Như ta đã biết, để chuẩn bị "Ăn Tết" theo tục lệ của đời Đường Tống dân chúng đã chuẩn bị bắt đầu từ đầu Tháng Chạp rồi. Như trong truyện võ hiệp Hiệp Khách Hành của nhà văn Kim Dung, hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã phát lệnh bài để mời các chưởng môn hay người cầm đầu bang hội đi đến Đảo Hiệp Khách để ăn "Cháo Lạp Bát".
Lạp 臘 là Lạp Nguyệt 臘月, ta gọi trại đi là Tháng Chạp, là tháng 12 Âm lịch, tháng cuối cùng trong năm. Bát 八 là số Tám, là ngày Mùng Tám; nên Lạp Bát 臘八 là ngày "Mùng Tám Tháng Chạp". Cháo Lạp Bát là Cháo được nấu vào ngày Mùng Tám tháng Chạp. Đó là loại cháo được nấu bằng tất cả nông phẩm mà cuối năm thu hoạch được, như các loại gạo, các loại đậu, cải khô, nho khô...
Sau lễ Lạp Bát thì bắt đầu quét dọn nhà cửa từ trước tới sau cho sạch sẽ ngay ngắn để chuẩn bị "Quá Tiểu Niên" là "Ăn Tết Sớm" vào ngày 23 và 24 tháng Chạp, cũng là ngày cúng tế đưa tiễn Táo Quân lên Trời. Nên sau ngày đưa ông Táo về Trời thì không còn quét dọn gì nữa cả và tất cả các bàn thờ cũng khỏi thắp nhang, cho đến ngày 30 Tết cúng Rước Ông Bà về Ăn Tết mới thắp nhang trở lại.
Vì cúng tế Táo Quân là "Ăn Tết Sớm" nên những nhà khá giả cúng rất long trọng, và khi cúng xong thì mời cả bà con lối xóm đến cùng Ăn Tết cho vui. Ta đọc bài thơ《Tế Táo Dữ Lân Khúc Tán Phúc 祭灶與鄰曲散福》của Lục Du 陸游 (Lục Phóng Ông 陸放翁) đời Nam Tống dưới đây thì sẽ rõ:
祭灶與鄰曲散福 Tế Táo Dữ Lân Khúc Tán Phúc
已幸懸車示子孫, Dĩ hạnh huyền xa thị tử tôn,
正須祭灶請比鄰。 Chính tu tế Táo thỉnh tỉ lân.
歲時風俗相傳久, Tuế thời phong tục tương truyền cửu,
賓主歡娛一笑新。 Tân chủ hoan ngu nhất tiếu tân.
雪鬢坐深知敬老, Tuyết mấn tọa thâm tri kính lão,
瓦盆酌滿不羞貧。 Ngõa bồn chước mãn bất tu bần.
問君此夕茅檐底, Vấn quân thử tịch mao thiềm đễ,
何似原頭樂社神. Hà tự nguyên đầu lạc xã thần?
Lục Du thi nhân đời Tống
*Chú thích:
- Lân Khúc 鄰曲: là Lối xóm, là Bà con hàng xóm như từ Tỉ Lân 比鄰 bên dưới.
- Tán Phúc 散福: là Cúng xong rồi chia đồ ăn hay mời mọi người cùng ăn, gọi là Tán Phúc, là phát tán cái phước cho tất cả mọi người.
- Huyền Xa 懸車: là Treo cái xe lên (không đi nữa); ý mói đã Về hưu.
- Hoan Ngu 歡娛: là Vui chơi giải trí.
- Tọa Thâm 坐深: là Ngồi sâu, ngồi sát vào lưng ghế có dựa.
- Ngõa Bồn 瓦盆: là Cái chậu sành, chậu bằng đồ gốm.
- Lạc Xã Thần 樂社神: Cái niềm vui khi cúng thần làng, đình thần.
* Nghĩa bài thơ:
Cúng Táo Quân Cùng Ăn Tết Với Chòm Xóm
May mà ta đã về hưu rồi nên mới có dịp để tỏ bày cùng con cháu. Vừa đúng lúc phải cúng tế Táo Quân và mời chòm xóm cùng Ăn Tết. Đây là cái phong tục của cuối năm đã được truyền tụng lâu đời rồi. Chủ khách cùng vui chơi với nhau trong tiếng cười của năm mới. Những người tóc mai trắng như tuyết được mời ngồi một cách trịnh trọng để tỏ lòng kính trọng người già. Bồn chậu đựng đồ ăn và rượu đều được châm đầy nên cũng không thẹn vì nghèo túng. Thử hỏi bạn rằng đêm nay ngồi dưới mái hiên của căn nhà cỏ nầy, có được vui như lúc ban đầu khi ta cúng tế đình làng hay không?
* Diễn Nôm:
Tế Táo Dữ Lân Khúc Tán Phúc
Ăn Tết Sớm
May đã hồi hưu với cháu con,
Đúng khi tế Táo đãi cùng thôn.
Cuối năm phong tục xưa truyền lại,
Chủ khách cười vui mới hãy còn...
Kính lão tóc mai đà bạc trắng,
Không hiềm rượu thịt mãi đầy luôn.
Dưới hiên mái lá đêm nay nhậu,
Vui có như khi cúng Xã Thần?
Lục bát:
Về hưu tỏ với cháu con,
Nhằm khi tế Táo xóm thôn đãi đằng.
Cuối năm phong tục đã hằng,
Cùng nhau chủ khách bao lần cười vui.
Tóc mây kính lão mời ngồi,
Đầy mâm rượu thịt đãi người chung quanh.
Đêm nay mái lá nhà tranh,
Có vui như lúc tế đình khi nao?
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Trong khi Lục Du tế Táo với cháu con và hàng xóm một cách vui vẻ trong tuổi già khi đã hồi hưu, thì Tôn Tung cũng là một thi nhân đời Tống vì chữ công danh mà còn kẹt lại ở kinh thành không thể về quê để tống tiễn Táo Quân và đón Tết được. Ta cùng đọc bài thơ "Hành Đô Tiền Tuế 行都錢歲" của Tôn Tung 孫嵩 sau đây:
插架餘殘曆, Tháp giá dư tàn lịch,
挑燈憶故鄉。 Khiêu đăng ức cố hương.
年光蛇赴壑, Niên quang xà phó hác,
羈旅雁随陽。 Ký lữ nhạn tùy dương.
禁闕迎儺鼓, Cấm khuyết nghinh na cổ,
鄰街祭灶香。 Lân giai tế táo hương.
英雄須自力, Anh hùng tu tự lực,
容易鬓毛蒼。 Dung dị mấn mao thương!
Nhìn lên trên giá chỉ thấy tấm lịch sắp tàn tạ. Khêu đèn lên cho sáng lại càng thấy nhớ cố hương. Thiều quang của một năm giống như con rắn đang bò vào hang hốc, chỉ phút chốc là mất tăm. Người lữ hành đang ở xa quê hương muốn được như con chim nhạn bay về nam theo ánh mặt trời ấm áp. Trong cung cấm đang vang lên tiếng trống xua đuổi tà ma xui xẻo để đón mừng năm mới, con đường kế bên lại thoang thoảng mùi hương đưa tiễn Táo quân. Anh hùng vốn phải tự lực cánh sinh, nhưng trước cảnh Tết phải xa nhà nầy cũng dễ khiến cho con người ta bạc đầu lắm lắm!
Càng già, con người ta càng cảm thấy rằng không phải thời gian qua quá mau, mà thời gian càng ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với con người!
* Diễn Nôm:
Hành Đô Tiền Tuế
Lịch tàn trên giá sách,
Khêu đèn nhớ cố hương.
Thiều quang như rắn lượn,
Lòng quê tợ nhạn sương.
Cung cấm vang tiếng trống,
Ngoài phố thoảng Táo hương.
Anh hùng nên tự lực,
Tóc mai tựa tuyết sương!
Lục bát:
Trên tường giá lịch sắp tàn,
Khêu đèn lòng nhớ ngút ngàn quê xa.
Thiều quang như rắn lượn qua,
Theo hơi nắng ấm nhạn xà về nam.
Trong cung trống tế vang vang,
Bên đường tống Táo hương nhang ngạt ngào.
Anh hùng tự lực tự cao,
Tóc mai dễ bạc khác nào tuyết sương.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Nói đến thơ đưa Ông Táo, ta cũng không thể không nhắc đến bài "Tống Táo Thi" của Lữ Mông Chính, người mà trong "Hàn Nho Phong Vị Phú" Nguyễn Công Trứ đã viết như thế nầy:
.... Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cỡi dù che. ...
Sau đây, ta thử tìm hiểu cuộc đời nghèo khó và bài thơ đưa ông Táo nổi tiếng của ông nhé !...
Lữ Mông Chính 呂蒙正 (944-1011), Tự là Thánh Công 聖功, người đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ các chức vụ Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh mất năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 (1011), hưởng thọ 67 tuổi. Truyện kể...
Lữ Mông Chính tế Táo trong phim ảnh
Sau khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi. Lữ Mông Chính cùng mẹ phải tạm trú ngụ trong một lò gạch cũ, làm nghề ăn xin độ nhật.
Một hôm, thấy trước cửa quan Tể Tướng đông nghịt những người, chen chút nhau rất náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để xem, tình cờ một vật gì đó từ trên trời bay xuống rớt đúng vào lòng. Thì ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng là Lưu Nguyệt Nga 劉月娥 đang gieo tú cầu để tìm người hôn phối. Vật bay vào lòng Lữ là trái tú cầu được Lưu tiểu thơ ném từ trên lầu xuống....
Dĩ nhiên là ông bà Tể Tướng không chịu chấp nhận hôn sự nầy, nhưng tiểu thơ Nguyệt Nga thì lại kiên trì chấp nhận từ bỏ tất cả để đi theo Lữ về sống ở lò gạch bể, vì nàng cho đây là duyên trời định và hơn nữa không thể bội tín được.
Cuối năm đó, đến ngày đưa ông Táo, không hiểu là Lữ Mông Chính đã năn nỉ như thế nào mà ông hàng thịt bán chịu cho một miếng thịt đem về luộc để cúng ông Táo. Nhưng khi bà hàng thịt biết được việc nầy bèn mắng cho ông chồng một trận nên thân: "Nó nghèo kiết xác, làm sao có tiền trả mà bán chịu?!". Bà ta tức tốc chạy đến lò gạch, thấy miếng thịt đang luộc dở dang trên bếp, bèn hứ một tiếng rồi vớt lấy miếng thịt đem về!. Đến nước nầy, Lữ chỉ còn biết đổ nước luộc thịt vào tô mà đưa tiễn ông Táo về trời thôi.
Trong khi thắp hương để cúng ông Táo, vì cảm khái trước cái nghèo khó của mình và cũng cảm khái trước cái nhân tình thế thái, Lữ Mông Chính đã làm bài thơ tiễn Ông Táo sau đây:
一碗清湯詩一篇, Nhất oản thanh thang thi nhất thiên,
灶君今日上朝天; Táo Quân kim nhật thướng triều thiên.
玉皇若問人間事, Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
為道文章不值錢。 Vị đạo văn chương bất trị tiền!
* Có nghĩa:
Một bát canh trong cùng một bài thơ, hôm nay ta đưa tiễn Táo Quân về để chầu Trời. Nếu như Ngọc Hoàng có hỏi đến chuyện của dân gian, thì xin ông hãy vì ta mà đáp rằng, văn chương không đáng giá đồng xu cắc bạc nào cả!
* Diễn Nôm:
Một bát nước canh thơ một liên,
Chầu Trời tiễn Táo đến cửa thiên.
Ngọc Hoàng nếu hỏi nhơn gian sự,
Hãy đáp văn chương chẳng đáng tiền!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Câu chót của bài thơ làm ta nhớ đến câu thơ lên Hầu Trời của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
Văn chương hạ giới rẻ như bèo !....
Trở lại chuyện của Lữ Mông Chính, theo truyền thuyết dân gian thì....
....Năm đó, sau khi Táo của các nhà đã báo cáo xong, mà đợi mãi vẫn không thấy Táo của lò gạch nơi Lữ cư ngụ. Mọi người đang nóng ruột, thì thấy Táo của Lữ Mông Chính mặt mà xanh lè, đi cà lếch cà lếch vào chầu. Ngọc Hoàng phán hỏi tại sao, thì được trả lời rằng: "Thần chỉ uống có một tô nước thịt luộc dở dang chưa chín, đã đói lại còn bị... chột bụng nên đi không nổi.", đoạn trình bài thơ của Lữ lên cho Ngọc Hoàng xem. Ngọc Hoàng phán rằng, số của Lữ sẽ đậu Trạng Nguyên vào khoa sau, đừng lo lắng quá! Thần Táo mới năn nỉ rằng: "Anh ta đói quá, sợ sống không nổi đến khoa sau đâu, thôi thì trước sau gì cũng đậu, xin Ngọc Hoàng thương tình. Ngọc Hoàng bèn sai Nam Tào đem sổ sửa lại cho Lữ đậu ngay khoa nầy, vì thế mà Lữ Mông Chính mới đậu được Trạng Nguyên của khoa Đinh Sửu 977 là vậy!
Lữ Mông Chính và bài thơ Tế Táo
Trên đây là theo truyền Thuyết dân gian, chớ thực sự thì... Đằng sau sự thành công của người đàn ông, thường có bóng dáng của một người đàn bà, còn ở đây, đằng sau sự đậu đạt của Lữ Mông Chính, có tới bóng dáng của 2 người đàn bà lận: một là Lưu Tiểu Thơ; hai là bà Tể Tướng Phu Nhân, vì thương con mà lén chu cấp đầy đủ vật chất cho con gái và rể sinh sống, vì vậy Lữ mới yên tâm mà dùi mài kinh sử... chứ đói meo thì làm sao đủ sức mà học hành để đậu Trạng Nguyên cho được!
Đây là ông Tể Tướng xuất thân từ khất cái (Ăn mày) duy nhất của lịch sử Trung Hoa trong đời nhà Tống: Lữ Mông Chính.
*****************
Như ta đã biết, trong bài trước Tế Táo Dữ Lân Khúc Tán Phúc 祭灶與鄰曲散福 của Lục Du 陸游. Sau khi tế Táo thì Tán Phúc là mời bà con chòm xóm đến để cùng ăn, cùng chia sẻ phát tán những cái phúc do Táo quân mang đến. Điều nầy giống như là những người nghèo ở nước Mỹ nầy, hằng năm cứ đợi đến ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) để được những hàng xóm khá giả làm tiệc Tạ Ơn bằng Gà Tây và các nông phẩm thu hoạch được, mời đến để cho ăn uống một bửa thật no nê. Không ngờ vào đời Tống, một trong Đường Tống Bát Đại Gia 唐宋八大家 (Tám người giỏi văn học nhất đời Đường và đời Tống) là Tô Đông Pha lúc về già với cuộc sống khó khăn, lại gặp năm thất mùa, củi quế gạo châu. Ông cũng đợi đến ngày tế Táo cuối năm để được hàng xóm đãi cho một bửa no say. Ta hãy cùng đọc bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của ông sau đây sẽ rõ:
北船不到米如珠, Bắc thuyền bất đáo mễ như châu,
醉飽蕭條半月無。 Túy bão tiêu điều bán nguyệt vô.
明日東家知祀灶, Minh nhựt đông gia tri tự Táo,
只雞斗酒定膰吾。 Chỉ kê đấu tửu định phần ngô.
蘇東坡 Tô Đông Pha
* Chú thích:
- Túy Bão 醉飽: Túy là Say; Bão là No; Túy bão là No say.
- Tiêu Điều 蕭條: xơ xác, ít ỏi, buồn vắng, lạnh lùng.
- Đông Gia 東家: là Ông hàng xóm.
- Tự 祀: là Tế tự, cúng bái. Tự Táo 祀灶: là cúng đưa ông Táo về Trời.
- Định 定: là Nhất Định 一定 là Chắc chắn!
- Phần 膰: Còn đọc là Phiền, là Chia phần những đồ cúng tế. Nên Định Phần Ngô 定膰吾. Có nghĩa: Chắc chắn sẽ có chia phần thịt cúng cho ta!
* Nghĩa bài thơ:
- Thuyền buôn ở xứ Bắc không tới, nên giá gạo mắc như là châu báu vậy!
- Chuyện được ăn uống no say đã vắng vẻ hơn nửa tháng nay rồi.
- Ngày mai biết được ông hàng xóm sẽ cúng tiễn Táo Quân, nên...
- Chắc chắn sẽ chia phần cho ta được con gà và đấu rượu! (Mặc sức mà no say một bửa cho thỏa thuê!...)
Tội nghiệp! Tuổi già bị biếm về phương Nam, hết Huệ Châu tới Đam Châu (vùng sông nước của Quảng Đông), lại nhằm lúc hạn hán bệnh tật, không thuốc men, không bạn bè... chỉ sống trông nhờ vào hàng xóm!
* Diễn Nôm:
Bắc thuyền không đến gạo như châu,
Rượu thịt xác xơ nửa tháng sầu.
Hàng xóm ngày mai cùng tế Táo,
Đãi ta gà với rượu đầy bầu!
Lục bát:
Thuyền buôn không đến gạo châu,
Lạnh lùng rượu thịt đã sầu nửa trăng.
Mai ngày tế Táo cuối năm,
Có gà có rượu ân cần đãi ta!
Còn...
Tế tiễn Táo Quân trong nghèo khó, không phải chỉ có Lữ Mông Chính của đời Tống, mà còn có Lỗ Tấn của cuối đời Thanh, đầu đời Dân Quốc.
Lỗ Tấn 魯迅 (25-9-1881--19-10-1936), người huyện Thiệu Hưng, Tỉnh Chiết Giang. Vốn tên là Châu Thọ Nhân, tự là Dự Sơn, Dự Đình, Sau đổi thành Dự Tài. Ông thường mặc một chiếc áo dài giản dị theo truyền thống Trung Hoa. Đầu để trần tóc dựng đứng như bàn chải, râu mép đậm như hình chữ Nhất viết theo kiểu Lệ Thư. Ông là nhà Văn học, nhà Tư Tưởng vĩ đại và là chủ tướng của nền văn hóa Trung Hoa cận đại.
Sau đây là bài Tống Táo Thi ông làm năm Canh Tí 1901 lúc gia cảnh đang sa sút phải cầm cố đồ đạc để sống qua ngày.
庚子送灶即事 Canh Tý Tống Táo Tức Sự
只雞膠牙糖, Chỉ kê giao nha đường,
典衣供瓣香。 Điển y cung biện hương.
家中無長物, Gia trung vô trưởng vật,
豈獨少黃羊。 Khởi độc thiểu hoàng dương.
魯迅 Lỗ Tấn
*Chú thích:
* Giao 膠 là chất Keo, chất Nhựa nên... Giao Nha Đường là Kẹo Mạch Nha.
* Điển 典 là Cầm Cố. Điển Y là Cầm cái Áo.
* Trường Vật 長物: Đồ vật có giá trị, Đồ Quý giá!
* Hoàng Dương 黃羊: là con Dê màu Vàng. Theo sách "Hậu Hán Thư" quyển 62 có "Âm Thức Truyện《後漢書》卷62《陰識傳》kể rằng: Đời Tuyên Đế, có người tên Âm Tử Phương, rất có hiếu lại có lòng nhân từ. Tháng Chạp Hăm Ba, nhà chỉ có một con dê màu vàng cũng làm thịt để cúng Táo. Từ đó về sau bỗng phát tích thành cự phú. Vì thế sau này đến ngày tế Táo, mọi người đều làm dê vàng để cúng theo, lâu dần thành lệ.
* Nghĩa Bài Thơ:
Bài Thơ Làm Lúc Cúng Ông Táo Năm Canh Tý 1901
Chỉ vỏn vẹn có một con gà và chút đỉnh kẹo mạch nha, đó là do vừa đi cầm cái áo mà mua nhang về để cúng đó. Nhà đã không còn vật gì đáng giá nữa, chẳng phải chỉ thiếu có con dê vàng thôi không đâu! (Ý muốn nói là còn thiếu nhiều món để cúng nữa!)
Chắc vì không có được dê vàng để cúng, nên Lỗ Tấn chịu nghèo suốt cuộc đời mình chăng?
* Diễn Nôm:
Tiễn Táo Năm Canh Tý 1901
Mạch nha kẹo với gà,
Cầm áo cúng hoa loa.
Nhà không còn gì quý,
Lấy đâu chú dê già!?
Lục bát:
Con gà với kẹo mạch nha,
Nén nhang cầm áo hoa loa cúng Ngài,
Hết đồ quý giá trong ngoài,
Dê vàng đừng nhắc thêm hoài công thôi!
Nhớ lúc nhỏ, khi gần Tết, tôi đã đọc được một bài thơ "Tống Táo Thi" 送 竈 詩 trên báo để tiễn đưa ông Táo như sau:
送 竈 詩 Tống Táo Thi
麥芽糖餅餞行蹤, Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜祝佯癡且作聾。 Bái chúc dương si thả tác lung.
只有一般應開口, Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩君報我一年窮。 Phiền quân báo ngã nhất niên cùng!
* Chú thích:
1. Đường Bỉnh: là Kẹo bánh. Đường là Đường, mà cũng có nghĩa là Kẹo nữa.
2. Dương: là Giả đò. Tác: là Làm, ở đây có nghĩa là Làm bộ.
3. Si: là Ngây, là Dại. Lung: là Điếc.
4. Nhất ban: là Mạo từ (Article) chỉ: Một Điều, Một Cái.
5. Nhất niên: là Cả năm, suốt năm, chớ không phải Một Năm.
* Dịch Nghĩa:
Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái kiến và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm cho (đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi). Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là.... Cảm phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt cả năm vậy?!
* Diễn Nôm:
Thơ Tiễn Ông Táo
Mạch nha kẹo bánh tiễn chân ông,
Lên đó giả ngây giả điếc dùm.
Chỉ có một điều nên mở miệng,
Rằng ta nghèo suốt một năm ròng!
Hằng năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp, thì dân Việt Nam ta có tục lệ cúng tiễn đưa Ông Táo về trời, người Hoa thì cúng vào đêm 24. Theo câu nói của dân gian là "Quan tam, dân tứ, thuyền gia ngũ", có nghĩa là: Làm quan thì đưa ông Táo ngày 23, dân thì đưa ngày 24, còn những người đi ghe theo cuộc sống thương hồ thì đưa ông Táo ngày 25.
Bỏ qua về xuất xứ của tục lệ nầy, chỉ xét về phần cúng tế. Người Việt và người Hoa ở Việt Nam thường cúng tiễn Táo Quân bằng "thèo lèo", bánh mứt, chè Ỷ... hương hoa trà nước... và giấy tiền vàng bạc kèm theo các hình cò bay ngựa chạy. Ý là để cho ông Táo cỡi ngựa cỡi cò về trời (trong văn học thì cho là cỡi cá Chép), còn "thèo lèo" bánh mứt... là để ăn cho ngọt miệng đặng báo cáo cho ngọt cho tốt với Ngọc Hoàng Thượng Đế về tình trạng gia đình nơi mà ông Táo đang cư ngụ....
Xin được nói thêm về 2 chữ Thèo Lèo.
Thèo Lèo là phát theo âm Triều Châu của 2 chữ Trà Liệu 茶料: là Những Vật Liệu dùng để Uống Trà. Vật Liệu ở đây là chỉ những món đồ ngọt như: Kẹo Đậu Phọng, Kẹo mè đen, mè trắng, cốm, và những viên đậu phọng được áo một lớp đường màu trắng mà ta quen gọi là "Cứt Chuột".
"Thèo Lèo Cứt Chuột" là món ngon dùng để uống trà và là món không thể thiếu khi cúng ông Táo ở quê tôi: Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xán, Phong Điền...
Cầu chúc cho tất cả mọi người đưa tiễn Táo Quân và Ăn Tết Sớm (Quá Tiểu Niên) Vui Vẻ trước khi Ăn Tết Thật (Quá Tân Niên) vào ngày Nguyên Đán sắp tới!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức