User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

covang

Cuối Năm Viết Về "Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ" Càng Thương Thêm Thân Phận Người Lính VNCH

“Chiều buông xuống bầy dế mèn inh ỏi
Ánh đèn dầu sáng dưới mái tranh
Mẹ ngồi đan áo cho cha
Thầm thì lời cầu nguyện

Chữ A,B con đọc
Số Một, Hai con đếm
Ðếm bao giờ cho tới
Ngày nghỉ phép cha về

Mùa đông đến áo mẹ đan xong
Mong cha sớm trở về
Mặc vào cho mẹ vui
Vất vả mẹ không nề

Hằng đêm bầy dế mèn vẫn gọi
Con đếm từng ngày mong đợi
Biết con học giỏi cha mừng
Biết mẹ đan áo cha vui

Chuyến hành quân gian khổ
Không giấy mực biên thư
Cha đành phải quên lời
Không hẹn kỳ trở lại

Hôm sau có người đến
trao mẹ một món quà
Tay run run nhận lấy
Nước mắt mẹ trào dâng

Con hồi hộp muốn biết
Món quà nào cho Mẹ
Món quà nào cho con
Chú quân nhân nghiêm chỉnh

Con dại khờ không hiểu
Mẹ đau lòng ngã quỵ
Trên tay ôm lá cờ
Mảnh vải phủ thân người

Mẹ bảo đây là kỷ vật quý nhất của con
Bây giờ con mới hiểu thứ gì quý nhất trên đời!!!

(Kỷ Vật Quý Nhất – thơ Cát Trắng- Cựu HS TH Phan Bội Châu Phan Thiết)“

Đêm buồn đọc lại thơ của Cát Trắng, khiến cho người lính già cảm động muốn khóc trước nổi đau lòng của người vợ lính, thảm thê đã ngã quỵ khi nhận được tin chồng “tử trận“, mà kỷ vật còn lại là “Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đã phủ thây chàng“, chẳng khác gì “da ngựa bọc thây“ người lính thú đời xưa. Mẹ bảo đây là kỷ vật quý nhất của con và bây giờ con mới hiểu thứ gì quý nhất trên đời!!!.

Trong suốt cuộc chiến Việt Nam kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được “sự thiêng liêng của lá cờ vàng ba sọc đỏ và bản quốc ca hùng tráng được thổi lên khi xung trận“.

Quốc kỳ của Quốc Dân Việt Nam (chứ không phải của Việt Nam Cộng Hòa hay bất kỳ cá nhân nào dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương..) như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị Cộng Sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nước 30-4-1975 đã ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Ðó mới chính là “cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng Ðồng Việt Nam Tị Nạn Hải Ngoại“ hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.

Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh.. Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẫm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính trận và hàng triệu người dân Việt Miền Nam, trên khắp các nẻo đường trốn chạy sự truy sát có một không hai của bộ đội Bắc Việt.

Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ “biểu tượng của quốc dân“ lên Kỳ Ðài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn Ðồi Ðồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ Thành Ðinh Công Tráng Quảng Trị.. đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ Nghĩa Quân + Địa Phương Quân, Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Biệt Kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã hàng nối hàng gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.

Năm 1973, Cộng Sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa theo tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính Việt Nam Cộng Hòa lại phải chịu nhiều thương vong để bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay Cộng Sản. Ðiều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng Ðồng người Việt Quốc Gia và đồng đội phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ trên nắp quan tài trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.

Rồi những ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen 1975, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp Mỹ và hậu phương bạc bẽo có cơ hội chạy.

Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu Tướng lãnh đã bỏ chạy? Hay nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc cấp, cho tới lúc tàn cuộc. Những danh Tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Ðảo, Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn Nghĩa.. há không có phương tiện để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao? Nhưng họ là thanh niên thời đại, là kẻ sĩ nên coi trọng khí tiết làm Tướng, hơn sinh mạng phù vân một đời.

tuonglanhVNCH

Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục tới chết nhưng vẫn chấp nhận hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị giam cầm nhiều chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi chung, vì hai chữ hy sinh cao quý ‘lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh‘, được tất cả mọi người từ dân tới lính, thương mến trân trọng.

Hơn 80 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên lãnh thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến: Ðồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì ‘Lá Cờ‘ được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.

Thời gian đầu thi hành Hiệp Định (1954-1956) còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được quy định 3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, theo lệnh của các Đơn Vị Trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc ‘Chọi Cờ‘ bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải, mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cỡ ‘cờ‘ tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía Bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh sập.

Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có thể muốn người khác phải theo ý mình “đứng chung dưới một ngọn cờ“ mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như lá cờ máu đỏ sao vàng của Cộng Ðảng VN.

Theo sử liệu thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào Niên Lịch 1802 là năm mà Ðức Gia Long Hoàng Ðế đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mau, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.

Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du Ðịa Chí của Nguyễn Trãi, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm… Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này còn tìm thấy nhiều bia đá có Niên Lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Ðể đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi Việt Nam như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị “An Nam” hay “Giao Chỉ”. Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.

Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngủi, nên việc sử dụng quốc hiệu Việt Nam cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.

Riêng hai tiếng Việt Nam cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Ðức và Lê Quang Ðịnh đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.

Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Triệu (207-111 trước Tây Lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía Bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.

1- Cờ Ðỏ Sao Vàng Của Ðảng CSVN:

Về lá quốc kỳ Việt Nam hiện tại, lại càng thêm phức tạp vì đang sử dụng hai lá cờ: Ðảng Cộng Sản Quốc Tế đệ tam đang đô hộ Việt Nam, được Bắc Bộ Phủ tại Hà Nội, xài lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng Cộng Sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến. Ngoài ra Việt Cộng còn xài thêm lá cờ đảng giống cờ nước Việt Nam xã nghĩa có vẻ thêm búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Sô Viết cũ.

Căn cứ các nguồn sử liệu hiện tại, thì lá cờ máu trên được gọi là Hồng Kỳ (Cờ Ðỏ), do Nguyễn Hữu Tiến đã vẽ và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Ðảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Sô và Trung Cộng

Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến, vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Ðỏ Sao Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Ðảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm đã sao chép của Liên Sô. Ðây là những lá cờ của ngoại bang đem về nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố.

2- Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ:

Quốc dân Việt Nam thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở phía Nam vĩ tuyến 17, từ Ðông Hà Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mau, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân Việt Nam. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy đất nước Việt Nam bị Cộng Sản Quốc Tế đô hộ nhưng cũng từ đó, trên khắp mọi nẻo đường hải ngoại, hơn ba triệu người Việt tị nạn Cộng Sản, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý và chấp nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng của Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam.

Tại Úc và nhất là Hoa Kỳ, hai quốc gia tự do có nhiều người Việt tị nạn định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận ‘Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ‘ của Việt Nam, như là một biểu tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Ðồng Việt Nam tị nạn. Sự kiện mới đầy, chính quyền tại tiểu bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định công nhận Lá Quốc Kỳ Việt Nam Hải Ngoại, là một chiến thắng lớn của người Việt, trên đường đấu tranh quang phục đất nước.

Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm ‘Quốc Kỳ Việt Nam‘ của tác giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ Việt Nam được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp để xin chuộc lại ba tỉnh miền Ðông Nam Phần: Gia Ðịnh, Biên Hòa và Ðịnh Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ Việt Nam treo quốc kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đó bốn đại tự ‘Ðại Nam Khâm Sứ‘. Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Ðình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.

Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Ðại, ủy nhiệm lập chính phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho Việt Nam. Ðó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly (–-) trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Ðăng Ðàn Cung làm Quốc Thiều.

covn

Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Ðông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Ðể tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của Việt Nam để nhập vào lãnh thổ Pháp, đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân Việt Nam phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của người Việt.

Ngày 8-10-1947, Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và lập Nội Các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Bộ Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.

Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một Chính Khách kiêm Thứ Trưởng chính phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng ‘Nam Phần Việt Nam‘, để thay thế cái gọi là ‘Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị‘, mà Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc Ca – Quốc Kỳ cho cả nước.

Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ Việt Nam đang sử dụng năm lá cờ khác nhau: Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Ðài và lá thứ năm của Phật Giáo Hòa Hảo.

Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là Chủ Tịch, cùng các đại diện Ðỗ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Ðài. Cuộc triển lãm năm mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Ðỏ, làm Quốc Kỳ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.

Sự kiện lịch sử trên về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại, đề cập tới trong tác phẩm ‘Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)’, xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Ðông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu người Việt Nam trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.

Cho nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cộng Sản Việt Nam, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Đại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam Cộng Sản Quốc Tế, của Liên Sô, Trung Cộng và Việt Cộng. Ðó cũng là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.

Lá quốc kỳ Việt Nam là biểu tượng cao quý nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi vì không sống nổi dưới lá cờ máu của đảng Cộng Sản, cho tới ngày nay, lập trường chính trị vẫn không hề thay đổi.

Lá Cờ của quốc dân Việt Nam hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước Việt Nam.

Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần), giữ chức Giám Đốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận bài hát ‘Thanh Niên Hành khúc‘ của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ Việt Nam yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Ðó cũng là lý do mà chính phủ VNCH khi trước và Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài “Việt Nam-Việt Nam” của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.

Cũng liên quan tới Lịch Sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm ‘Việt Nam Nhân Chứng‘, cựu Tướng Trần Văn Ðôn đã viết là chính ông ta và Tướng Lê Văn Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca Việt Nam hiện tại. Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Ðôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp, thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của của các giáo phái… mới được mời họp với ý kiến và quyết định.

Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Ðức nhà Nguyễn vì thiển cận, không chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ phu trí thức thời đó như Nguyễn Trường Tộ, Ðinh Văn Ðiền, Bùi Viện.., mà cứ chạy theo ôm chân người Tàu lúc đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị thực dân Pháp đô hộ đày đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt Cộng cũng đã bước vào lối mòn năm cũ, đã và đang ôm chân Tàu đỏ lẫn Tàu trắng một cách tận tuyệt, để có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn. Rồi tháng lại ngày qua làm ngơ nhắm mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước càng lúc càng lầm than đói rách, qua cái vỏ phát triển tiến bộ, được sơn phết và tuyên truyền, khiến cho bất cứ ai còn một chút hơi hám của con người, thấy ngó cũng phải đau lòng cho vận nước, chỉ vì một gã Hồ Chí Minh trôi sông lạc chợ, đã làm cho non sông gấm vóc phải tan hoang, không biết đến bao giờ mới được quang phục.

Bốn mươi hai năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng dù ngày nay hình người có thay đổi từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên vết như cái thuở hồng hoang mới rời hang Pắc Pó, rừng Bắc Sơn hay chui ra trong các hang Củ Chi, Vĩnh Mốc. Vẫn đảng Cộng Sản là trên hết, còn nước thì nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cả nước, đều là tài sản của đảng, của cán bộ nên cứ ngang nhiên xén bán, cầm thế, mà không cần biết tới hậu quả di hại cho con cháu mai sau.

Tám mươi lăm năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với Cộng Sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên bốn mươi hai năm qua, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của Cộng Sản, trừ cây cột đèn không nói được…

Chừng nào CSVN còn nắm giữ quyền hành và súng đạn trong tay, ngày đó đừng hòng chúng san sẻ hay nhượng bộ bất cứ ai, nhất là giai đoạn đảng đang sống sướng trên núi bạc rừng vàng, lại được cả Tàu và Mỹ chống lưng, còn nhân quyền, tự do dân chủ, chủ quyền đất nước, sinh mạng người dân… Tất cả coi như là cỏ rác.

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di Cuối năm 2017
Mường Giang

 

Tìm các bài LỊCH SỬ khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com