
Tựa
Tháng Bảy, Mưa Nguồn Chớp Bể - Phạm Ngũ Yên
1.
Trong khi ở đâu đó, người ta tranh nhau đưa lên những thành tích, những công trình đồ sộ để cầu chứng với đời… thì có một ông già lặng lẽ ôm trong lòng một vết thương. Cũng không ai thấy ông làm sao để tìm được cho mình một chỗ tựa và không phải ngã. Người đàn ông đó chỉ có một bàn viết cùng những trang đêm trang ngày gửi gắm tâm sự mình, cạn cùng xanh và úa vàng cùng mưa nắng. Tôi muốn nói đến người lính Nguyễn Hữu Thời.
Anh vừa gởi tôi bản thảo “Hoa Dại, Tình Người” từ bên kia nửa vòng trái đất.
Mỗi dòng chữ là một vọng âm. Mỗi ước mơ chưa bắt đầu đã trở thành sau cuối.
Người lính từng ước ao mình đi hết một cuộc binh đao, muốn đi qua những tình yêu bốn mùa cây cỏ. Nhưng giữa chừng… thì thua cuộc.
Anh đâu còn là anh như đã từng. Anh đã khác xưa và khó tránh nỗi bồi hồi khi nhớ lại chặng đường đã qua. Nhớ những cơn đau bất chợt trong đời và những lời thầm thì mắc nợ núi sông.
Tập sách, là cách thức để vượt qua nỗi đau để thấy lại niềm vui đang chờ khám phá. Để thấy tự yêu bản thân mình hơn? Chắc vậy?
Trong đề tựa tập sách tự nó đã nói lên một đời thường nhưng lấp lánh. Nó là một màu hoa mông muội, mới vừa thoáng qua nhưng rất đỗi ngọt ngào. Một màu sắc dù nhỏ nhoi, hồn nhiên nhưng thắp trong lòng chúng ta những ấm áp tình người. Như chiếc bánh đêm nóng hổi trên bàn tiệc đời, mời gọi…
2.
Tùy Bút của Nguyễn Hữu Thời còn là tâm sự tự hào của một người lính, giống như bao người lính viết văn khác, từ sau một cuộc chiến tranh giữ nước và sau một đổi đời. Nhưng mọi thứ, gợi lên một cảm giác chuyển mình sống động, như vẻ đẹp bừng nở sau nỗi buồn.
Từng đoản văn được anh chắt lọc câu chữ, cầu toàn, không hề tìm thấy đó đây những hạt sạn thô ráp. Câu văn đầy chất lãng mạn, và giản dị nhưng khiến người đọc phải tự mình khám phá. Và đôi khi, cũng đượm mùi triết lý… (Nơi Trú Ẩn.)
Đọc văn anh, chạm vào đâu cũng thấy nhớ. Anh dẫn người đọc trở lại những địa danh, những đất đai của quá khứ… Nơi mà bạn và tôi, nhiều người cũng từng sống và trải qua – Cầu Đất – Trại Mát – Đà Lạt… (Trên Đó Chập Chùng.)
Đọc văn anh, bỗng hình dung lại tiếng gió nghiêng trên vai áo trận cũ, bạc màu. Người lính trẻ đi qua những năm tháng xanh giờ nhìn lại bỗng thấy già quá đỗi. Một lúc nào bỗng cười cợt cùng tuổi thơ với gia đình nghèo, côi cút – trong một nơi mà anh gọi là mảnh vườn chung… Từng mạch văn đẹp, óng ả, như cánh diều bay trên cánh đồng quá khứ (Cỏ Hoa Cuối Vườn.)
Hay lời tạ lỗi muộn màng với em bé gái từ một ngày ở quân trường Thủ Đức (Rồi Có Một Ngày)
Những suy nghĩ chân quê, nhưng chính vì vậy làm hồn văn trở nên tha thiết vô cùng và cũng ngậm ngùi vô cùng (Thương Tiếc) và (Ý Nghĩ Giữa Khuya.)
Đọc anh, tôi nghĩ mình đang trở lại những mùa đông xưa, những cánh cửa thôi không còn khép mở và lòng đầy gió. Nơi mà cả anh và tôi, đứng ở một góc vườn – chờ em, những người tình mười sáu tuổi.
Rồi biết bao mùi thơm thênh thang từ những cuộc tiễn người ra trận. Tiễn luôn cả những bạn bè nằm xuống… để rồi nghe anh chua chát: “Trong khi vô số những anh em đồng đội đã chết, chúng tôi đã “thành công” trong việc giữ lấy mạng sống của mình…”
Tình bạn, tình đồng đội sau ngày mất nước cùng những cơ duyên đưa họ quy tụ lại với nhau, nơi nhà riêng hay một quán cóc bên đường. Lịch sử dù đã sang trang, nhưng vẫn còn những trái tim ấm đời, ấm người. Họ hiện diện giữa Sài Gòn đã mất tên, thay bằng một cái tên mới, tập nói hoài mà vẫn không quen. Không phải mọi ly rượu hôm đó đều trong veo như những giọt nước mắt? Khi mọi hồi ức quay lui cũng đều là hành trình đẹp và rực rỡ một đời người?
……………..
(Độc Thoại Tháng Ba) và (Vậy Thôi) theo tôi, có lẽ là hai trong trong những bài hay nhứt trong toàn bộ… tùy bút. Những hình ảnh không hài hòa, khập khiễng như cuộc đời đang giấu kín, đang là những suy tư đau đớn muốn nhắc hoài một giấc mộng.
3.
Nguyễn Hữu Thời là một người lính tài hoa vừa biết làm thơ, biết viết văn và biết vẽ. Thứ nào cũng “đạt”… Bây giờ có thêm nghề dịch. Nhiều năm trước anh đã dịch sang Anh ngữ hai tập thơ về lính của mình (Thơ Lính Chiến Miền Nam/ ARVN Soldiers’ Poetry và Thơ Những Người Thua Cuộc/ Poems of the losers.) Một nhà văn sống bất phùng thời, đang trôi giạt giữa chợ đời chữ nghĩa.
Tác phẩm trước mắt tôi đã như một một nỗi buồn rất cũ của một người. Nơi đó cũng là những cơn mưa ngày, mưa đêm, chưa hề từ biệt mà đi… Nơi mà con chữ lạc vần trăn trở, muốn quay lưng với người viết, nhưng vẫn không thể rời, mới ngộ?
Tôi rất phân vân và buồn khi biết anh trong hoàn cảnh không thể tự in tác phẩm cho mình. Không thể thấy tận mắt và ôm trên tay đứa con tinh thần – những bài tình thơ nửa cuộc đời duyên nợ…
Càng không biết phải làm sao nói về anh, chuyện lỡ làng của một người viết văn gởi gió lên trời. Ước mong “góp sức chút ít” (Để Cho Tâm Hồn Nhẹ Nhàng) – là một mong ước quá đổi khiêm nhường của tác giả. Tôi nghĩ người đàn ông từng ngược gió để bay qua bảy sắc cầu vồng, chắc trái tim sẽ lớn lao hơn một cơn mưa rào mùa hạ.
Cũng không cần thiết để nói lời tụng ca. Vì với anh “Viết văn, là bắt đầu một đời sống khác, dù đời sống đó không dính dáng đến văn chương…”
Anh nói, là: “muốn bỏ chúng lại phía sau, như người quản thủ già xếp tàng thư vào trong kho sách của một thư viện cũ, rất vắng khách…”
Nghe mà chạnh lòng!!!
Phạm Ngũ Yên
Austin Tháng Bảy, 2025
Austin Tháng Bảy, 2025
oOo
Bạt
Nguyễn Hữu Thời, Những Chuyện Ngoài Văn Chương - Lê Mai Lĩnh
Loạn bút
LML
LML
Từ bên quê nhà, cách xa nửa vòng trái đất, ông mail, nhờ tôi viết cho ông, đôi dòng, về đứa con tinh thần thứ năm của ông, tập tùy bút Hoa Dại, Tình Người.
Ông còn lưu ý, anh khen vừa thôi, khen nhiều, tội nghiệp cho tôi.
Vâng. Tôi y lệnh. Sẽ không khen, nên tôi sẽ không viết gì cả.
Nhưng tôi sẽ viết, những chuyện ngoài văn chương.
I/ Nguyễn hữu Thời, kẻ chiến thắng trong tình trường.
Mãi tới năm 53 tuổi, 2006, ông mới lập gia đình.
Điều này có nghĩa là, những năm trước đó, ông bị gái chê hay ông chê gái.
Nhưng ông, dẫu lù khù, ông vẫn ôm được cái lu, mà chạy.
Đó là năm 2005, năm ông gặp chị nhà, một người thiếu nữ người Hoa.
Vậy là, không phải cái lu, mà là một lô độc đắc.
Những người đàn ông làm thơ, gặp chị nhà, là người Hoa, đều là những người trúng lô độc đắc.
Một Thái Tú H. Bà Ái C. là lô độc đắc.
Một Trần Trung Đ. Bà Trần P. là lô độc đắc.
Một Thanh Đ. Chị nhà là lô độc đắc.
Một Nguyễn Hữu Thời, không khác.
Năm sau ngày trăng mật, chị tặng ông một cậu con trai, cũng có thể nói, là cặp đôi, lô độc đắc.
Truyền thống người Hoa, họ kỵ gả con gái cho trai VN.
Bốn ông thi sĩ này, đã làm vẻ vang dân tộc, Đại Cồ Việt.
Và nhờ 4 bà vợ người Hoa này, văn học VN có 4 chàng thi sĩ xịn, và gia đạo ấm êm, để các gã sáng tác rất hung.
II/ Nguyễn Hữu Thời, từ một cậu bé tí hon, trở thành một người cầm bút khổng lồ.
Ông sinh năm 1953, tại Saigon, con trai út trong gia đình 6 anh em toàn trai, mẹ mất năm 1 tuổi, năm lên 7, cha tục huyền, có mẹ kế…
Nhập ngũ tháng 9/1972, ngay sau mùa hè đỏ lửa, tốt nghiệp khoá 3/73 Thủ Đức tháng 12/1973, phục vụ đơn vị tác chiến (tiểu đoàn 469/ĐP, tiểu khu Vĩnh Long) đến 1/5/1975, chức vụ Trung Đội Trưởng, rồi Sĩ Quan Không Trợ, đã chiến đấu ở Vĩnh Long, Chương Thiện…, đã bị thương 1 lần.
Xem qua tiểu sử, không thấy có báo hiệu gì, về một nhà văn “nhớn”.
Nhưng mà, thầy chạy, nếu không có ông Trời, thì khó lòng, ông chuyển, từ nhà văn “nhớn” qua nhà văn “lớn.”
Ông đã mày mò, mạy mọ, miệt mài, mải miết, may mắn, mải mê, trong âm thầm, dấu vợ, dấu con, trong đêm muỗi đốt, trong ngày, mồ hôi nhễ nhại, cho ra đời, trình làng, 4 tác phẩm văn chương:
1/ Thơ Lính Miền Nam (ARVN Soldiers poems) NXB Tiếng Quê Hương, Virginia/USA/ 6, 2016.
2/ Thơ Những Người Thua Cuộc – Poems of The Losers, tập thơ song ngữ. NXB Sống, Westminster, California, USA. 2019.
3/ Trong Cuộc Đao Binh, bút ký, NXB Nhân ảnh, năm 2021.
4/ Mưa Buồn Chiều Cũ, tập thơ, NXB Hiên Thư Các, năm 2023.
Riêng “Thơ Những Người Thua Cuộc” (Poems of The Losers) gồm 120 bài thơ của 50 tác giả, 50 người lính VNCH, ông âm thầm tuyển chọn, dịch thuật, gồm:
Chu Vương Miện, Dư Mỹ, Đăng Nguyên, Đức Phổ, Hà Thúc Sinh, Hạ Quốc Huy, Hoa Nguyên, Hoài Ziang Duy, Hoàng Lộc, Hồ Chí Bửu, Hồ Minh Dũng, Huy Uyên, Lâm Chương, Lâm Hảo Dũng, Lê Mai Lĩnh, Luân Hoán, Lữ Quỳnh, Mường Giang, Nguyễn Dương Quang, Nguyễn Đăng Trình, Nguyễn Đông Giang, Nguyễn Hữu Nhật, Nguyễn Hữu Thời, Nguyễn Hữu Thụy, Nguyễn Nam An, Nguyễn Ngọc Nghĩa, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Phúc Sông Hương, Nguyễn Tư, Nguyễn Văn Ngọc, Ngô Đa Thiện, Ngô Đình Khoa, Như Không, Phạm Quang Ngọc, Phạm Văn Bình, Phan Ni Tấn, Phan Xuân Sinh, Phương Tấn, Quan Dương, Thái Tú Hạp, Thiếu Khanh, Thy Lan Thảo, Trang Châu, Trạch Gầm, Trần Đình Thao, Trần Hoài Thư, Trần Thanh Ngọc, Trần Văn Sơn, Trần Vấn Lệ, Trần Yên Hòa.
“Điều đặc biệt là những bài thơ này đã được làm ra trong bóng tối nhà tù, sau hàng rào kẽm gai trại tập trung, sau những cơn đau của bệnh tật, những đợt hành hạ của gông cùm… hoặc trên những nẻo đường mưu sinh…”
Tác phẩm thứ 5 mà ông muốn in là Hoa Dại, Tình Người. Tập tùy bút gồm 20 đoản văn:
1/ Hoa Dại, Tình Người/ 2, Nơi Trú Ẩn/ 3, Ngoại Ô Còn Đó/ 4, Trên Đó, Chập Chùng/ 5, Cỏ Hoa Cuối Vườn/ 6, Rồi Có Một Ngày/ 7, Ý Nghĩ Giữa Khuya/ 8, Thương Tiếc/ 9, Thư Gởi Sydney/10, Mùa Đông Cuối/ 11, Độc Thoại Tháng Ba/ 12, Thơ Cảm/ 13, Về Ngang Trường Cũ/ 14, Ngày Đêm Mù Mịt/ 15, Đà Lạt Năm Nào/ 16, Vậy Đó/ 17, Nguồn Giao Cảm/ 18, Từ Đêm/ 19, Ghi Chép Đầu Xuân/ 20, Người Quen Chưa Gặp.
Qua 20 tựa bài, cho chúng ta thấy, ông quan tâm về những vấn đề, sự kiện, chung quanh chúng ta, thiết thân đời ta.
Ông viết: “Tôi viết về những gì tôi nghĩ, tôi cảm xúc, tôi nhớ lại.
Như thế, tôi viết về những điều có thật.
Chỉ những điều ấy thôi, đã khiến tôi, nhiều lúc, mệt mỏi.
Chữ nghĩa của tôi không nhiều. Tôi không có hứng và có sức để viết những câu chuyện tưởng tượng. Tôi chưa bao giờ viết truyện ngắn hay tiểu thuyết là những thể loại hư cấu, không phải sở trường của tôi. Khả năng của tôi có hạn.
Dù là thơ hay văn, tôi cũng chỉ viết về đời sống tôi, cái thế giới của tôi.”
“Văn tức là người”
Ai đó nói thế, nhưng ở ông, tôi thấy ông, thật thà hơn những gì ông viết.
Qua văn, có thể có gì đó làm chúng ta nghi ngại, nhưng khi gặp ông, nghe ông nói, với nhan sắc, tác phong rất đỗi nông dân, chúng ta bị chinh phục ngay, bởi sự thiện lương của con người ông.
Tự nhiên trong tôi có ý nghĩ, ông có thể chạy xe, xích lô máy, chứ không thể là, xích lô đạp.
Cũng trong tôi, thấy ông, không giống một nhà văn nào của Việt Nam, mà là thứ Ernest Hemingway hay Alexandr Solzhenitsyne, hẳn nhiên, tôi muốn nói tới chiều cao ngoại khổ và khuôn mặt sạm nắng, đen đúa, gồ ghề của các ông.
III/ Nguyễn Hữu Thời, người cầm bút xứng đáng được trao một giải thưởng văn chương.
Qua những nỗ lực và thành quả trên, từ một cậu bé tí hon, tới thành một người cầm bút khổng lồ, cá nhân tôi nhận xét thấy, ông là người xứng đáng được trao một giải thưởng văn chương, cho sự nghiệp cầm bút của ông.
Riêng tôi, tôi đã mua vé số, chờ ngày xổ. Nếu, trớt hướt, tôi sẽ cầm vỏ nồi cơm điện, đi khất thực, như nhà sư Thích Minh Tuệ, khắp bốn cõi, 50 bang, Hoa Kỳ, để có tiền trao tặng ông giải thưởng văn chương.
Nếu thua, hẹn ông kiếp sau hay sau nữa.
Nhưng tôi hy vọng thắng.
Tùy bút Hoa Dại, Tình Người, hy vọng sẽ được một NXB quan tâm, nhận in và phát hành trong năm nay, 2025.
Với ông và tôi, trên tất cả, là tình chiến hữu, đã một thời, chung màu cờ, sắc áo.
Tan hàng!
Cố gắng!
Bạn ta, nhà văn, thi sĩ, họa sĩ, dịch giả Nguyễn hữu Thời.
USA, ngày 19/5/2024
Lê Mai Lĩnh
oOo
Vài Cảm Nghĩ Từ “Hoa Dại, Tình Người” Sủa Nguyễn Hữu Thời - Nguyễn Hiền
Một buổi sáng cuối mùa xuân năm đó – cũng đã lâu rồi – tôi cùng anh bạn đi dạo một vòng quanh làng, giới thiệu với anh nơi mà tôi gần như chắc chắn sẽ ở tới cuối đời. Khi ấy mặt trời đã lên ‘khỏi ngọn cây’, ánh nắng sớm mai chiếu xuống những giọt nước long lanh đọng trên thảm cỏ. Anh bạn loay hoay với chiếc máy chụp hình, tôi đứng ngó bầy vịt trời đang rúc rỉa dưới lạch nước…
– Anh xem kìa!
Miệng nói, tay chỉ. Tôi chẳng thấy gì, mọi thứ vẫn yên lặng, thanh bình. Tôi ngó theo hướng mắt anh. Nhưng anh không nói, mà nâng máy, xoay ống kính, bấm. ‘Click’!
– Anh thấy sao? Đẹp không?
Nhìn vào khung ảnh bằng cỡ nửa bàn tay trên máy, tôi phải công nhận anh bạn có con mắt mỹ thuật. Trên bãi cỏ xanh non rải rác đây đó những cọng hoa Anh Túc dại ẻo lả, đỏ thắm, đang đung đưa theo gió. Bao mùa xuân đã trôi qua, mỗi khi đi ngang cánh đồng này, tôi vẫn ơ hờ không để ý. Bây giờ, trong khung kính nhỏ, một bông hoa ngoẹo đầu được thu vào máy, màu đỏ thắm của những cánh hoa mỏng manh, giữa là đốm đen của vòng nhụy, nổi bật lên giữa thảm cỏ xanh long lanh sương đọng. “Cái hình này phóng lớn treo lên tường được,” tôi khen. Anh bạn tôi nói:
– Tội nghiệp mấy cây bông mọc hoang này. Chắc hẳn chúng cũng muốn có bầu có bạn để an ủi nhau, nhưng không biết chúng còn sống được bao lâu nữa, anh nhỉ?
Câu chuyện đã chìm sâu vào quá khứ, cho đến một ngày gần đây, người bạn văn ‘chỉ biết nhau qua email và Facebook’ Nguyễn Hữu Thời nhắn trên messenger cho tôi là tập tùy bút ‘Hoa Dại, Tình Người’ của anh vừa được phát hành. Tôi đã tìm mua ngay, phần ủng hộ tinh thần, nhưng phần lớn vì tò mò muốn biết ông bạn ‘văn người, vợ mình’ (tựa một tùy bút rất thâm thúy của Nguyễn Hữu Thời) ngụ ý gì với cái tựa trên.
Sách tới nhà, đang ngắm chiếc bìa trang nhã với hai bông hoa tím, bỗng dưng kỷ niệm hôm nào chợt ùa về.
Thế là tôi tìm ngay bài tùy bút được tác giả chọn làm tựa sách. Đọc:
“…Chúng mọc tự nhiên, lớn lên theo nắng gió, mang một vẻ đẹp hoang sơ, không kiêu sa, không đòi hỏi…” (Hoa Dại, Tình Người). Câu chuyện xoay quanh một người con gái tên H., có cảm tình đặc biệt với tác giả – hẳn là yêu thầm, một tình yêu đơn phương – và hình ảnh H. đã theo tác giả suốt nhiều năm, trải qua bao thăng trầm trong cuộc đời. H. nói: “…Loài hoa đẹp nhất, đó là những bông hoa dại mà ta tình cờ bắt gặp ở ven đường một hôm nào đó…”.
Tôi ngồi lặng, tưởng đến bông Anh Túc dại năm nào. Tại Tây Âu, hoa Anh Túc đỏ là biểu tượng cho sự tưởng nhớ đến những người lính đã ngã xuống, do hình tượng có được sau Thế chiến thứ nhất: hoa Anh Túc dại là những đóa hoa đầu tiên nở trên những ngôi mộ mới đắp của binh sĩ. Thế rồi tôi lan man nghĩ đến những bông hoàng mai, bạch mai rơi rụng ngày cuối tháng tư dạo đó, như những bó hoa Tết đã xong nhiệm vụ bị tàn nhẫn vất ra vườn sau.
Chợt thấy là những bông hoa dại cũng có người thương, nhớ đến. Như Nguyễn Hữu Thời và (bây giờ là) bà H. Đôi lần thôi, nhưng cũng đủ ấm lòng. Thế đó. Và tôi đã đọc hết cuốn tùy bút, không phải một lần. Tuy có một số bài trong tác phẩm này đã được tác giả cho lên Facebook mà đôi lần tôi tình cờ được xem, nhưng quả thực xem văn trên giấy mang tới cảm giác khác hẳn khi lướt mạng.
Đọc những tùy bút có cái thú riêng, là thấy được sự trải lòng cách tự do của người viết. Tùy bút gần như không bị ràng buộc bởi cốt truyện, cho dù là truyện ngắn. Tùy bút phơi trần những sâu thẳm trong lòng người viết, để cho người đọc muốn hiểu sao thì hiểu.
Ngoài 65 trang được Nguyễn Hữu Thời viết riêng cho những người bạn văn, bạn lính thâm tình, Hoa Dại, Tình Người có 23 ‘tùy bút’ gói gọn trong 88 trang cỡ chữ 12. Tức là mỗi đoản văn có gần 4 trang. Không dễ, vì tác giả không biết ‘tán’. Chỉ hồi tưởng, và nghĩ sao viết vậy. Suốt từng ấy trang, người đọc cảm nhận ngay những điều tác giả viết ra đều là sự thực. Thiết nghĩ tác giả không cần phải minh định trong bài tự sự: “…tôi viết về những điều có thực… Tôi không có hứng và có sức để viết những câu chuyện tưởng tượng.” (Vậy Thôi!). Người đọc nhận ra ngay – qua lời văn chơn chất mộc mạc, sự thẳng thắn của tác giả, những diễn tả đầy chất vui buồn, uất ức, buồn tủi. Và len lỏi giữa những dòng chữ là sự ngậm ngùi cho số phận những người đồng ngũ, đồng cảnh với tác giả. Sự thực là thế đó, nó có thể trần trụi nhưng nó có cái đẹp khác, như cô gái trong bức tranh nổi tiếng của Jean-Léon Gérôme. Đó là những gì Nguyễn Hữu Thời còn lưu lại được trong ký ức và dàn ra những trang sách, khi ông biết là ‘có thể quên’ trong những năm tháng cuối đời.
Văn Nguyễn Hữu Thời không màu mè. Thảng hoặc, nếu có, là vài từ tô điểm thêm cho những ý nghĩ đến bất chợt, phải ghi vội, như sợ chúng biến đi. Những câu ngắn, như lịnh lạc. “Tất cả đã qua. Bạn bè, anh em, nhiều người đã chết. Nghĩa là không còn nữa. Những giấc mơ đã cũ. Tôi vẫn còn đây. Khuya nay. Giờ này là 3 giờ sáng.” (Ý Nghĩ Giữa Khuya). Hoặc: “…Trời sáng dần. Tôi không hỏi gì bạn. Bạn cũng không nói gì… Một ngày mới đã chuyển động. Bạn trả tiền. Chúng tôi đứng dậy, bắt tay nhau.” (Ngày Đêm Mù Mịt).
Nhưng Nguyễn Hữu Thời là người đa cảm. Ông chỉ cứng rắn với những gì ông cho là đúng/sai. “…Họ không biết rằng cư xử như thế: xâm phạm mồ mả ở nghĩa trang này, ngôi nhà chung của những người lính đã chết là xúc phạm đến không chỉ cái giá trị cuối cùng của họ, tức là danh dự, dù họ là người lính thua cuộc, mà còn xúc phạm đến đạo lý của dân tộc. Đó là tội ác.” (Thương Tiếc). Với bạn thơ, ông là một người khác. Nhất là với các nhà thơ mặc áo trận. Chả thế mà ông đã cất công tìm tòi, sưu tập các bài thơ tiêu biểu của những ‘người lính làm thơ’ và dịch mấy trăm bài thơ này sang Anh ngữ, trong hai thi tập song ngữ Thơ Lính Chiến Miền Nam và Thơ Những Người Thua Cuộc đã xuất bản trước đây. Trong Hoa Dại, Tình Người, Nguyễn Hữu Thời đã dành một tùy bút để viết về một người ông rất mến thi tài nhưng không một lần gặp mặt: “…Tôi dò hỏi vài nơi và chẳng người nào cho tôi biết Trần Đắc Thắng là ai. Tôi chỉ biết tự nhủ… vì mình không phải là một nhà biên khảo hay sưu tầm gì cả, để có mối quan hệ rộng rãi…” (Thơ Cảm).
Ông đã dành nhiều trang trong cuốn tùy bút cho những người bạn không những đã long đong trong cuộc chiến mà sau đó còn hứng chịu nhiều dư chấn do chiến tranh để lại. Một Phan Văn Nhẫn, một Thanh Phù Sa và nhất là Trương Lương ‘không thổi sáo’ đã cho thấy những người còn sống sót qua cơn lửa đạn là những người đã gặp những may mắn không ngờ, dù phải đổi lại bằng những vết sẹo thể xác lẫn tinh thần họ mang theo suốt đời. Trong số đó, Nguyễn Hữu Thời có cái may mắn hơn nhiều người khác là ông đã tìm được ‘chỗ xả’: những dòng chữ, những vần thơ. Ông cảm thán: “Trong khi vô số những anh em đồng đội đã chết, chúng tôi đã “thành công” trong việc giữ lấy mạng sống của mình; nhưng sự “thành công” này nào có nghĩa gì, khi mà đất nước đã mất, cùng với sự đau thương, mất mát, hy sinh vô lượng của đồng bào miền Nam…” (Nguồn Giao Cảm).
Ngoài 6 bài trong phần Phụ trang viết riêng cho một số bạn văn thơ chí tình với ông – và là nhà văn nhà thơ ‘thứ thiệt’, Nguyễn Hữu Thời đã ưu ái dành một bài tùy bút riêng cho một người – cũng thích viết, chỉ biết ông qua Facebook và ông cũng chỉ biết người đó qua những comment trên Facebook. Dư Bình, tên người phụ nữ ở Hà Nội, một lần do công việc, “…đã vào Saigon, nhắn tin, mời tôi đi uống nước để hội ngộ. Tôi đã không đi được vì bận việc nhà gì đó…” (Người Quen Chưa Gặp).
Tùy bút dài nhất trong Hoa Dại, Tình Người là Rồi Có Một Ngày, dài 7 trang, xoay quanh một bản nhạc (Một Mai Giã Từ Vũ Khí) cũng là tùy bút lưu lại trong tôi nhiều cảm xúc. Bốn chữ ‘giã từ vũ khí’ được tác giả nhắc lại 10 lần trong tùy bút này, qua những mốc thời gian trải dài suốt mấy chục năm: từ những chàng trai tuổi đôi mươi đang thụ huấn quân sự, tới chuỗi ngày đóng quân nơi một tiền đồn hẻo lánh, những ngày điều trị trong Quân Y Viện, chuỗi ngày bị bó buộc giã từ vũ khí thực sự, “…lần lượt vứt bỏ hành trang của mình” – may là còn giữ được cây bút bi để ghi lại cảm xúc của mình khi xem một clip trên YouTube. Ước mơ có thể tầm thường – giã từ vũ khí để trở về quê sống đời bình dị, nhưng cũng là giấc mộng rất thiêng liêng – ước mơ tìm lại được con người thực của mình, hồn hậu và nhân bản. Nhưng vào thời đó – những năm đầu thập niên 70, những người lính như Nguyễn Hữu Thời cảm thấy không thoải mái với ca từ của bản nhạc. Trong tùy bút này, ông viết: “…mặc dù giai điệu rất thành khẩn và tha thiết, đã không được tôi, và có lẽ nhiều người lính khác yêu thích lắm, mà chẳng hiểu vì sao.” Đọc tới đây, tôi đồng cảm với tác giả, và đúng như ông viết, tôi đã hơn một lần nghe lính chửi tục khi ‘phải’ nghe bài hát được phát ra từ chiếc radio transistor nhỏ xíu, mà người nhạc sĩ vốn nổi tiếng, đã dùng tên con gái mình (Ngân Khánh) thay vì tên thật, có lẽ phần nào cũng muốn tránh búa rìu dư luận. Giờ đây, Nguyễn Hữu Thời đã giãi bày nỗi bực tức của ông: “…Giã từ vũ khí đối với tôi chỉ có nghĩa là bỏ cuộc nửa chừng, nghĩa là què cụt, tật nguyền… Tôi không muốn giã từ vũ khí như vậy…”. Nhưng rồi cuối cùng ông đã phải giã từ vũ khí một cách nát lòng: “…tôi đã lần lượt vứt bỏ hành trang của mình: tấm bản đồ, cái địa bàn, khẩu súng Colt 45. Cứ mỗi món vứt đi, lại nghe có gì cay cay trên mắt.”
Tùy bút nói lên được trọn tâm can của Nguyễn Hữu Thời trong ‘nghiệp văn chương’ (không có “sự” ở đây) của ông, theo tôi là “Vậy Đó!”. Chỉ với 2 trang, người đọc có thể hiểu ông thêm, và mến ông hơn. Tôi không thể trích nơi đây một đoạn tiêu biểu trong tùy bút này, vì làm vậy giống như cắt một góc bức tranh cho người ta xem.
Rất tiếc, các nhà xuất bản chưa nghĩ tới cách bán từng truyện trong tuyển tập, như ta có thể mua từng bản nhạc trong đĩa CD qua mạng.
Nguyễn Hiền
Tiểu sử Nguyễn Hữu Thời

Phạm Ngũ Yên & Lê Mai Lĩnh & Nguyễn Hiền
Nguồn: https://www.caidinh.com/
