Đến nay đã hơn 40 năm, lòng tôi vẫn đầy rung động khi nhắc lại những ngày tháng đầu tiên đặt chân tới Tây Đức. Đó là thời gian từ tháng 11 năm 1982 đến hết năm: mùa Giáng Sinh đầu tiên tôi trở lại Âu Châu. Một mùa Giáng Sinh đẹp, an vui và đáng nhớ của đời tôi.
Có mấy tháng thôi nhưng với tôi bao điều thay đổi, từ ngoại hình cho đến tâm tư. Có mấy tháng thôi mà nhiều chuyện tới dồn dập trong đó hai chuyện nhớ mãi: Trở lại Paris sau 8 năm, và đêm Réveillon ở Bremen.
Cuối tháng 7 năm 1982 tàu Cap Anamur cứu người vượt biển do Deutsche Komitee Not-Ärzte (Ủy ban Bác sĩ Cấp Cứu Đức) chủ trương, kết thúc chuyến hải hành từ Singapur về Tây Đức. Tàu cặp cảng Hamburg.
Sau mấy ngày làm giấy tờ nhập cư và phân phối gần 300 thuyền nhân đi 10 Tiểu bang và Tây Bá Linh, tôi cùng hơn 20 thuyền nhân khác được đưa về Tiểu bang Niedersachsen. Một tuần ở trại Grenzdurchgangslager Friedland, gần Göttingen, rồi chuyển lên Trại Nazareth, Norddeich ở phía biển Bắc (Nordsee).
Tâm trạng đến Âu Châu lần này khác trước đây đi Paris tu nghiệp Giáo Dục Toán Học. Đơn giản vì bây giờ tôi không còn là một cậu thanh niên 22 tuổi, đầy sức sống và hy vọng. Dĩ nhiên sau 8 năm trôi nổi ở quê nhà, sức sống và hy vọng vẫn còn đó, nhưng…
Cuối tháng 10.1982 tôi nhận được Reisepass (Thông Hành Tỵ Nạn) có giá trị để đi khắp nơi, ngoại trừ Việt Nam, nơi tôi đã rời bỏ để xin tỵ nạn chính trị tại Tây Đức. Tôi báo cho Emile, dưỡng phụ của tôi, ngày trở lại Paris.
Thu xếp cho chuyến đi, tôi trình bày cho Cô giáo lớp tiếng Đức lý do và xin tự học. Mỗi lúc từ Paris về, nhờ cô khảo sát bài đã học, cho chỉ dẫn mới.
Cô giáo tuổi về hưu, nhận việc dạy tiếng Đức cho người Việt tỵ nạn với lòng yêu nghề, yêu người và rất được mọi người thương mến. Cô ở một căn nhà rộng mênh mông gần chân đê Norddeich và thường đón tôi ra nhà uống cà phê nói chuyện, đến nỗi thiên hạ đồn rùm cô giáo yêu ông Thông. Tập thể người Việt thường lắm chuyện, huống chi là họ thấy cô giáo hay ôm hôn chào tôi, mỗi ngày đến lớp.
Gặp anh Ph., người phụ trách trại, tôi thực tình bộc bạch tình cảnh tréo cẳng ngỗng của tôi: muốn trở lại Pháp để tiếp tục chuyện học, lại gặp tàu Tây Đức vớt và chở về đây. Thoát chết trên biển Đông đến chuyện chọn sống nơi nào ở Âu Châu, đúng là được voi, đòi Hai Bà Trưng, như ở VN bây giờ hay nói. Tôi muốn qua Paris để xin chính quyền Pháp thu nhận hợp lệ. Tôi báo chuyện cô giáo lớp tiếng Đức đồng ý giúp tôi học vắng mặt. Anh Ph. cho biết, đối với anh không có gì trở ngại, bao lâu mà tôi hứa với anh, trở về Norddeich lập tức, mỗi khi anh điện thoại cần sự hiện diện của tôi. Paris-Norddeich cách nhau 800 km, xe lửa chạy 9 tiếng, đối với tôi lúc đó, không xa xôi lắm. Những chuyến tàu đêm, rời Gare du Nord lúc 0 giờ và đến Norddeich 9 giờ sáng mai, hay ngược lại, thành quen thuộc với tôi.
Tháng 11 tôi trở về Paris sau tám năm xa cách. Bước ra khỏi Gare du Nord, tôi choáng váng với phố phường tấp nập, người đi như chạy, xe cộ nhộn nhịp và nhích từng chút. Các con đường trước mặt, bên hông nhà ga kẹt cứng. Tôi nói trước với Émile không cần đi đón. Émile đồng ý. Tôi dùng Métro về Place de Clichy.
Thật thú vị nhập vào đám đông trên xe điện hầm giờ cao điểm. Tôi sống lại không khí Metro với đủ mùi hương. Thoang thoảng mùi nước hoa từ các bà đầm phấn son vội vàng trước giờ tan sở, mùi rượu đỏ, mùi xúc xích nồng nặc tỏi từ những người đàn ông ngoài trung niên, mặt đỏ rực như lửa. Hầm Metro là một Paris dưới lòng đất. Khi xa Paris mới vụt nhớ từng chi tiết sống động.
Mỗi góc Paris gây nhớ như nhớ người yêu… nhớ đến tương tư. Mùa Đông 1974 ở Huế, tôi hay ngồi cà phê với anh LKC. Có khi chúng tôi tranh luận nhau về chỗ đặt tượng hai thương gia, vị trí bàn ghế trong và ngoài cà phê Les deux magots ở Quảng trường St Germain des Prés, cho dù anh LKC chưa đi Paris lần nào, mà chỉ qua báo chí, sách vở… Tôi lục lại xấp ảnh đã chụp ở Paris, mang cho anh coi và công nhận anh LKC đúng. Anh cười, nói vì anh yêu Paris. Tội nghiệp một người lãng mạn yêu Paris.
Anh đã mất. Như anh đã khai tử quá khứ, khi nhận ra mặt thật lý tưởng tuổi trẻ sau một thời gian ngắn qua tiếp cận thực tế. Anh LKC đã bỏ hết, ra ngồi chợ trời Tân Định, quên đi những gì một thời say đắm.
Từ Place de Clichy đi bộ lên phía trên Nghĩa trang Montmartre. Hướng về phía đường Caulaincourt là nơi nhiều danh nhân yên nghỉ: thi sĩ Henrich Heine (Đức), nhà Vật Lý Ampère, ca sĩ Dalida… Phía phải, Moulin Rouge với cối xay gió rực rỡ ánh điện, tự nhiên dáng đi thêm chút nhún nhảy vũ điệu cancan, dù nhìn quanh chẳng thấy cô đầm nào tốc váy.
Tôi về đường Carpeaux bước chân run rẩy. Ngang qua café vợ chồng Gilles, bà đầm đang ở trước tiệm, ôm chầm lấy tôi, vừa hét lớn:
- Oh! Thong. C’est incroyable. Émile nous a dit que tu viendras…
Vừa kêu chồng rối rít. Chúng tôi trao đổi vài câu và hẹn sáng mai sẽ nói chuyện nhiều. Quán cà phê của vợ chồng Gilles ở kế cửa Mery Diffusion của Émile, nơi tôi ở trong mấy tháng cuối năm 1974.
Émile đợi tôi chắc lâu lắm vì cái gạt tàn đầy đầu lọc thuốc lá. Ông ôm tôi và tôi khóc ròng rã. Hôm đầu tháng 8, Émile qua Đức khi tôi điện thoại cho biết được đưa về Friedland. Nào ngờ khi ông tới Friedland buổi chiều, nhóm 20 người ghe chúng tôi đã được đưa lên trại Nazareth, Norddeich sáng hôm đó. Émile ở lại một đêm và mai lại chạy lên Norddeich thăm tôi.
Tôi có thêm một người bạn mới: anh Ngh. ĐHSP Huế, ban Pháp văn 1970-1974, qua Tây Đức trước đây 3 năm, đang học Đại Học, và làm Thông Dịch ở trại, đã tận tình lo cho Émile chỗ nghỉ qua đêm ở Friedland.
Émile tuổi đã 70, đã chạy từ Paris qua Friedland, rồi từ Friedland lên Norddeich, tính ra hơn 1200 km. 13 tiếng lái xe trong hai ngày. Càng nghĩ đến, tôi càng xúc động với tình thương của người nghĩa phụ, mà 4 chữ của Tô Thùy Yên mới diễn tả hết: ràn rụa thâm ân.
Chúng tôi ăn tối ở một quán ăn gần nhà như 8 năm trước đây. Còn tiệc mừng tái ngộ, bà Madeleine, vợ Emile, đã đặt vào chiều mai ở một Restaurant gần ga Montparnasse. Cha, gốc St Malo, Bretagne sẽ mừng đón thằng con Huế, Thừa Thiên, trong khung cảnh quán ăn đặc trưng miền biển Bretagne từ trang hoàng cho đến toàn bộ Menü. Madeleine đã làm Émile và tôi xúc động vô cùng.
Tôi được đón nhận ấm áp khi trời đất Âu Châu trở lạnh. Hàng quán, chợ phiên, phố phường… khắp nơi từ Đức qua Pháp trang hoàng Giáng Sinh rực rỡ. Rượu Glühwein, hạt dẻ nướng… thơm khắp nơi ở Tây Đức. Ở Pháp thì bày bán đầy hàu ((huître, Austern), paté gan ngỗng (paté de foie gras, Gänseleberpastete)…
Tâm hồn thoải mái, tinh thần phấn chấn. Tôi nghĩ, phải vái Cụ Nguyễn Du xin đổi vị trí hai chữ vui buồn trong truyện Kiều cho đúng với mình lúc đó:
Người vui cảnh có buồn đâu bao giờ
Chẳng bù với mùa hè qua, buồn da diết. Vùng biển Bắc, trời mùa hè đến gần nửa đêm chưa tối. Hồi đó tôi viết bài Xa Cách cho nhà tôi, có đoạn:
Bây giờ em ở Việt Nam
Đêm mơ chưa sáng, ngày tàn ở đây
Phương xa mong ngóng phương này
Nhớ nhau ngước mắt nhìn mây ngang đầu…
Đúng là nhớ nhau chỉ biết nhìn mây ngang đầu vì xa xôi cách trở, phương tiện thông tin không như bây giờ. Thư qua thư về mất cả tháng. Cần nhắn gì gấp, đánh điện tín dài khoảng 10 chữ đã phải trả 50 Đức Mã.
Tôi trở lại đời sống Paris một cách nhanh chóng. Ở Mery Diffusion tôi nắm lại mọi chuyện từ đặt hàng, phân bố công việc, liên lạc với Bưu Điện… đến Kế Toán, Quảng cáo, tôi làm theo chỉ dẫn của Émile và chỉnh đốn vài điều theo suy nghĩ của mình. Émile hài lòng. Từ Maison Lafitte, ngoại ô Paris, mỗi tuần Émile chỉ lên Paris một hai ngày và yên tâm cùng Madeleine đi Évian chữa bệnh từ hai hôm trước. Émile hẹn sẽ về vào giữa tháng Một và bắt tay vào việc xin thường trú ở Pháp cho tôi. Ông tin việc này chẳng có gì khó khăn khi ông đứng ra bảo trợ.
Tôi liên lạc lại với hầu hết bạn bè quen biết. Chúng tôi cuối tuần nào cũng gặp gỡ nhau. Bạn bè cũ thời sinh viên Huế, tôi gặp lại người bạn vừa xa 11 tháng. Hôm tháng 1.1982 bạn bè Huế chia tay gia đình hắn, đi Pháp theo diện hồi hương, trong một buổi tiệc ở nhà hàng Arc-en-Ciel, Chợ Lớn.
Buổi đó, tôi hẹn bạn tháng 10 sẽ gặp lại ở Paris, không biết vì linh tính, hay vì rượu như những bạn khác chế nhạo. Nhưng bây giờ, hắn lôi tôi đi chào mọi người trong buổi gặp mặt tái ngộ và luôn miệng:
- Hắn nói tháng 10 gặp lại mà đúng thiệt, chỉ sau một tuần. Oh! là. là…
Để tìm ra bạn, tôi mất suốt buổi sáng điện thoại khắp các Trung tâm Tiếp Nhận Con lai Tây hồi hương ở Paris.
Một bạn đã gặp hai năm trước ở Sài gòn khi được VN mời về góp ý cho các công trình Thủy Điện. Nghe tin tôi, bạn vội ghé Mery Diffusion, rủ tôi đi uống. Ngồi ở quán một lúc, bạn có việc phải đi và dúi cho tôi mấy tờ 100 franc, hẹn dịp khác nói chuyện nhiều.
Một bạn khác, bạn từ 3 năm Nhất-Nhị-Tam B2 Quốc Học, qua Pháp đầu năm 82, hiện làm bảo vệ ở trường Đại Học Y Khoa Sorbonne. Thỉnh thoảng, tôi ghé thăm. Coi bộ bạn không được vui. Tôi hay đùa:
- Bây giờ đóng và mở cửa Đại Học danh tiếng này chỉ có hai người: Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Pháp và bạn. Cớ sao lại buồn?
Những ngày đầu trở lại Paris thật dễ chịu. Công việc, bạn bè, và gởi quà về bên nhà… đều đã giải quyết rất đẹp. Tôi tận hưởng những ngày trước Noel và cuối năm 1982 trong không khí tưng bừng khắp nơi ở Paris. Ngày 20.12, anh Ph. điều hành trại Nazareth Norddeich điện thoại gọi tôi về gấp. Nửa đêm 20 tôi lên Gare du Nord và 9 giờ sáng 21.12 có mặt ở trại.
Lần này anh Ph. gọi vì một việc nhỏ, nhưng quan trọng. Trong hồ sơ bảo lãnh gia đình, giấy khai sinh các con tôi, bản sao tiếng Việt bị lem nhem mực kopie, cần thay bản rõ hơn để kèm với bản dịch ra tiếng Đức, mới được coi là hợp lệ. Xong việc.
Chiều hôm đó, văn phòng trại lại chuyển một tin nhắn: - Thông, hãy điện thoại cho tôi 8 giờ tối nay. Dr. Renate L.
Dr. Renate L. là một nữ Bác sĩ thuộc Deutsche Komitee Not-Ärzte. Bà xuống Cap Anamur khoảng tháng 5.1982 tại Singapur.
Bà vui vẻ, ân cần với mọi người, thích con nít, chơi đùa kiên nhẫn với trẻ con trên tàu, trong sinh hoạt trên bãi đáp trực thăng. Mỗi lần bà xuống bệnh xá, đám con nít bu kín, đứa kéo tay, đứa ôm chân… rất thân thiện.
Bà là một người chị mà các cậu con trai đầu trong nhà, như tôi, ao ước. Bà hơn tôi 10 tuổi và chăm sóc, hỏi han tôi như lo cho một đứa em. Có lần xong việc khám bệnh buổi sáng bà gọi tôi nói nhỏ:
- Tôi có để trong tủ lạnh một đĩa Steak và khoai tây. Tôi đang ăn kiêng chống phát phì, Thông ăn giúp tôi vì đang gầy lắm, nghe chưa.
Tôi xúc động vì tấm lòng của Renate. Quả thật! Lúc đó tôi cân chỉ 50 kg, nhưng trông tiều tụy vì đen, do tắm nước biển hàng ngày từ hôm được tàu Cap Anamur vớt. Nước ngọt trên tàu có hạn, ngày nào cũng phải phát phần cho các ghe, để uống và pha sữa cho trẻ con.
Đĩa khoai tây Steak tôi dành cho thằng cháu 8 tháng, con bà chị họ. Hắn ăn thịt, khoai cắt nhỏ một cách ngon lành, và vui cười với mọi người, ai cũng thích bế. Tôi kể chuyện này cho bà Renate nghe. Bà cười, thú vị thấy cách ăn kiêng của mình đem tới niềm vui cho người khác. Từ đó, thằng Tý Hon cứ nhoài từ tay mẹ nó qua cậu Thông mỗi bữa xuống hành lang tàu ăn cơm. Mẹ nó đỡ gói bọc giấy bạc từ tay tôi. Nó nhìn, cười híp mắt. Chừng vài tuần Tý Hon đã rất khó bồng vì nặng.
Chuyện ăn uống trên tàu rất đơn điệu. Từ chuyến vớt thuyền nhân đầu tiên, người lo thực phẩm chú trọng mua gạo, muối, nước mắm, bột ngọt, thịt, cá, rau củ dạng đồ hộp… và cứ thế mỗi bữa hằng ngày, mỗi người một tô cơm ăn với cá hay thịt hộp không cần kho nấu hay hâm nóng, cùng với một soong lớn canh củ cà rốt, đậu đũa hay petit-pois, cà chua hộp, khóm hộp… nêm bột ngọt cho vừa khẩu vị. Ghe tôi được các em nhận phần từ nhà bếp bê ra hành lang tàu, và bé L. chia cơm ra bát cho nhóm chúng tôi. Con cá nục hay lát thịt hộp đặt lên trên bát cơm. Chúng tôi đứng ngồi ăn dọc hành lang hông tàu, quanh nồi canh lớn. Bé L. mới 7 tuổi đi chung với chú của nó, không có cha mẹ. Nó rất ý tứ. Bát, muỗng, đũa ăn cơm… rất sạch. Bà Renate xin nhận nó làm con nuôi, và được chính quyền Đức chấp thuận cho về với gia đình ông bà ở Bremen.
Tôi không biết bà Renate nhắn có việc gì, nhưng chắc chắn là chuyện vui, vì bà vẫn luôn thăm hỏi. Bà mời tôi qua Bremen dịp lễ Giáng Sinh với gia đình bà gồm ông bà, ba đứa con gồm cả bé L. Tôi muốn hét lớn trong điện thoại:
- Thông sẽ đến. Thông phải đến. Cám ơn Renate, người Chị thân yêu, dành cho đứa em xa lạ, một góc trong đời sống.
Tôi xúc động quá sức. Trở lại Âu châu tôi gặp những người có tình nghĩa, quan tâm đến mình, sợ mình cô độc, buồn… Mới về Friedland đã có Carina ghé thăm. Rồi từ Friedland, anh Ngh. thu xếp cho tôi quá giang vợ chồng hai anh chị T, C ở Hamburg, ghé thăm Susane.
Căn nhà với bản đồ thế giới choáng hết bức tường phòng khách cắm đầy những lá cờ nhỏ những nơi Susane và chồng đã đi qua. Riêng nơi cắm lá cờ sau cùng: Cộng hòa Kiribati, ở phía Đông nước Úc, nơi chồng Susane đang huấn luyện cho Hải Quân. Đến giờ tôi vẫn chưa thăm được, dù bưu thiệp chúc năm mới nào Susane cũng nhắc lời mời. Susane và Carina là hai cô Y tá trên tàu Cap Anamur.
Từ Émile tình thâm nghĩa nặng, đến Carina, Susane, anh Ngh.,anh Ph., Cô giáo…tận tình sốt sắng giúp đỡ mọi chuyện hanh thông.
Bây giờ tuyết đã trắng xóa xóm làng nhà cửa. Ở Nazareth rộn ràng Giáng Sinh. Các Bungalow làm hang đá, máng lừa, bày tượng Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ và các Thiên thần. Đèn giăng sáng đường đi trong khu trại, làm cả khu người tỵ nạn đẹp lộng lẫy. Không khí ấm cúng giúp người tha hương bớt buồn bã, cô quạnh trong trời tuyết trắng xóa, lạnh lẽo.

Bremen City Hall/ Tower Hall (ảnh sưu tầm)
Tàu vào ga Bremen tôi đã thấy Renate đứng chờ. Chúng tôi mừng rỡ gặp lại nhau sau hơn 4 tháng, kể từ ngày về Tây Đức. Renate không đi một mình mà còn có thêm một ông bạn của gia đình, người sẽ lo cho tôi và giới thiệu Bremen với tôi ngày mai, cho đến chiều tối mới đưa tôi về nhà Renate và cùng dự đêm Giáng Sinh.
Chúng tôi làm quen và trò chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Jens, tên người bạn Renate, là một người đàn ông cao lớn vạm vỡ, vui tính. Khi Renate giới thiệu Jens là một nghệ sĩ sân khấu nhạc kịch, Jens cất cao giọng hát mấy câu Opera khiến mọi người đứng quanh trên sân ga, im lặng nghe, rồi vỗ tay tán thưởng. Con Berger của Jens cao, to như một chú ngựa con, sủa mấy hơi dài như cám ơn. Jens phải hét lên mấy tiếng Sasha, tên của nó, con chó mới chịu im.
Tôi có cảm tình ngay với Jens, nhưng với Sasha tôi phát ớn. Mới xuống tàu, tôi bước tới khi nghe Renate kêu, hắn chồm lên, gác hai chân trước trên ngực tôi thân thiện. Tôi sợ tái mặt, hồi lâu mới hoàn hồn.
Chúng tôi ăn tối dưới hầm toà Thị Chính Bremen. Ngày 24 Jens chở tôi đi quanh thành phố Bremen. Coi tượng Roland, tháp 4 con thú Gà, Mèo, Chó, Lừa đặc trưng của Bremen. Jens dẫn tôi đi ăn cá ở phố cổ. Buổi chiều chúng tôi uống cà phê và đi dạo ở bờ sông Weser. Chừng 4 giờ chiều, chúng tôi về nhà Jens, ngủ một giấc, để thức đêm Giáng Sinh với gia đình Renate.
Đêm 24 cả nhà đi nhà thờ dự lễ nửa đêm. Renate biết tôi đạo Phật, nên đưa tôi mấy tờ tạp chí Pháp, để đọc ở nhà, nếu không thích đi lễ. Jens cũng nói mình chỉ vô nhà thờ 5,10 phút, rồi phải dắt con Sascha đi dạo, kẻo nó quậy. Nếu tôi thích thì theo Jens. Nhưng tôi cùng cả gia đình dự đến tan lễ. Phần muốn coi diễn tiến một buổi lễ ở nhà thờ Đức. Phần muốn làm vui lòng bà chị Renate đã nghĩ tới mình.
Tiệc Réveillon được Renate lo chu đáo. Bé L. và hai đứa con bà lo việc bày biện bàn ăn. Tôi ngồi giữa Jens và chồng bà. Ông là một Bác Sĩ Giải Phẫu, làm Bệnh Viện ở góc đường, gần nhà. Ông là bạn học từ Tiểu Học với Jens. Ông ăn nói từ tốn lịch sự. Sau vài tuần rượu vang rất hợp với món Fondue, mọi người nói lớn, vui vẻ. Ông kể nhiều chuyện đầy Humor, làm chúng tôi cười vang. Ai cũng dùng tiếng Pháp, để tôi khỏi lạc lõng.
Ăn uống xong, cả nhà quây quần quanh lò sưởi bập bùng lửa, và tìm quanh cây thông, quà Giáng Sinh của mình. Từng người, mở quà mình ra, nói đôi lời. Renate điều khiển mục này, và để tôi sau chót.
Tôi nhận một phong bì Giáng Sinh đẹp với hình ông già Noel ngồi trên xe đàn Tuần Lộc kéo. Hồi hộp mở ra, tôi đã muốn khóc: một vé tàu Bremen-Paris kèm thêm mấy tờ 100 Đức Mã.
Tôi run run nói vài câu và khi đôi vai bắt đầu rung rung, bé L. và Renate ôm tôi an ủi. Chỉ đến khi Jens ca một bài dài theo điệu nhạc kịch, tôi hiểu chính xác ít, đoán mò nhiều, nhưng cảm nhận sự thống thiết của một cuộc chia ly, nỗi hân hoan trong giờ tái ngộ, tôi mới bớt thổn thức.
Tôi đáp lễ bằng bài “Le Tournesol”, không nhớ tác giả, nhưng thuộc lòng nhờ nghe hoài Nana Mouskouri.
Khoảng sau 3 giờ sáng, mọi người buồn ngủ. Ba đứa nhỏ nằm quanh cây thông, đã ngon giấc. Renate muốn tôi nói vài lời kết thúc buổi mừng lễ Giáng Sinh hôm nay. Tôi vâng lời:
– Hôm qua, tôi hỏi Jens nguyên quán Bremen hay từ nơi khác đến, Jens đã cho tôi biết một câu thành ngữ Bremen nhiều ý nghĩa:
Ich bin doch kein Bremer.
Tạm dịch: Tôi không phải người Bremen.
Jens nói rõ ý nghĩa của câu trên:
* Khi có người nhờ vã một chuyện, mà mình trả lời “Tôi không phải người Bremen” có nghĩa là chuyện này tự bạn làm được, không cần tôi giúp. Hay, bạn hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi (như Bouddha nói), tôi không phải người Bremen, gì cũng giúp.
* Khi có người hỏi sao không làm cho xong việc này, và nhận được câu trả lời “Tôi không phải người Bremen” có nghĩa là người Bremen việc gì cũng không bỏ dở nửa đường, mà bắt đầu là phải hoàn thành.
Tôi kết luận chắc chắn mình không phải là người Bremen, nhưng cố gắng học phẩm chất của người Bremen, những người đang ở quanh tôi, đang yêu thương, quan tâm đến tha nhân trong đêm Giáng Sinh này. Xin cám ơn các bạn.
Khoảng thời gian trong mùa Giáng Sinh 1982 từ ngày tôi trở lại Paris sau 8 năm xa cách đến đêm Réveillon ấm cúng ở Bremen thật tuyệt vời.
Tôi, một người ngoại đạo, đã thành tâm vinh danh Thiên Chúa trên trời, hưởng được bình an dưới trần thế cùng những người tràn trề thiện tâm và yêu thương tôi.
Lê Quang Thông
Frankfurt, Germany
