User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
flag of canada on wall shanina
hình trên net
 
Hắn không thể nhớ bản thân được mấy tuổi khi lần đầu nghe bác Tư tiết lộ một bí mật như trên trời rơi xuống.
 
Bác Tư trai là họ hàng phía nội tổ. Bác Tư gái cũng là họ hàng, nhưng thuộc phía ngoại tổ của ba hắn. Bác Tư cho là ba hắn bà con gần hơn về phía bác gái, thế nên hai bác đồng ý gọi ba hắn bằng cậu em theo vai vế.
 
Thân thuộc của hắn đều biết bác Tư là con phú hộ. Thời thơ ấu, bác thọ giáo một thầy Đồ ở xóm, lúc hơn mười tuổi thì bác lên tỉnh Vĩnh Long theo học trường Tây. Do đó mà bác làu thông thơ nôm và văn chương quốc ngữ, cũng như nói rốp rốp tiếng Tây u.
 
Nghe bà con nói lại, trong một lần đi lánh giặc hồi năm 1945, bác bị chấn thương ở đầu. Tuy vết thương không nguy hiểm, nhưng có thể ảnh hưởng tâm tính của bác về sau.
 
Sau cuộc chiến 1945-54. Ba má hắn hồi cư về thành, dựng nhà bên dãy đối diện với nhà bác Tư trong một con hẻm ngắn.
 
Cứ hễ nghe bên nhà hắn có khách đến nói chuyện lao xao. Thì y như rằng, bác đã có mặt mà ít ai hay. Bác ăn học cao nên điệu nghệ lắm. Bác làm thinh đi qua qua lại lại, kiên nhẫn đợi đúng thời cơ mới đưa ra câu chuyện mà bác rất đắc ý.
 
Lúc hắn còn nhỏ xíu, bác kể cho nghe đến nỗi thuộc lòng chỗ nào bác cười ha hả, tới đâu bác giả bộ khóc hu hu, khi nào bác xuống giọng thì thầm. Đến cái đoạn mà người và giọng của bác chừng như thu nhỏ lại. Người nghe còn đang mơ màng sơ ý, bác đột ngột bùng lên như nước lũ tràn đê vỡ đập. Ai được nghe lần đầu, hết thảy đều giật mình, hết hồn hết vía.
 
Trong câu chuyện, bác Tư có nói đến một khoảng đời của ba má hắn. Thời mà ông bà vừa hơn ba mươi tuổi đời, từ giã thị thành, thay đổi nếp sống của cháu con địa chủ. Với lòng nhiệt huyết, họ tình nguyện vô bưng biền tham gia kháng chiến chống Pháp.
 
Bác Tư qua đời trong năm 1973. Tôn trọng tác giả bác Tư, hắn sẽ cố gắng rút gọn và giữ ý gần đúng nguyên bản của bác.
 
***
Hôm đó là ngày 16-1-1955, nhằm 23 tháng Chạp âm lịch năm Giáp Ngọ, còn tuần lễ là Tết Ất Mùi.
 
Mợ Ba nấu cơm chiều vừa xong, mợ nghe xóm riềng gọi nhau ơi ới ở phía con đường mòn trong xóm, cô bác kêu nhau ra đồng trống để xem chiếc máy bay “chuồn chuồn” xịt khói đen sau đuôi. Nó bay gần sát ngọn dừa ở xóm ruộng kế bên, rồi đảo ngang chòm nhà bên nầy. Nó sà xuống, vọt bổng lên, đánh vòng rồi sà thấp như muốn đáp xuống mặt ruộng.
 
Nghe tiếng máy bay quần đảo trên trời, mợ Ba bình tĩnh bước ra sân. Cốt để tìm hiểu nó làm gì, chớ không kinh hãi như hồi chưa dứt chiến tranh. Mợ còn kịp trông thấy màu sơn trắng toát dưới bụng và hai cánh ngang của chiếc máy bay lướt qua những khuôn mặt ngơ ngác của dân quê. Mợ nghe tiếng máy nổ lụp bụp không đều và lo cho họ khi thấy vệt khói kéo theo sau đuôi. Chiếc máy bay nhỏ, loại một chong chóng trước đầu, lắc lư rời khỏi xóm ruộng. Mợ Ba trông theo với mong muốn họ được bình an. Nhìn hướng, mợ đoán nó bay về chợ quận.
 
Đất nước vừa ký kết hòa bình, các bên đều ban lệnh nghiêm cấm mọi sự nổ súng. Người ta không còn nghe tiếng đùng đùng dưới đất bắn lên chận đầu hay bắn theo đuôi máy bay như hồi chiến tranh. Xì khói kiểu nầy thì chỉ do trục trặc máy móc mà thôi.
 
Mợ Ba bước trở vô nhà, rót ly nước trà rồi chờ nó nguội xuống một chút. Đột nhiên, từ sau hè vang lên tiếng khóc thét của đứa con nít. Mợ ngạc nhiên nhưng vẫn ngồi trên ghế, định uống xong miếng nước. Mợ nghĩ thầm: Chín năm chiến tranh máu lửa, ai cũng mong thấy ngày yên ổn thanh bình để trở lại chốn cũ nhà xưa. Cùng chẳng đã, cậu mợ phải tạm lánh thêm một thời gian để chờ các thủ tục hành chánh hợp pháp để về thành. Giờ nầy, tại sao có người bồng con thơ đến vùng đồng nội xa xôi, nghèo nàn nầy làm chi cho cực khổ. Tiếng trẻ sơ sinh lại ré lên, lần nầy khiến mợ giật mình.
 
Mợ Ba bước nhanh ra cửa sau hỏi lớn "Ai ở sau hè nhà tui vậy?" Mợ la to "Ai vừa đến đây" mấy lần, lóng tai chờ đợi tiếng trả lời. Lát sau, có tiếng nấc nho nhỏ từ bụi trâm bầu. Mợ tiến về hướng đó thì tiếng khóc im bặt. Đám trâm bầu khoảng chục cây đứng lưa thưa, trống trải. Những cành thấp lòa xòa, nhánh đâm xiên và các tược gốc vô ích đã bị cậu mợ chặt sạch trong lần dọn vườn trước mùa gặt lúa, để chuẩn bị củi đốt cho mùa mưa năm đó.
 
Xa ra khỏi bụi trâm bầu là mé ruộng của cánh đồng bao la, trơ những gốc rạ nghiêng ngã, khô úa dưới ánh nắng buổi xế chiều.
 
Mợ Ba dụi mắt quan sát mà không thấy một bóng người hoặc một vật khả nghi.
 
Mặt trời còn hai sào mới lặn, dương quang sáng rực nóng bỏng, không lẽ giờ nầy có ma. Mợ ba cảm thấy lạnh sống lưng, mợ bước lùi vài bước trở vô cửa sau, mắt hoa đom đóm, miệng không ra tiếng.
 
Mợ đứng yên hít thở vài hơi thật sâu mà chưa hết sợ. Không khí ngột ngạt, mọi vật lặng im đến dễ sợ. Thình lình bật lên tiếng khóc ré của một đứa bé sơ sanh.
 
Không suy xét thêm, mợ Ba quay lưng chạy nhanh vô nhà đóng chặt cửa sau. Mợ vói tay lấy cái thùng thiếc, thoát nhanh ra khoảng sân trước, mợ vừa vỗ thùng vừa la làng.
 
Không một ai chạy đến. Mợ Ba chợt nhớ, xóm nầy chỉ có số ít tráng niên còn trụ lại. Lúc nãy, mợ thấy những người đó rủ nhau chạy qua mé bên kia rặng cây tràm dọc theo con kinh ranh. Khối cành lá của chúng đang che khuất tầm nhìn của họ, trở ngại cho việc quan sát số phận con chuồn chuồn sắt đã bị tổn thương hay trục trặc kỹ thuật.
 
Thời may là cậu Ba còn ngồi canh chừng mặt chận ống bọng xả nước đập. Âm thanh xèng xèng của thùng thiếc và tiếng kêu cứu của mợ Ba, khiến cậu nhanh tay hạ nắp quạt sớm hơn, rồi vác cuốc chạy tắt đường ruộng về nhà.
 
Hai ông bà cùng nghe tiếng con nít khóc thét sau nhà. Rõ ràng là tiếng con người chớ đâu phải tiếng ri rỉ ma kêu.
 
Tay cậu Ba còn lăm lăm chiếc cuốc. Mợ thì nắm chặt cán thùng, tay kia lượm thêm nhánh củi. Hai người chia hai hướng để bao vòng đám trâm bầu vẫn trống trơn.
 
Đứng im một lát, cậu Ba lóng tai nghe tiếng khóc khe khẽ của đứa con nít. Hình như nó linh cảm điều gì mà không hét lớn kêu cứu nữa. Ngước nhìn chằm chằm vào cành lá trâm bầu giao tàn đan kín bên trên, cậu Ba dùng cây cuốc vạch được một khoảng trống. Ông bà thấy vật gì đỏ như son. Cậu ba vô nhà vác ra chiếc thang tre để đứng cao hơn tán lá. Hì hụt cắt dây tấm lưới nhỏ bọc hàng và chiếc dù đơn giản bằng hơn vòng tay người lớn. Vật dụng mà quân đội Pháp xài trong các phi vụ ném những túi thơ, công văn cấp bách, bản đồ hành quân xuống sân đồn bót xa xôi, hoặc vị trí các đơn vị hành quân lưu động.
 
Khéo léo cắt xong mớ dây bằng dao bén, cậu Ba lôi ra được cái bọc có hai màu trắng đỏ, cậu cẩn thận trao cho mợ Ba. Cậu giúp mợ mở hai cái gút cột túm bốn góc của chiếc mền len. Ông bà hối hả phủi bầy kiến vàng chạy bên ngoài cái bọc lưới mùng có miệng luồn thun, rồi nhẹ tay kéo chiếc bọc chống côn trùng rời khỏi chiếc nôi, lộ ra đứa bé độ chừng 3-4 tháng tuổi đang nằm im yếu ớt. Cậu Ba chợt hiểu, đứa bé có không khí để thở là nhờ cái quai xách nhô cao của chiếc nôi đan bằng mây, nó làm cho bao lưới không xẹp xuống đậy kín mặt mũi đứa bé. Mợ Ba bồng thằng bé đi te te vô nhà, giao cậu Ba việc dọn dẹp và giũ sạch đám kiến vàng.
 
Hồi trai trẻ, cậu Ba đi học ở Sài Gòn. Khi nhìn chiếc mền có hình chiếc lá đỏ như son, cậu biết đó là ý nghĩa tiêu biểu cho lá cờ của Canada. Còn mợ Ba vào nhà và mở chiếc khăn quấn của đứa trẻ, mợ nhận ra cách thức y chang phương pháp săn sóc trẻ sơ sinh được những "bà Sơ" người Pháp chỉ dạy trong khoá nữ công gia chánh, khi mợ còn là cô gái mới lớn.
 
Xóm nghèo không có sữa bò, cũng không sữa mẹ. Thằng Tây con lớn mạng, chịu uống nước cơm pha đường thẻ cầm hơi. Nó khóc muốn lòi rún thì cậu mợ Ba được người thân làm việc cho chánh phủ, ông đó nhanh tay ký tên giấy tờ bảo lãnh. Cậu Ba hưởng qui chế ân xá cho những người theo kháng chiến được hồi cư nguyên quán.
 
Ra thành, cậu mợ Ba nghe bà con nói lại, một ngày sau bữa đưa ông Táo. Dân chợ mình chứng kiến tai nạn thương tâm. Một gia đình gồm hai vợ chồng và đứa con trai 3 tháng tuổi, chết cháy trong chiếc máy bay nhỏ, rớt cạnh bên hàng rào khu bót Cái. Nhưng toán cấp cứu chỉ tìm được xác của hai người lớn. Nhựt trình cho biết thân phận của họ, người đàn ông tử nạn là vị Sĩ Quan cao cấp của phái đoàn Canada trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, một nhánh của Hội Đồng Bảo An LHQ. Người vợ cũng có công tác ngoại giao của bà. Họ và nhiều người nước khác đến Việt Nam để quan sát các bên thi hành và cũng để bảo vệ những điều khoản trong Hiệp Định Ngừng Bắn được nhiều quốc gia ký kết tại Geneve, chấm dứt chiến tranh Việt - Pháp không lâu trước đó.
 
***
Những ngày đầu tiên của gia đình hắn ở xóm Chùa. Bác Tư rất cưng hắn, có lẽ hắn cũng khoái cái tên Tây ”thằng Canada” do bác đặt. Nhất là có chút nhập vai 'người không gian' trong vở tuồng của bác.
 
Ông Tám nhà kế bên, rành rõ câu chuyện này. Ông thường vò đầu hắn an ủi:
 
- Phải mầy đừng có nhúm tóc vàng hoe mấy sợi, mà nên hói trán và da dẻ ngăm ngăm giống bác Tư, hỏng chừng ba má mầy được bác Tư cho vài chục công ruộng. Đỡ khổ hơn làm thằng Tây trắng tay, giả hiệu!
Một Lúa
 

Tìm các bài HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com