User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
ngayxuahoangthictb
 
Một nhà thơ, mặc áo nhà sư, thanh thoát tiếng chuông boong, nhưng cuộc đời ấy chẳng thể nào thoát ngoài phận đời chốn phù du. Ngoảnh lại, ai đã thốt ra lời này, một cái chấm đơn giản, “Thôi thì thôi chỉ là phù vân / thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi”.
 
Với Phạm Thiên Thư, một giọt nước mắt có hai tên gọi, giọt lệ, hạt châu. Đi thong dong đó đây, hoa cỏ dặm đường, thấy có hai ông Phạm Thiên Thư. Cả hai đều nổi tiếng. Một Thư này qua Đọc, Thư kia qua Nghe. Đọc thơ, nghe nhạc.
 
Đọc, là tới với những dòng thơ chưa bị phá trinh, còn nguyên màu, trên giấy. Nghe, là nghe lời thơ đã thụ tinh âm nhạc, qua tiếng hát của ca sĩ, không còn nguyên lời thơ cũ.
 
Sự phối giao giữa thơ và nhạc này, tạo ra hưng phấn phủ trùm, đẩy tâm cảm tới bến bờ. Nhưng cùng lúc, cái chữ của bài thơ chưa về nhà chồng kia, giọt máu của thi sĩ, đã hơn một nửa bị rơi rụng dọc đường biến cải. Cái dáng khởi nguyên, mộc bản thôn nữ, hồn tơ trúc, đã nhường bước cho cái cách chơi bời của người phổ nhạc. Nhạc sĩ là người có toàn quyền định đoạt, sáng hóa, hay đìu hiu đi, một bài thơ.
 
Đặc biệt có một, là một Phạm Duy. Nhiều bài thơ rất tầm thường, khi qua ông, đã trở thành những tuyệt tác. Chỉ Phạm Duy sát thủ, mới làm được việc đổi thay ác nhơn này. Phanh thây bài thơ này, để mần ra một bài thơ nọ, là lời nhạc.
 
Không riêng Phạm Thiên Thư, bao nhà thơ khác, cả Lưu Trong Lư, Xuân Điệu, Hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Minh Đức Hoài Trinh… Phạm Duy cũng chặt bụp bài thơ của tác giả, như xử tử một con gà, biến ra đùi rô-ti, cánh gà chiên bơ, lòng gà bóp gỏi.
 
Hãy so sánh, lời bài thơ Ngày Xưa Hoàng Thị với lời bản nhạc của Phạm Duy, xem ông đã thay đổi trang phục, mang thêm hia đội thêm mão ra sao.
 
Thơ Phạm Thiên Thư:
 
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng
 
Và đây, lời nhạc Phạm Duy:
 
Em tan trường về đường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở tóc dài tà áo vờn bay
Em đi dịu dàng bờ vai em nhỏ
Chim non lề đường nằm im giấu mỏ
Anh theo Ngọ về gót giày lặng lẽ đường quê
 
Thơ PTT:
 
Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn
Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng
Lòng sao rưng rưng
Như trời mây ngợp
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần
 
Lời PD:
 
Em tan trường về anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề lòng anh nức nở
Mai vào lớp học anh còn ngẩn ngơ ngẩn ngơ
 
Thơ PTT:
 
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuối vở
Thương ơi vạn thuở
Biết nói chi nguôi
Em mỉm môi cười
Anh mang nỗi nhớ
 
Lời PD:
 
Em tan trường về mưa bay mờ mờ
Anh trao vội vàng chùm hoa mới nở, ép vào cuối vở
Muôn thuở còn thương còn thương
Em tan trường về anh theo Ngọ về
Môi em mỉm cười mang mang sầu đời tình ơi
 
Thơ PTT:
 
Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau
Ôi mối tình đầu
Như đi trên cát
Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng nhòa mau
Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu?
Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng
 
Lời nhạc PD:
 
Bao nhiêu là ngày theo nhau đường dài
Trưa trưa chiều chiều thu đông chẳng nhiều
Em tan trường về anh theo Ngọ về
Môi em mỉm cười mang mang sầu đời tình ơi
Xuân qua rồi thì chia tay phượng nở sang hè
Rồi ngày qua đi qua đi qua đi
Như phai nhạt mờ đường xanh nho nhỏ
Như phai nhạt mờ đường xanh nho nhỏ
Hôm nay tình cờ đi lại đường xưa đường xưa
Cây xưa còn gầy nằm phơi dáng đỏ
Áo em ngày nọ phai nhạt mấy màu
Âm vang thuở nào bước nhỏ tìm nhau tìm nhau
 
Thơ PTT:
 
Đời như biển động
Xoá dấu ngày qua
Tay ngắt chùm hoa
Mà thương mà nhớ
Phố ơi muôn thuở
Giữ vết chân tình
Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời
Tình ơi tình ơi!
 
Lời nhạc PD:    
 
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về
Nay trên đường này đời như sóng nổi
Xoá bỏ vết người chân người tìm nhau tìm nhau
Ôi con đường về ôi con đường về
Bông hoa còn đẹp lòng sao thấm mệt
Ngắt vội hoa này nhớ người thuở xưa thuở xưa
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về
Đôi chân mịt mù theo nhau bụi đỏ đường mơ
Xưa theo Ngọ về mái tóc ngọ dài
Hôm nay đường này cây cao hàng gầy
Đi quanh tìm hoài ai mang bụi đỏ đi rồi
Ai mang bụi đỏ đi rồi
 
Ngôn ngữ của Phạm Duy quả là chữ nghĩa một thi sĩ bậc thầy. Cách điệu, trùng lặp, nhì nhằng, nhưng rất ư nhẹ thoảng, mơ hồ. Lẽo đẽo một mối tình trong suốt. Tháng ngày như vô định. Mộng đời tuồng là hư tưởng.
 
Kỹ thuật phổ của Phạm Duy là lược bỏ những chữ thừa, những từ thấp, làm cô đọng, thêm chữ mới cho sáng nghĩa, có khi thay đổi cả bố cục bài thơ. Ông có chỗ tự tin khi sáng tác. Đó là cái tư chất quý hiếm của người sáng tạo. Là một tương phùng, hội ngộ chỗ Bồng lai nghệ thuật, giữa thơ và nhạc.
 
duaemtimdonghoavangctb
 
Ngay cả bài thơ nguyên gốc Động Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư, rất dài với 100 đoạn, 400 câu thơ, Phạm Duy đã nấu cao ra nhạc phẩm Đưa em tìm Động Hoa Vàng, như sau:
 
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau
Thôi thì thôi đừng ngại mưa mau
Đưa nhau ra tới bên cầu nước xuôi
Sông này đây chảy một giòng thôi
Mây đầu sông thắm tóc người cuối sông
Nhớ xưa em chửa theo chồng
Mùa Xuân may áo áo hồng đào rơi
Mùa Thu em mặc áo da trời
Sang Đông lại khoác lên người áo hoa
 
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau
Thôi thì em chẳng còn yêu tôi
Leo lên cành bưởi khóc người rưng rưng
Thôi thì thôi mộ người tà dương
Thôi thì thôi nhé… đoạn trường thế thôi
Nhớ xưa em rủ tóc thề
Nhìn trăng sao nỡ để lời thề bay
Đợi nhau tàn cuộc hoa này
Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ
 
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì thôi để mặc mây trôi
Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân
Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi
Chim ơi chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà
Mai ta chết dưới cội đào
Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu
 
Gọi rằng nấu cao vì bài thơ trên dưới 20.000 từ, nay còn 222. Cho về vườn 9, chọn 1. Lấy lính tinh nhuệ mà thôi.
**
Vì cuộc biến ảo, hóa trời mây ngũ sắc, từ thơ Phạm Thiên Thư, xin phép được nói riêng đôi chút về Phù thủy Phạm Duy cho rõ sự tình.  
 
Phạm Duy là một Cõi Lạ, làm việc dai dẳng. Từ 1942, buổi đầu đời ông phổ nhạc Cô Hái Mơ, thơ Nguyễn Bính, tới 1985 phổ thơ Hoàng Cầm. Cuối đời dở dang, Phạm Duy qua đời.
 
Về sáng tác, ông có hơn 1.000 ca khúc, qua khắp  các thể loại, kháng chiến ca, anh hùng ca, dân ca, hương ca, tâm ca, thiền ca, quê hương ca, hè phố ca, nhiều trường ca, cả… tục ca.
 
Chuyển ngữ từ lời Anh Pháp sang tiếng Việt, và đặt lời Việt cho những  nhạc không lời từ nước ngoài là trên 250 bài!
 
Phổ thơ gần 300 bài!
 
Phạm Duy có cái tầm mặc khải được những điều bất khả thể, trong cái thế giới tâm linh, và siêu nhiên. Ông đi cùng nguồn ngữ, bên này thử ngạn sang bờ kia bỉ ngạn, mê và giác; từ sơ nguyên đầu nguồn ra cửa bể con sông tư tưởng. Bình dị tới hàn lâm. Là phù thủy ném vãi hạt gạo ra cánh bướm, hô biến cá chép hóa rồng.
 
Những bài thơ tưởng âm thầm ngủ yên, những lòng đời âm u trong góc khuất, gặp Phạm Duy, chúng được phủ ánh sáng, hiện hữu long lanh. Bầy thơ khiêm tốn ấy đã trở thành tiếng ca, đến và ở lâu trong lòng người.
 
Phạm Duy đã đến với các thi sĩ. Chuyện Tình Buồn [Phạm Văn Bình], Tưởng Như Còn Người Yêu [Lê Thị Ý], Còn Chút Gì Để Nhớ [Vũ Hữu Định], Ta Yêu Em Lầm Lỡ [Đào Văn Trương], Đừng Nhìn Em Nữa Anh Ơi, Kiếp Nào Có Yêu Nhau [Minh Đức Hoài Trinh], Tôi Đang Mơ Giấc Mộng Dài, Đường Chiều Lá Rụng [Lệ Lan], Con Quỳ Lạy Chúa Trên Trời [Nhất Tuấn], Vết Sầu [Nguyên Sa], Hai Năm Tình Lận Đận, Em Hiền Như Ma Soeur, Thà Như Giọt Mưa [Nguyễn Tất Nhiên], Kỷ Vật Cho Em [Linh Phương], Tâm Sự Gởi Về Đâu [Lê Minh Ngọc], Mùa Xuân Yêu Em [Đỗ Quý Toàn], Mùa Thu Paris, Tiễn Em [Cung Trầm Tưởng], Quán Bên Đường [Trang Thế Hy]… đến cả ca dao, Đố Ai, Nụ Tầm Xuân… Phạm Duy phổ cả thơ từ truyện Kiều, Hàn Mặc Tử.
 
**
Riêng Phạm Thiên Thư, Phạm Duy chí tình, tận tâm nhất, bước vào Cõi Thơ. Ngoài những ca khúc Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa Em tìm Động Hoa Vàng, ông còn phổ một số thiền thi khác của Phạm Thiên Thư, những bài đạo ca. Bài nào cũng đạt đỉnh cao nghệ thuật. Sang trọng như nhã nhạc. Nồng nàn những tình ca. Đẩy ngôn ngữ Phạm Thiên Thư bay bổng đến tận biên ải, thoát  ngoài ngôn ngữ – ý tại ngôn ngoại – rồi lại trở lùi. Từ, ngôn trở về thanh, thanh chỉ còn âm. Chỉ là âm vang. Toàn bài nhạc nghe qua, chỉ còn là một dải lụa hải triều âm rì rào. Rì rào, mênh  mông. Chẳng cần thiết “Kể lể gì thêm”.
 
Hẳn phải có lòng quý mến, sự liên thông giữa hai tài danh, một thơ một nhạc, phải lòng nhau rất mực, hồn chạm hồn, Bá Nha-Tử Kỳ, mới có một lực quyến rũ, mê đắm hồn người thưởng ngoạn.
 
Lời thơ người họ Phạm, qua dòng nhạc của Phạm kia, trở nên hoa gấm. Phạm Thiên Thư trở nên rực rỡ, đỉnh cao. Đã nghìn nghìn người nghe Ngày Xưa Hoàng Thị, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng… Và, thêm nhiều khác, chờ được nghe.
 
Nhưng, thế gian thường tình. Lời khen đầu tiên, là, Nhạc Phạm Duy hay quá. Ít khi nghe, thơ Phạm Thiên Thư hay quá. Bởi vì bài thơ nguyên thủy đã biến mất. Người thi sĩ là cái thi hài đang lơ lửng từng mây, dù mây ngũ sắc. Còn đây, rung chuyển trái tim người là … thơ của Phạm Duy.
 
Người nghe, hẳn nhiên, đông gấp nghìn lần người thơ thẩn xuân thu nhị kỳ, họa may mới đọc một bài thơ. Nghe nhạc nó bùi cái lỗ tai, mắt nhìn, bởi một trời réo rắt đờn ca sáo thổi, ánh đèn màu, vẻ đẹp nàng ca sĩ. Đọc một bài thơ tỉ như ăn chay. Nghe chính nó khi qua nhạc, quả là ăn mặn.
 
Vì chỉ nghe qua nhạc, lại rất nhiều người không hề đọc thơ, người ta quên, hoặc không hiểu ra Phạm Thiên Thư còn một Cõi khác, thơ mộng, lẫn thác ghềnh hơn nhiều. Đó là chỗ vi huyền của thi hóa kinh Phật, là chốn đơn thuần của tình yêu “đạo hạnh”. Là biển trời thân phận một Đoạn Trường Vô Thanh. Tập thơ này của Thư gồm 27 chương, 3290 câu, thể  thơ lục bát.
 
Đoạn trường
Sổ gói tên hoa
Xưa là giọt lệ nay là hạt châu
 
Đọc Đoạn Trường Vô Thanh, đọc những lời thơ thi hóa kinh Phật, mới thấy tài hoa, uyên bác nơi nhà thơ họ Phạm. Đặc biệt, Phạm Thiên Thư hiếm khi dùng ngôn ngữ hàn lâm, hán-việt, mà là thuần nôm, phong khí nhẹ nhàng, cận nhân tình. Ngôn ngữ ấy trở ra đầm ấm, tình đầy. Đạt chỗ Như nhiên.
 
Đoạn Trường Vô Thanh, theo tôi, Người họ Phạm có một chủ nghiệm riêng. Có thể, ông đã định đặt kiếp đời mình cùng trong một giấc mộng hóa bướm của Trang Tử. Thế hệ chúng tôi, buổi ấy, ngoài Phật, Nho, chẳng thể nào thoát ngoài ảnh hưởng Lão, Trang.
 
**
Có một nguy hại, nhiều người, cả một ít nhà phê bình, cho tới nay, định chuẩn, nhất thiết là vầy:
 
Cái tầm thi sĩ của Phạm Thiên Thư ở mức Lên Non Tìm Động Hoa Vàng, Ngày Xưa Hoàng Thị và một số Thiền thi được Phạm Duy phổ nhạc. Ni tấc ngần ấy thôi.
 
Tôi không nghĩ nhiều người đã bằng lòng trú ẩn trong định chuẩn này. Mỗi phận người hãy còn nhiều ẩn mật. Và, sự thoát ngoài, luôn là cửa ngõ khải thị.
 
Giữa một bài thơ, tiền thân của lời nhạc, tuy trở ra một bài hát tuyệt hảo, hãy còn nghìn dặm xa. Trời kia chẳng phải đất này.
 
Có người lại cho rằng, “Nếu không có thiên tài Phạm Duy, chỗ đứng của Phạm Thiên Thư trong lòng người thưởng ngoạn sẽ khiêm tốn hơn nhiều.
 
Đúng, sai, ngày tháng còn, sự thật còn.
 
Tôi đã nói rồi. Hãy bước ra ngoài cõi thơ – nhạc dính chùm, tơ vương, giữa hai ông Phạm, ta sẽ thấy một cảnh giới riêng thơ, trang nhã và nồng nàn Phạm Thiên Thư.
 
**
Cách đây ba tuần, một ông bạn vong niên đã gởi đến tôi một lời, “Mong anh cho em một bài về Phạm Thiên Thư”. Bài ấy là bài này đây.
 
Năm 2025 là năm Phạm Thiên Thư đúng 85 tuổi. Tuổi âm lịch – còn gọi là tuổi mụ, hoặc tuổi trăng – là  86. Ra một tập thơ, kỷ niệm, đúng bon. Ừ nhỉ, thế thì tôi, của 2025, cũng vào tuổi 89. Đêm trăng tròn chẳng thấy trăng nào tròn.
 
Dòng nước chảy xuôi, lòng người luôn chảy ngược. Non thế kỷ, hai ông già thơ thẩn dưới ánh trăng. Nhớ những xa xưa. Bạn bè. Nhớ nắng mưa thuở nọ.
 
Thuở nọ là thuở nào vậy. Cũng đà năm mươi năm trôi qua, Sài Gòn có một viện Đại Học danh tiếng, thuộc Phật giáo, có tên Vạn Hạnh. Nơi quy tụ, các nhà tu hành, khoa bảng. Thượng Tọa Thích Minh Châu, Viện Trưởng. Viện Phó là Thượng Tọa Thích Mãn Giác. Hai vị đều là Tiến Sĩ tốt nghiệp từ nước ngoài, đều có công dịch thuật những bộ trường kinh hàng nghìn trang, trước tác, các biên khảo văn hóa, tư tưởng Phật giáo.
 
Bên cạnh cổng trường có quán cà phê Nắng Mới. Sáng chiều, là nơi gặp giữa các nhà sư, các văn nghệ sĩ sĩ thời danh. Lạ lùng, ra quán cà phê, nói lung tung Triết học, chỉ mấy ông Đại Đức, chúng tôi thân thiết cùng nhau một thời tuổi trẻ.
 
Chúng tôi gặp nhau hằng bữa. Những con người ít nhiều tài năng và thông thái. Có chút điên và say đắm văn chương triết học. Ngồi Nắng Mới, không dùng bia rượu, chúng tôi luôn uống cà phê, thật đậm. Nói như ví von của một nhà văn, đen của địa ngục, nóng của lửa mặt trời, và ngọt đắng trần gian.
 
Có mặt, những là, Đại Đức Thích Chơn Hạnh, tức Trần Xuân Kiêm, người dịch Zarathustra đã nói như thếF. Nietzsche, Triết gia Đức. Đại Đức Thích Chơn Pháp, Nguyễn Hữu Hiệu, người dịch Doctor Zhivago, tiểu thuyết của Boris Pasternak, nhà văn Nga, tác phẩm đoạt giải Nobel văn Chương 1958. Đại Đức Trần Ngọc Cư, chừng như nay là Hòa Thượng Thích Phước An [?]. Và, Phạm Công Thiện, Đại Đức Thích Nguyên Tánh. Và, Đại Đức Tuệ Sỹ, người ngay thời tuổi trẻ chúng tôi đã rất mực yêu quý. Lại thấy Bùi Giáng, uống một cốc cà phê di chuyển nhiều lần, chạy ra chạy vào, đường phố múa may. Phạm Thiên Thư lúc này còn tu, có học Vạn Hạnh. Thư tu mười năm [1963-1973], rồi giã từ chuông mõ, mần thơ yêu em.
 
Thơ và nhạc, đã giúp gì cho chúng tôi, một thế hệ, cuồng điên tận hiến vì lý tưởng chung. Cùng kiệt tự hủy, tro than cho những những ý thức hệ tư tưởng, văn chương, chiến chinh. Hạnh phúc tan như bụi. Bạn bè người đi không trở lại. Ối a, có trở về đó chứ. Xa xa, một nấm mộ xanh.
 
Đời bỏ ta dọc đường.
 
Vậy, hãy gần nhau lại.
 
Gởi tới Thư, người bạn quý của tôi, lúc nào cũng hiền hòa, thơ mộng, luôn thân ái với mọi người, lời thăm hỏi. Năm mươi năm trôi qua, kể từ, nơi bờ xưa chúng ta cùng nhìn bờ nước trôi, nay đã là Dòng sông cũ. Nhớ thương, không hề cũ.
 
Cung Tích Biền
Garden Grove - California, 11-2024
 

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com