắt Em, trước hết, là những người yêu thích văn chương, mà đặc biệt là văn chương dịch thuật, loại văn chương có thể giúp họ bay bổng đến nhiều vùng đất xa xôi, lạ lùng, vượt qua rào cản ngôn ngữ. Tuyển tập này độc đáo ở chỗ là các tác phẩm được chuyển ngữ trực tiếp từ tiếng Tây Ban Nha, tránh được tình trạng “tam sao thất bản” thông qua những bản dịch tiếng Anh hay tiếng Pháp, giúp người đọc đến chỗ gần nhất của tác phẩm, ngoài việc đọc nguyên tác.
Trong tuyển tập này, người dịch đã làm sẵn một công việc mà nhiều người có thể đã mong muốn tìm thấy, đó là việc tổng hợp những tác phẩm văn chương của thế giới nói tiếng Tây Ban Nha, một trong sáu ngôn ngữ chính thức được dùng ở tổ chức Liên Hiệp Quốc. Thế giới rộng lớn này không chỉ là về ngôn ngữ, mà còn là một nguồn phong phú, bất tận của văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, tư tưởng của những mảnh đất mà trên đó những người dân, dù cách xa nhau về địa lý, vẫn chung nhau với phần còn lại của thế giới về mặt thân phận con người và ước vọng được sống một cuộc đời tươi đẹp trên trái đất này.
Độc giả tìm đến tuyển tập này hẳn cũng là những người yêu tiếng Việt, muốn tìm thấy vẻ đẹp của tiếng nước nhà, để thấy tiếng Việt tự tin sánh vai cùng tiếng Tây Ban Nha, hay bất cứ ngôn ngữ nào khác trên thế giới, để nói lên được hết những sắc màu của cuộc sống và những tâm tình của các nhân vật làm biểu tượng cho mỗi người trong chúng ta.
Cuối cùng, tôi hy vọng tuyển tập này có thể mang lại hứng thú cho độc giả, để tự mình trực tiếp tìm đến ngôn ngữ Tây Ban Nha, học hỏi và trở thành những người dịch thuật trong tương lai. Nền văn chương Mỹ La-tinh, tôi tin chắc, sẽ tiếp tục khởi sắc không ngừng trong những thế hệ kế tiếp, cũng như ngôn ngữ Tây Ban Nha vẫn mỗi ngày mỗi thêm linh động, thiết thực và phong phú, góp phần vào vẻ đẹp chung của ngôn ngữ và văn chương khắp thế giới.
Cám ơn cô thật nhiều đã tạo cơ hội cho tôi nói lên những suy nghĩ và tâm tình, không riêng gì về tuyển tập này, mà còn về những hoài bão mà chúng ta—những người làm nghệ thuật—mang theo trong công việc nhỏ bé của mình.
Đinh Từ Bích Thúy: Cám ơn anh đã dành thời giờ quý báu trò chuyện về ngữ học, văn chương Tây Ban Nha, và giới thiệu tác phẩm dịch thuật Trong Vườn Mắt Em với các sáng tác vô cùng đặc sắc và phong phú từ Nam Âu, Tây Phi, và Châu Mỹ La-tinh.
Đinh Từ Bích Thuý thực hiện, với sự tham gia của Trần C. Trí.
18/08/2022
Nguồn: http://www.hocxa.com/VanHoc/TacGia-1/TranC.Tri-DoiDienVoiNhungBienHoaMuonMau_DinhTuBichThuy.php