
*Kính dâng Hương Linh những nhà văn Không Quân (Riêng Sơn Huy, Thư Ký tòa soạn Lý Tưởng và nhà thơ Thanh Chương, Biên Tập Viên trước 1975)
Chào tay! Tôi đứng, anh nằm. Chúng ta là lính Việt Nam Cộng Hòa. Không Quân Hành Khúc hoan ca. Tháng Tư gãy cánh hóa ra đoạn trường. Lời thề Bảo Quốc Trấn Không. Vang danh quân sử, nức lòng toàn dân. Sống chết chẳng thắt ruột gan. Bay vào lửa đạn tử thần tránh xa. Bốn vùng chiến thuật bôn ba. Quân thù khiếp vía, quân ta vui mừng. Bảy Lăm chết đứng còn vương, cớ sao anh vội tang thương chết nằm? Anh từng hứa dẫu trăm năm, chi binh huynh đệ thăng trầm có nhau. Phải đem xương trắng máu đào dẫu đôi thế hệ đổ vào sử xanh. Quốc Cộng có sẵn lằn ranh như sai và trái đành rành tỏ phân. Búa liềm dấy máu muôn dân, (khác) cờ vàng sọc đỏ kết thân ba miền.
Anh về sông núi hồn thiêng, chí anh hùng với những tiền nhân xưa. Kính anh biết mấy cho vừa, gia đình bè bạn còn chưa hoàn hồn. Cớ gì áo nhuộm hoàng hôn, tràng hoa thất sắc ru hồn thiên thu. Trời mưa tôi khoác sương mù, tiễn anh hay tiễn phù du kiếp người. Bảy mươi năm một cuộc đời. Biết bao thương tiếc lộng trời thơ văn. Biết còn có cõi Vĩnh Hằng, mà sao lệ cứ chứa chan mắt này. Gió còn thổi, hạt mưa bay, đồi hoang bãi quạnh nằm đây một mình. Những đời lính cũ tồn sinh, sẽ còn tiếp nối tâm tình anh trao.
Người đi không phủ chiến bào, sao nghe ngựa hí vọng vào tâm can. Tưởng như vó ngựa bạt ngàn, đưa người về với đoàn quân năm nào. Lại nghe ký ức xôn xao, “Cánh bay ngày cũ” với bao chuyện đời. ”Người lính không vũ khí” ơi! Còn nguyên “Tiếng thép” gửi người mai sau. Chống Cộng vì thương đồng bào, kẻ thù phương Bắc tiêu hao dân mình. Đảng Cộng chỉ biết lặng thinh, hiếp dân sợ giặc nhận tiền bán buôn.
Văn thơ anh, chữ thành luồng, tâm hồn cao thượng nhịn nhường bạn văn. Tầm nhìn cũ mới cưu mang, “Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang” thuở nào. ”Pleiku, Bình Thủy, Biên Hòa” Bao lần cất cánh đường xa tung trời. Chuyện tù, chuyện lính một thời, không nguyền rủa, chỉ thực lời chứng nhân. Còn đau đáu chuyện Bảy Lăm, Tháng Tư oan nghiệt mang thân người tù. Vượt rừng, biển đến Tự Do. Chòng chành ngọn sóng con đò lưu vong. Quê hương khắc khoải trong lòng. Tham gia chống Cộng những mong dân mình, hưởng quyền nhân bản mưu sinh, nhu cầu hạnh phúc công bình ấm no. Được quyền ăn nói tự do, truyền thông báo chí phải cho lưu hành.
Chống Tàu, chống Cộng có anh. Trường xưa, quê cũ lập thành hội chung. Chừng như văn võ nhị trùng. Thầy Cô bè bạn tin dùng ý hay. Có chuyện anh làm tôi say: Anh em không bỏ,choàng vai bạn bè. Bạn tù, bạn lính chở che. Chăm lo sức khỏe, ngại chi khổ đời. Dắt dìu nhau ở xứ người. “Họp đoàn” như vẫn trong thời chiến tranh.
Sách mới ra mắt của anh, “Thi Văn tuyển tập”, ”Khung tranh sắc màu”.
Chào anh như thể chào nhau, bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào còn đây. Anh chân thật, lại đa tài. Nói về tác phẩm không ai hay bằng. Không cần giấy viết trên tay, chuông ngân giọng nói, lời dài thi thơ. Rừng văn trận bút ai ngờ, chia tay xếp cánh ước mơ còn đầy. Khói hương bay bổng thành mây, nương lời kinh kệ Phương Tây anh về. Miền Vĩnh Cửu cõi tình quê. Chân Như Bến Giác cận kề Phật Tâm. Đường về Nước Chúa bình an. Dưới chân Thánh Chúa hưởng nhang đời đời… Nguyện cầu Chúa, Phật trên cao đưa anh tới ngôi sao Vĩnh Hằng.
Anh vừa tách khỏi đường băng. Cánh nghiêng lìa bỏ mây ngàn trời xanh. Một người bay giữa chiến tranh, mới quên quá khứ quả nhân kiếp người. Độ trì dân Việt nơi nơi. Nước non bờ cõi rạng ngời mai sau. Bạn bè lính cũ nghiêm chào. Người về gió đẩy mây đưa… lên ngàn. Hồ trường bình cạn rượu khan. Nam nhi hồ thỉ văn đàn thới lai…
Chào tay! Năm ngón ngang mày. Không lau nước mắt chảy dài ướt mi. Thấy anh! Tượng lính súng ghì. Cờ vàng (ba) sọc đỏ, Quốc Kỳ hiển linh.
Phạm Tương Như