User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
Dang Mai Lan photo Nguyen Ba Khanh thumb
Đặng Mai Lan (ảnh Nguyễn Bá Khanh)
 
Về Văn Học Hải Ngoại
 
1. Theo anh/chị, có phải biến cố 30/4/1975 là nguyên nhân phát sinh ra Văn Học Hải Ngoại? Nếu có thể, mong anh/chị nêu lên vài đặc tính của Văn Học Hải Ngoại.
 
Điều hiển nhiên, nếu không có biến cố 30/4 thì người Việt đâu phải lưu vong, lưu lạc nhiều nơi trên thế giới. Đa số những người trong giới cầm bút đều tìm cách vượt thoát khỏi Việt Nam, vì hầu như họ không được chính quyền mới chấp nhận. Với chiến dịch “kiểm kê văn hóa,” những tác phẩm văn học của miền Nam đã bị săn đuổi, hủy diệt. Nhưng tất cả được dựng lại nơi quê hương mới từ sự ra đời của những tạp chí, những nhà xuất bản, và dĩ nhiên đã có đông đảo những cây viết mới. Tôi nhớ hình như cố văn hào Mai Thảo đã dùng bốn chữ “bàn viết lữ thứ” để nói đến hiện tượng này. Hai chữ “lữ thứ” chính là: Văn Học Hải Ngoại.

2. Lấy tiêu chuẩn nào để xác định một tác giả hay một tác phẩm là thuộc về Văn Học Hải Ngoại? Địa lý (trong/ngoài nước)? Chính trị (quốc gia/cộng sản/bất đồng chính kiến)? Ngôn ngữ? Nơi xuất  bản? Hay điều gì khác?
Gần như những yếu tố được nêu trong câu hỏi chính là “chân dung” của Văn Học Hải Ngoại. Đã có những nhà văn trẻ gốc Việt viết bằng ngôn ngữ bản xứ và sự “lưu đày” hiển hiện trong tác phẩm của họ qua nhiều sắc thái. Có nhiều người sau 1975 đi du học, sống, làm việc ở xứ người, họ cũng trở thành những nhà văn nổi tiếng đấy thôi! Nhưng, hình như cái hồn trong những tác phẩm của lớp người sau này, ít, nhiều, cũng có sự khác biệt với những tác giả “tị nạn, lưu vong.”
 
3. Mong anh/chị cho nhận xét về sự khác biệt giữa Văn Học Miền Nam 1954-1975 và Văn Học Việt Nam Hải Ngoại.
 
Để trả lời câu hỏi này, tôi xin được trích một đoạn ngắn trong bài nói chuyện về Văn Học Miền Nam của cố nhà văn Phùng Nguyễn.
 
“… Văn Học Miền Nam 54-75 như là một thực thể văn học bao gồm tất cả những gì bị nhà cầm quyền Cộng Sản chối bỏ, xua đuổi, thậm chí tìm mọi cách để hủy diệt. Nghĩ cho cùng, những điều bị chối bỏ này chính là những giá trị đáng ganh tị của Văn Học Miền Nam, không phải hay sao?
 
Tuy nhiêntôi không chắc lắm là Văn Học Miền Nam 1954/1975 Không bao gồm những gì được người Cộng Sản tiếp nhận. Nền văn học này sinh ra và lớn lên dựa trên những giá trị tự do, nhân bản mà chúng ta trân trọng…”*
 
Riêng cá nhân tôi, xin được hãnh diện với chút lạc quan để nói rằng lớp tuổi chúng tôi (những cây viết sau năm 1975) đã được hưởng một nền giáo dục, hấp thụ những tinh hoa nhân bản của nền văn học đó. Tất nhiên, những giá trị ấy đã và đang tiếp tục phát huy.
 
4. Theo quan sát của anh/chị, có sự giao thoa nào giữa Văn Học Hải Ngoại và văn học trong nước không, và sự giao thoa đó diễn ra như thế nào?
 
“Giao thoa,” hình như điều này có lẽ được nói đến từ lâu. Nhưng với tôi hai chữ này mênh mông quá. Nếu đơn thuần chỉ là sự hội nhập giữa hai luồng văn chương trong và ngoài nước thì tôi ngờ lắm. Thực tế, nó luôn có những giới hạn. Tôi có quen một nhà thơ khá nổi tiếng. Thời ấy cô có tên trong ban biên tập của một tuần báo. Cô nói, tôi có thể viết bài đừng động chạm đến chế độ (được gọi là nhạy cảm) thì gửi về cho cô đăng, có nhuận bút hẳn hoi. Họ cũng muốn có những làn gió mới lạ bên ngoài thổi về Việt Nam. Nhưng cho đến bây giờ, theo tôi biết muốn in ấn phổ biến tác phẩm của mình trong nước, có lẽ những nhà văn hải ngoại phải gian nan “lội sông, leo núi.” Có người phải tự kiểm duyệt, cắt bỏ những gì họ đã viết trước đó.
 
Ngày trước, mỗi lần về VN tôi thường mua sách của những nhà văn bên ấy đọc cho biết. Có những truyện chỉ vài trang là tôi gấp sách, dù văn chương chữ nghĩa của họ rất hay.
 
Bởi hai chính kiến, tôi nghĩ cái gọi là Giao Thoa hay Hợp Lưu rất khó thực hiện đúng nghĩa. Nhưng mới đây, tình cờ coi một đoạn phim YouTube phỏng vấn nhà văn Nguyễn Một, tôi nhờ người bạn mua tác phẩm mới nhất của ông là cuốn Giờ Thứ Sáu Đến Giờ Thứ Chín. Nền truyện là cuộc chiến tranh Việt Nam với nhiều nhân vật. Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Đội Bắc Việt, sinh viên học sinh miền Nam, những thanh niên trốn lính, đặc công nằm vùng, du kích, gái làng chơi, me Mỹ… Tóm lại là Quốc/Cộng đề huề. Cái xấu, tốt của hai bên đều được vẽ thành nhiều bức tranh rõ nét bi-hài. Nhưng truyện cũng khá thơ mộng dựa vào những bài thơ, bài hát của thi sĩ, nhạc sĩ miền Nam được tác giả trích dẫn cho vào truyện. Thi sĩ được nhắc đến nhiều là Nguyễn Tất Nhiên. Thực sự tôi khá ngạc nhiên và cảm thấy có gì đó gần gũi, nhẹ nhàng khi giở từng trang sách. Hình như trong/ngoài đang dần mở ra một cánh cửa chung. Tôi mừng khi thấy những tác phẩm trước 1975 được in lại trong nước. Những tác phẩm giá trị này có bị trầy trụa, méo mó hay không? Tôi nghĩ hẳn phải có.
 
Năm 2016, tôi bị cấm nhập cảnh VN. Trước đó một năm, đã được mời lên văn phòng Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh trò chuyện thân mật, lẫn răn đe nhẹ nhàng. Tôi nghĩ, lý do bị cấm nhập cảnh chỉ vì khi quay lại Pháp, tôi dám “cãi nhau, lý luận” với nhân viên của Cục qua điện thư. Dạo sau này, thấy những tên tuổi cộm cán mà tôi gọi là “đấu tranh chi bảo” đi về VN như đi chợ. Đã bước vào ngưỡng cửa Cổ Lai Hy, tôi nghĩ mình cũng phải về thăm cố hương khi sức khỏe còn cho phép. Nói gì thì nói, tôi cũng còn thương mưa nhớ nắng quê nhà. Tôi làm đơn, làm theo những yêu cầu của lãnh sự quán VN tại Pháp. Nhưng tới bây giờ, đơn xin của tôi vẫn còn nằm trong hồ sơ  “xét lại.” Điều này cũng làm nhiều người ngạc nhiên. Tôi nghĩ, nhà nước cấm tôi về cho bõ ghét. Có người kết luận rằng nhà cầm quyền VN, luôn e dè với những người cầm bút. Người cầm bút ghê gớm vậy sao? Truyện tôi viết thường là truyện tình. Sau này viết tiểu thuyết có thêm chút khói lửa chiến tranh. Có người lính chết trận, cảnh những hầm hố đường sá bị gài mìn, đặt chất nổ. Mâu thuẫn gia tộc giữa bên thắng, bên thua. Chuyện thật mà! Những truyện tôi viết có gì gọi là nguy hại đến an ninh quốc gia? Một nhà báo tự do hiện đang bị cầm tù đã nêu lên điều này khi ông nghe tin tôi bị từ chối nhập cảnh.
 
Nên “giao thoa,” nếu chỉ đơn giản là chung một tấm lòng. Bài trong nước, ngoài nước cùng nhau sánh vai đăng đàn, có lẽ chỉ có trên những trang mạng văn chương. Mà cũng chưa chắc! Tôi đã từng bị làm ngơ, không đăng một truyện ngắn. Người chủ biên không nói ra nhưng tôi đoán vì một lý do cá nhân, họ sợ phiền phức với chính quyền.
 
Giá trị Nhân Bản và Tự Do của nền văn học miền Nam 1954/1975 và bây giờ là Văn Học Hải Ngoại luôn chấp nhận những dị biệt, bao dung. Nói lên điều này vì tôi thấy có những nhà văn trong nước, từng viết truyện vu khống lính VNCH tàn ác dã man, lóc da, xẻo thịt quân thù… Dĩ nhiên, bây giờ họ đã viết khác đi. Và họ đã được ca tụng, khen ngợi trên những trang Văn Chương Hải Ngoại.
 
Về, hòa nhập cùng dòng viết quê nhà không nằm trong ước muốn của tôi. Với tuổi tác thời gian, tôi sẽ mãi mãi đứng bên này bờ Văn Chương Hải Ngoại.
 
Về Hành Trình Viết
 
5. Khi bắt đầu tham dự vào các sinh hoạt văn chương hải ngoại, động lực nào thôi thúc anh/chị tham dự vào những sinh hoạt này, và/hoặc tiếp tục theo đuổi con đường văn chương ở bối cảnh hải ngoại?
 
Nhiều khi tôi tự hỏi, mình có viết được gì không nếu còn ở lại Việt Nam? Thực ra, tôi đã tập tành làm thơ, viết văn từ những ngày còn rất ngây ngô. Và chỉ được một vài bài ngắn trên trang báo dành cho tuổi mới lớn. Qua Pháp, cả hơn một thập niên dài, tôi mới thực sự cầm bút sáng tác. Có lẽ khi đời sống cơm áo được ổn định, đời sống tâm hồn mới dám lên tiếng đòi hỏi những nhu cầu. Trước tiên là lòng hoài hương, thương tưởng về những gì đã mất. Và chữ nghĩa là những tiếng nói thiết thực.
 
6. Văn Học Hải Ngoại đã ảnh hưởng như thế nào đến phong cách và tư tưởng trong sáng tác/phê bình của anh/chị khi mới bắt đầu viết/ hoặc so với thời kỳ anh/chị viết ở Việt Nam?
 
7. Có những nhà văn hay tác phẩm nào đã là nguồn cảm hứng đặc biệt cho anh/chị trong quá trình sáng tác/tham dự vào các sinh hoạt văn chương hải ngoại?
 
Hai câu hỏi này tôi xin được trả lời chung.
 
Tôi đọc nhiều và cũng hâm mộ nhiều tác giả. Vì văn chương đa dạng, mỗi người mỗi cách. Chưa ai nói văn chương chữ nghĩa tôi có “bóng dáng,” phong cách của cố văn sĩ Nguyễn Đình Toàn. Nhưng trong tủ sách nhà tôi, những tác phẩm của ông có một chỗ đứng dễ tìm thấy nhất. Thỉnh thoảng, tôi lấy ra đọc. Và luôn luôn sau khi đọc lại những trang sách cũ của ông, tôi vẫn muốn viết một điều gì đó…
 
8. Trong các tác phẩm của mình, anh/chị thường khai phá những chủ đề nào liên quan đến đời sống người Việt ở hải ngoại? Có tác phẩm nào anh/chị tâm đắc nhất không?
 
Viết với tôi như một cuộc rong chơi. Nhẩn nha trên những con đường khi nắng, khi mưa. Thấy gì viết nấy, tùy theo cảm xúc. “Chủ đề” thường nằm trong “đơn đặt hàng” của chủ biên. Và đôi khi không cần cố gắng, tự nó đã âm thầm nằm trong tâm thức, bật ra và rơi xuống những con chữ.
 
Tôi chỉ có thể nói là tôi thích truyện này, truyện nọ. Nhưng cái “tâm đắc nhất” theo tôi là cái mình viết sau cùng. “Nhất” hôm nay, ngày mai biết đâu lại khác. Trừ khi người viết ngừng không viết nữa. Mà tôi, vẫn đang tiếp tục.
9. Đây là câu hỏi dành riêng cho Đặng Mai Lan: Chị viết truyện ngắn, truyện dài, tuỳ bút, ký…, chị cảm thấy thể loại nào thích hợp nhất với chị? Mong chị cho biết thêm về tiến trình dịch và xuất bản sách sang tiếng Pháp.
 
“Bất cứ một thể loại nào, những bài viết của Đặng Mai Lan luôn thấp thoáng bóng dáng của ‘tùy bút.’”
 
Một văn/thi sĩ đã phê bình như thế. Nhiều người nói chất “thơ” hiển hiện trong văn xuôi của tôi. Tôi nghĩ cũng đúng. Tôi vẫn đùa và khen ngợi những bạn thi sĩ rằng: Có một dúm chữ chút xíu mà dàn trải cả một nỗi lòng. Tôi lắm lời, nhiều chuyện quá, nên tôi không thể thành thi sĩ được.
 
Khi bắt gặp một hình ảnh, một điều gì đó, lòng đầy cảm xúc. Tôi luôn giữ lại nó bằng những câu chữ rất đẹp trong cuốn sổ tay. Có vẻ như nó sẽ là một bài thơ, một tùy bút… Nhưng rất nhiều lần nó lại thành một truyện ngắn, tùy theo sự dẫn dắt trong đầu. Tôi hay bị chữ nghĩa dẫn đi lung tung.
 
Về truyện dịch, với câu hỏi ngoài chuyên đề này, tôi xin phép được dài dòng đôi chút.
 
Tôi vừa cho xuất bản một tập truyện ngắn được dịch qua Pháp ngữ có tựa là La Tache, có thể dịch là “Vết Loang,” tên của một truyện ngắn. Người dịch là Trúc Tiên, một cô bạn trẻ. Tôi biết cô đã lâu, có thể từ lúc cô còn đang ngồi ghế ở đại học Sorbonne. Nhưng chưa có một giao tình nào gọi là thắm thiết giữa chúng tôi. Tôi chỉ tìm đến cô khi biết cô từng làm việc trong ngành xuất bản, biết layout, trình bày bìa sách. Vì những cái “biết” của cô là điều mà tôi mong muốn được giúp đỡ.
 
Qua Pháp khi còn rất nhỏ, thấm nhuần văn hóa Pháp nhưng lại là một diễn viên “Đàn Ca Tài Tử”, Trúc Tiên nổi tiếng ở Paris với môn nghệ thuật cổ truyền mà có thể nói gần như mai một trong thời buổi này. Nhưng ít ai biết cô từng viết tiểu luận cho những tờ báo Pháp. Thỉnh thoảng cô viết những bài phiếm bằng Việt ngữ cho bạn bè đọc chơi. Thông thạo Anh ngữ, nên cô cũng từng dịch những “thèse” trình luận án cho những nghiên cứu sinh nước ngoài đến Pháp du học.
 
Những vở Đàn Ca Tài Tử của cô, luôn có phần diễn dịch sang tiếng Pháp cho những khán giả Pháp hiểu. Mới đây, cô lại cho xuất bản cuốn sách song ngữ Lan và Điệp, kịch bản lấy từ tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng của Nguyễn Công Hoan (1903-1977). Vở ca kịch vừa diễn vào tháng 3 năm nay.
 
Từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác, tôi quyết định giao tập truyện của mình cho cô dịch. Điều mà có lẽ tôi không hề nghĩ tới. Và hành trình từ A tới Z chỉ vỏn vẹn vài tháng. Có lẽ cô có nhiều cảm hứng với văn phong của tôi.
 
Tôi không có tham vọng, mơ ước được bước chân vào nền Văn Học Pháp. Bước đầu tiên là tác phẩm phải được một nhà xuất bản nổi tiếng ở Paris nhận in. Điều không dễ dàng chút nào! Khó mà xác định được tiêu chuẩn chọn lựa của những nhà xuất bản Pháp. Có người nổi tiếng, “đỉnh cao” nghệ thuật của VN, sách vẫn bị từ chối.
 
La Tache ra đời trước tiên là tôi dành cho các con tôi, hậu duệ của mình. Những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trên xứ sở này hiểu được những gì mẹ và bà của chúng đã viết ra. Như một thứ gia sản tinh thần tôi để lại cho chúng, trước khi ra đi vĩnh viễn. Và cũng dành cho những người bạn Pháp.
 
Những người đọc có trình độ cao về ngoại ngữ vẫn cho rằng, đọc một tác phẩm bằng nguyên tác của nó bao giờ cũng hay hơn bản dịch. Hai ngôn ngữ diễn đạt khác nhau. Dịch cho đúng cái “thần thái” của văn phong không phải dễ. Nhưng qua những trao đổi trong khi dịch sách của tôi, tôi tin Trúc Tiên đạt được điều này.
 
Dịch đâu phải dễ! Trong tuyển tập La Tache, có một truyện ngắn tựa là “Cái Đấm.” Hai chữ này đọc ngược lại là “cấm đái.” Một cái tựa đầy lý thú, tinh nghịch mà nhà văn Đặng Thơ Thơ đã gợi ý cho tôi sau khi cô đọc xong nội dung bài viết. Tôi nghĩ, người dịch Trúc Tiên cũng rất lao đao với những phần chú thích.
 
Cám ơn ban biên tập Da Màu cho tôi cơ hội được bày tỏ những suy nghĩ, những chuyện “giờ mới kể.”
 
Đặng Mai Lan
(tháng 7/ 2025)
* Tiểu luận Phùng Nguyễn, trang 267