
René Magritte, Le Retour (Cuộc Trở Về) (Carcassonne, 1940)
Gần đây, tôi đã dịch sang Anh ngữ bài tiểu luận “Mưa Ướt Vị Thành” của Trương Vũ, từ tuyển tập Đuổi Bóng Hoàng Hôn xuất bản năm 2019 của ông.[1] Bản dịch, với tựa Anh ngữ là “The Rain in Weicheng” gợi lại cơn mưa trên đảo Phú Quốc, nơi Trương Vũ thực hiện nghĩa vụ quân sự vào khoảng cuối thập niên 1960, những giông tố lịch sử, và cũng được lấy hứng từ bài hát “The Rain in Spain — do Julie Andrews trình diễn trong vở nhạc kịch “My Fair Lady” trên Broadway vào năm 1957. Trong khi nhân vật Eliza Doolittle trong kịch bị coi là không sở hữu lịch sử hoặc tiếng nói cá nhân trước khi được Giáo sư Higgins “tái sinh” bằng cách cách dạy cho cô cách ăn nói và hành xử của tầng lớp trí thức, thì Trương Vũ, một trí thức hậu thuộc địa, đã có những giải pháp sáng tạo và ôn hòa để xác định nguồn cội và lịch sử của mình. Bản dịch Anh ngữ của tôi đã được một tạp chí văn chương Mỹ nhận xuất bản hè năm nay, để tưởng niệm biến cố Tháng Tư 1975, đồng thời cũng là một hành trình nhìn lại lịch sử 50 năm di cư của cộng đồng Việt hải ngoại.
Trên hết, tôi đã chọn dịch “Mưa Ướt Vị Thành” như một cách giới thiệu Trương Vũ đến độc giả Anh ngữ. Ông là một nhà trí thức quân bình ở cả hai khía cạnh nghệ thuật và khoa học, xứng đáng là một hiện thể của con người Phục Hưng (Renaissance man). Sinh năm 1941, Trương Vũ thấm nhuần ảnh hưởng văn học châu Âu cũng như Hán văn, và có lẽ nhờ căn bản khoa học luôn luôn chất vấn các hiện trạng của đời sống, văn phong của ông lúc nào cũng mang một không khí cởi mở, dung hòa, gần gũi với thế hệ trẻ Mỹ gốc Việt của ngày hôm nay. Điều thú vị là chính nỗ lực mở ra tương lai của Trương Vũ cũng là yếu tố giúp ông có những hành trình trở về, qua hình thức biểu tượng cũng như trong hiện thực, để khẳng định nhân sinh quan của ông.
Có thể nói, “Mưa Ướt Vị Thành” chính là chân dung tự họa của Trương Vũ, qua cách ông minh họa kiến thức và trải nghiệm đa diện của mình: sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, giáo sư Toán, người tị nạn, nhà khoa học NASA, biên tập viên văn chương, nhà văn, và họa sĩ — những trách nhiệm nghề nghiệp của ông cũng trải dài hơn 50 năm, từ thời cao điểm của chiến tranh Việt Nam cho đến những năm ông định cư tại Hoa Kỳ.
Thứ hai, tôi đã chọn dịch “Mưa Ướt Vị Thành” để giúp độc giả Mỹ có một tầm nhìn đa diện hơn về nền tảng văn hóa Việt Nam, cũng như về tầng lớp trí thức và văn nghệ sĩ miền Nam trước 1975, và hoàn cảnh sau 1975 của họ. Do đó, “Mưa Ướt Vị Thành” vừa là một bức chân dung tự họa của Trương Vũ, vừa là chân dung của thế hệ ông, để người đọc Anh ngữ có một hình ảnh phong phú hơn về môi trường văn hóa của Việt Nam Cộng Hòa. Qua nỗ lực chuyển dịch, tôi vừa muốn đẩy hình ảnh Việt Nam về tương lai, vừa muốn “tu sửa” lại những định kiến của văn hóa dòng chính. Tôi hy vọng nỗ lực này cũng không khác nguyện ước dung hòa của Trương Vũ cho những khía cạnh tưởng như đối nghịch trong sự nghiệp cũng như đời sống của ông.
Đã từ lâu, những độc giả Tây Âu chỉ nghĩ đến dân tộc Việt như những nạn nhân chiến tranh sống quanh năm suốt tháng trong rừng rậm, hay phần đông ở thôn quê, với một nền văn minh còn trong thuở sơ khai. Bài thơ “What Were They Like?” (“Họ Đã Từng Sống Như Thế Nào?”) [2] của Denise Levertov, nhà thơ phản chiến Mỹ, sáng tác năm 1967, tuy với mục đích lên án đế quốc Mỹ và tranh đấu cho sự tự trị của dân tộc Việt Nam (mà bà đồng nghĩa với khuynh hướng chính trị của người Cộng sản), đã diễn tả một xã hội Việt Nam “không chắc đã có một thiên hùng ca,” “gắn liền với lúa và tre,” với một ngôn ngữ mơ hồ tựa như “bướm đêm bay qua mặt trăng” — bày tỏ một ánh nhìn bị ảnh hưởng bởi những lời tuyên truyền “đẹp” của Cộng sản, nên khuôn sáo, hời hợt, và gần như hạ cố về Việt Nam. Vì không tra cứu tận tường mà chỉ hành xử theo cảm tính và định kiến chính trị, do đó không nhận thức được bối cảnh văn hóa lịch sử phức tạp và phong phú của Việt Nam, Levertov đã làm việc tẩy xóa chính trong cách bà lên án chuyện bom đạn Mỹ hủy diệt văn hóa Việt trong thời chiến:
Họ Đã Từng Sống Như Thế Nào?
(Hỏi & Đáp)
(1) Những người dân Việt Nam,
Có bao giờ dùng đèn soi bằng đá?
Có bao giờ dùng đèn soi bằng đá?
(2) Hoặc có những buổi lễ chào mừng
những nụ hoa vừa hé nở?
(3) Họ có dễ dàng cười đùa — với những tràng cười như đợt sóng?
(4) Họ có dùng xương và ngà voi, ngọc bích và bạc, để trang sức?
(5) Họ có một thiên anh hùng ca?
(6) Họ có phân biệt giữa lời nói và tiếng hát?
***
(1) Thưa ngài, trái tim trong sáng của họ đã hóa đá.
Không ai còn nhớ nếu những chiếc đèn soi bằng đá
Đã soi sáng những con đường nên thơ, thanh bình.
(1) Thưa ngài, trái tim trong sáng của họ đã hóa đá.
Không ai còn nhớ nếu những chiếc đèn soi bằng đá
Đã soi sáng những con đường nên thơ, thanh bình.
(2) Có lẽ họ đã tụm họp thuở xưa để ngắm hoa xem cảnh
Nhưng sau khi những đứa trẻ bị giết
thì không còn một nụ hoa nào nữa.
Nhưng sau khi những đứa trẻ bị giết
thì không còn một nụ hoa nào nữa.
(3) Thưa ngài, tiếng cười giờ đây đã đắng nghét trên môi miệng bị thiêu cháy.
(4) Thưa ngài, giấc mơ đã qua rồi. Trang sức như vậy để cho vui.
Tất cả xương cốt đã cháy rụi.
(5) Điều đó chẳng ai nhớ. Hãy nhớ rằng,
hầu hết họ là nông dân; cuộc sống của họ
gắn liền với lúa và tre.
Khi những đám mây yên bình soi bóng xuống ruộng lúa
và những con trâu lừng lững trên những thửa ruộng bậc thang,
có những người cha đã kể cho con trai mình nghe những câu chuyện xưa.
Khi bom đạn phá vỡ tấm gương ấy,
thì chỉ còn thời gian để gào thét.
hầu hết họ là nông dân; cuộc sống của họ
gắn liền với lúa và tre.
Khi những đám mây yên bình soi bóng xuống ruộng lúa
và những con trâu lừng lững trên những thửa ruộng bậc thang,
có những người cha đã kể cho con trai mình nghe những câu chuyện xưa.
Khi bom đạn phá vỡ tấm gương ấy,
thì chỉ còn thời gian để gào thét.
(6) Đâu đây mang âm vọng, ai đó nói
lời nói xưa của họ, tựa như một bài ca.
Ai đó nói tiếng hát họ tựa như
đàn bướm đêm bay ngang qua ánh trăng.
Ai biết được? Im lặng hiện bao trùm.
lời nói xưa của họ, tựa như một bài ca.
Ai đó nói tiếng hát họ tựa như
đàn bướm đêm bay ngang qua ánh trăng.
Ai biết được? Im lặng hiện bao trùm.
Có thể nói, “Mưa Ướt Vị Thành” là một cách hồi đáp, rất từ tốn, nhưng linh động và sâu sắc của Trương Vũ, trước hình ảnh một Việt Nam tuyệt chủng, không thể tái sinh của Levertov. Trái với viễn ảnh bi thảm và cực đoan của Levertov, Trương Vũ gợi dậy những liên hệ thân thương của thiên nhiên và đời sống khi ông nhắc đến bài thơ “Vị Thành Khúc” của Vương Duy (bản dịch Ngô Tất Tố):
Trời mai mưa ướt Vị Thành
Xanh xanh trước quán mấy nhành liễu non
Khuyên chàng hãy cạn chén son
Dương Quan đến đó không còn ai quen.
Xanh xanh trước quán mấy nhành liễu non
Khuyên chàng hãy cạn chén son
Dương Quan đến đó không còn ai quen.
“Vị Thành Khúc” của Vương Duy phản ảnh một snapshot khiêm tốn, gần gũi, thay vì là một bưu thiếp cliché từ một nhà thơ Mỹ đầy nhiệt huyết nhưng thiếu hiểu biết, hay không muốn hiểu biết về một dân tộc bị coi là xa lạ. Bài thơ Đường, tuy theo Trương Vũ không phải “là bài thơ hay nhất của Vương Duy và càng không phải là bài thơ hay nhất của Đường Thi,” có hiệu ứng như bánh madeleine của Proust, giúp ông trở về với những cảm xúc đặc thù thời niên thiếu của ông, từ lần đầu ông đọc bài thơ này trong ngôi nhà gần bờ biển Nha Trang mà ông đã sống với gia đình trong suốt tuổi thơ.
“Vị Thành Khúc” minh họa sự dằng co giữa phù du và vĩnh cửu, ghi nhận cảnh tượng linh hoạt nhưng mong manh của nhánh liễu xanh lấp lánh nước mưa buổi sáng, trong lúc đôi bạn, hoặc đôi tình nhân, muốn kéo dài giây phút cuối cùng trước giờ ly biệt. Nỗi buồn chia ly vừa man mác (từ nhận thức về sự vô thường của cõi người), vừa se buốt (vì phải rời bỏ những liên hệ thân quý) chính là điều giúp Trương Vũ thích ứng với những diễn biến đột ngột của thời thế, và cũng giúp ông tìm được cách trở về — cả nghĩa đen và nghĩa bóng — sau này. “Vị Thành Khúc” cũng làm tôi liên tưởng đến một cảnh tượng bất hủ trong tiểu thuyết Kim Các Tự của Yukio Mishima, trong đó người vợ, trước giờ người chồng là sĩ quan Nhật phải lên đường ra chiến trận, đã nặn những giọt sữa từ vú mình vào chén rượu tiễn chồng, như thể nàng muốn truyền sức sống từ thân thể mình cho người chồng để chàng thành bất diệt.
Gần như người vợ trong Kim Các Tự, Trương Vũ định nghĩa văn chương như một nỗ lực kết hợp vĩnh cửu với vô thường. Qua những thảo luận với một sĩ quan đồng đội trong lúc tuần tra trên đảo Phú Quốc trong thời chiến, về “những tiểu thuyết Pháp … như Bonjour Tristesse, Un Certain Sourire … của Françoise Sagan, rồi … những tác phẩm học ở thời trung học … Alphonse Daudet hay Anatole France, rồi Nguyễn Du của ngày xưa, rồi Bùi Giáng của ngày nay, rồi quay sang nói về Sartre, về Camus, v.v ….” ông đã thấy “cái tuổi trẻ thật sự của mình bắt đầu bừng lên một sức sống mãnh liệt.”
Với nguyện ước hội nhập văn chương vào đời sống, Trương Vũ cấu trúc “Mưa Ướt Vị Thành” như một bài “tản mạn” dành cho “những bạn trẻ giống như [ông] trước đây, không được đào luyện tốt về văn chương ở trường ốc và sống với những ngành nghề gần như trái ngược.” Đây cũng là cách Trương Vũ trả lời một nhà văn Mỹ gốc Việt mà ông đã gặp trong một buổi hội thảo hè dành cho các nhà văn trẻ được tổ chức tại đại học St. Mary thuộc tiểu bang Maryland. Nhà văn trẻ muốn ông giúp cô quyết định xem cô có nên tiếp tục sống toàn phần cho văn chương và chỉ coi việc sinh kế như chuyện phụ, hoặc ngược lại, chọn một nghề nghiệp thực tiễn và coi chuyện viết văn như thú tiêu khiển. Quan điểm của Trương Vũ về sự hội nhập của văn chương vào đời sống cũng là cách ông đặt lại câu hỏi của nhà văn trẻ. Thay vì coi văn chương và nghề nghiệp sinh kế như hai khái niệm riêng rẽ và đối nghịch, Trương Vũ giúp đối tượng của ông cảm nhận vai trò quan trọng của văn chương như một nhiên liệu không thể thiếu trong đời sống, tương tự như lời phát biểu của nhà thơ Pablo Neruda, “Thi ca là bánh mì.” Nói cách khác, Trương Vũ cho người đọc thấy đặc tính vô biên của văn chương từ trải nghiệm cá nhân, “Trên sách vở, trong nghiên cứu, toán học và văn học có một lằn ranh rõ rệt, nhưng trong mỗi con người, lằn ranh đó có thể rất mờ nhạt.” Trong cách đặt lại câu hỏi của nhà văn trẻ, Trương Vũ cũng định nghĩa lại khái niệm sáng tạo.
Có sự mâu thuẫn là chúng ta thường nghĩ đến sáng tạo trong một khuôn khổ hạn hẹp, một họa sĩ vẽ tranh, một nhà văn viết một quyển sách, được coi là những nghệ sĩ sáng tạo, nhưng ít khi chúng ta định nghĩa sáng tạo như một thực tập liên tục cho đời sống, hoặc như một quá trình phân tích, khảo sát hiện thực, để trở về với tinh túy. Cũng có những trường hợp sáng tạo mà kết quả những sáng tạo này có vẻ như vô hình, không chỉ hiển hiện là một bức tranh, một bài thơ, một quyển sách, mà cũng là những nỗ lực hướng dẫn, ủng hộ, biên tập, chuyển dịch, đằng sau mỗi tác phẩm, như Trương Vũ đã làm khi ông đảm nhiệm vai trò chủ bút tạp chí Đối Thoại, đồng chủ biên tập san The Vietnam Review, và đồng chủ biên tuyển tập The Other Side of Heaven. Sự sáng tạo cũng có thể như Trương Vũ định nghĩa, là “tinh thần toán học, nhất là thói quen tìm giải đáp cho những nghi vấn.” Ông đã áp dụng tinh thần khảo sát của toán học không những cho các địa hạt chuyên môn khác trong nghề nghiệp như vật lý hạt nhân, điện tử, hay kỹ thuật không gian, mà cũng để giúp kiến thức văn chương của ông được trở nên “thi vị,” sâu sắc hơn.
Khái niệm tái sinh / luân hồi, qua bài “Mưa Ướt Vị Thành,” là một khái niệm cùng lúc khái quát và đặc thù như khái niệm sáng tạo. Ngoài hồi ức đọc “Vị Thành Khúc” của Vương Duy thời niên thiếu, Trương Vũ cũng liên kết kỷ niệm xem kịch “Ba Chị Em” của Chekhov vào năm 2017, mà trong đó [3] Irina (cô em út) nói với Olga (cô chị cả): “Tụi mình sẽ về Moscow,” với lời hứa “Ngày mai tôi sẽ về Sài Gòn” của một nhân vật trong vở kịch của Bửu Ý được trình diễn tại đại học Duyên Hải Nha Trang vào đầu thập niên 1970. Qua cách nối kết những trải nghiệm nghệ thuật từ nhiều mốc thời gian trong đời, cũng như cách ông cho người đọc thấy thành tích toán học năm 1832 của Evariste Gaulois đã tạo ảnh hưởng “luân hồi” sâu xa đến nhóm sinh viên Việt Nam trong thập niên 1970, Trương Vũ đã coi nỗ lực hòa giải không gian và thời gian như một cách trở về với chính bản thân ông.

Giorgio de Chirico, The Return of Ulysses (Ulysses Về Nhà) (Rome, 1968)
Trở về để nhận diện những “dấu ấn, những tì vết gây ra từ một biến cố trong đời, một chấn động mạnh, hay có thể chỉ là [thu nhận] một hình ảnh đến rất nhanh, như một nụ cười, một giọt nước mắt…,” chính là cách Trương Vũ giúp người đọc có một cái nhìn toàn diện về ký ức cá nhân cũng như lịch sử của một tập thể. Tuy nhà cầm quyền Việt Nam vẫn chưa chính thức hòa giải với cộng đồng Việt tị nạn ở ngoài nước, và do đó chúng ta vẫn chưa có một sự kết nối thực sự như chiếc cầu mà Tể Tướng Mehmed-paša Sokolović đã cho xây qua sông Drina để hòa giải những chấn thương giữa hai nhóm dân trong tiểu thuyết của Ivo Andríc, Trương Vũ đã tự tạo cho mình nhiều hành trình trở về, qua nhiều môi trường khác nhau. Ngay việc ông viết bài tiểu luận “Mưa Ướt Vị Thành” cũng là một thử nghiệm (essay) để trở về mạch nguồn văn hóa đã kết tạo bản sắc của ông, không khác cảnh tượng người lữ hành trong “Vị Thành Khúc” muốn cạn ly với người tri kỷ — uống một ly rượu trước khi lên đường cũng là một cử chỉ trở về.
Và cũng có kỷ niệm trở về nhiều cay đắng. Trong lần nói chuyện với đạo diễn Trần Văn Thủy vào năm 2003,[4] Trương Vũ đã kể lại kỷ niệm về thăm quê hương năm 2001 của ông, là lần đầu tiên ông trở về Việt Nam sau chuyến vượt biển từ 25 năm trước. Ông đã cảm thấy chua xót khi nhìn thấy hình ảnh “ác ôn” của “lính ngụy” nhan nhản trên truyền hình Việt Nam vào dịp 30 tháng 4. Nhưng cùng trong chuyến trở về lần đó, ông đã muốn có một kết thúc có hậu cho lịch sử gia đình. Ông đi tìm ngôi chùa nơi vị sư ngày xưa đã giúp cho người con của ông có chỗ ẩn náu an toàn sau khi chuyến vượt biển của cháu bị phát giác. Tuy không tìm thấy ân nhân, ông hứa là ông sẽ trở lại.
Và cũng trong chuyến về nhà này, ông đã gặp lại các bạn bè và học trò cũ. Cơ hội họp mặt này đã giúp ông hòa giải với quá khứ, với chính mình:
Cái thời gian dài 25 năm hình như không có nghĩa lý gì. Gặp gỡ lại các thầy giáo và bạn bè cũ cũng thế. Chúng ta không nói với nhau nhiều nhưng hiểu nhau và thấy thấm thía những tình nghĩa có được từ ngày cũ. Những gặp gỡ này làm tôi tin một điều, con người tự thân của nó có những sức sống và cách sống khó tìm được ở đâu khác. Trở về, trong đời sống thật, giữa những con người thật, tôi bắt gặp lại mình.[5]
Khi cổ động các người trẻ hãy “đem văn chương vào đời sống. Dù có làm thơ hay viết văn hay không, hãy đến với cuộc đời bằng tâm hồn của một thi sĩ,” Trương Vũ áp dụng chuyện ngụ ngôn về một ông thần đã hóa thân thành một nhà thơ sau nhiều thử nghiệm hóa thân thất bại, do muốn thấu hiểu khái niệm Chân, Thiện, Mỹ qua hình ảnh một thiếu nữ tắm dưới trăng. Những thử nghiệm thất bại của ông thần, trước khi đạt được chân lý của một nhà thơ, cũng không khác gì những thử nghiệm “trở về, trong đời sống thật, giữa những con người thật, [để] bắt gặp lại mình” của Trương Vũ. Nói cách khác, đó cũng là những thử nghiệm liên tục của người viết văn, hoặc của một nhà khoa học, hầu đạt đến tâm điểm của vấn đề.
Friedrich Nietzsche cũng xác nhận thuyết luân hồi vĩnh cửu (the eternal return) như những thử nghiệm trở về với định mệnh:
Điều gì sẽ xảy ra nếu một ngày hay một đêm nào đó, một con quỷ lẻn vào nơi cô đơn nhất của bạn và nói với bạn rằng: “Cuộc sống này, như cách ngươi đang sống và đã sống, ngươi sẽ phải sống lại một lần nữa và vô số lần nữa; và sẽ không có gì mới mẻ trong đó, mà mọi nỗi đau, mọi niềm vui, mọi suy nghĩ, mọi tiếng thở dài, và mọi thứ cực kỳ nhỏ bé hay vĩ đại trong cuộc đời ngươi đều phải trở lại với ngươi, tất cả theo cùng một thứ tự và tiếp nối — ngay cả con nhện này và ánh trăng này giữa những hàng cây, ngay cả khoảnh khắc này cùng chính sự hiện hữu của ta. Đồng hồ cát vĩnh cửu của sự tồn tại sẽ được dốc ngược hết lần này cho đến lần khác, và ngươi cùng với nó, hỡi hạt bụi!”[6]
Tuy thuyết luân hồi vĩnh cửu của Nietzsche có thể bị coi là một quan niệm bi quan về sự tiền định tàn nhẫn của số phận cũng như sự hiện hữu nghiệt ngã của cái ác, tôi không nghĩ như thế, do ý tưởng hiện sinh này đi song song với những gì Trương Vũ đã trình bày trong “Mưa Ướt Vị Thành,” là chỉ bằng cách sống thật với chính mình, qua cách chất vấn, duyệt xét ký ức liên tục, qua cách nối kết nghệ thuật văn chương với mọi khía cạnh trong cuộc đời để nhận thức được những mô hình, điệp khúc của cuộc sống đó, chúng ta mới có thể thực sự khẳng định và chấp nhận — trở về, hòa giải — với thân phận mình.
Đinh Từ Bích Thúy
11-18-2024
11-18-2024