User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

Thời xa xưa, nghe tân nhạc tuy rất giản tiện nhưng vẫn có thể bị cho là một điều xa xỉ. Âm thanh loại nhạc mới này nhiều khi rỗn rảng xốn xang còn thua cả tiếng nhạc lanh canh do hai miếng vỏ của con vẹm vẹm chạm vào nhau để lùa cho cá nhảy vào đăng. Không cần đủ bộ sậu toàn ban gồm đàn xênh trống phách và cô tơ cô tiếng này kia. Chỉ cần cái máy hát ngon lành và những dĩa nhạc thiệt hay cùng một vài cây kim cho tốt là vui nghe hát xướng linh đình. Mở máy hát cho nghe cả xóm, hay trong nhà hoặc một nhóm nhỏ mấy người thì cũng phải theo thời mà điều chỉnh âm thanh. Tiệc tùng chơi dỡi, vặn máy hát thiệt to cho mọi người thưởng thức. Muốn chơi cao, cùng vài ba người đồng điệu tùy nghi sắp xếp thú thưởng thức âm thanh bên ly trà thơm cùng mấy miếng mè xửng dẻo ngon ngọt lịm.

Hue 5

Thời giao mùa của tân nhạc, cũng đàn, cũng ca, cũng “bể dĩa” tình tang! Nghe tân nhạc nhưng lòng đầy những cung hò xự liêu cống xê! Muốn văn minh có khi phải tham dự hàm thụ khóa học hè. Nằm trên đò lao chao lắc nhẹ theo sóng gợn, nghe từ dĩa nhạc quay tay mới có thể thông suốt được nỗi vui chan chứa trong lòng đến độ trăng chợt rụng xuống cầu. Trăng rụng một cách đột ngột như trái mít ướt lổn cồi không cần quạ mổ. Trăng rụng một cách ngang tàng nhưng không gây một chút sóng gió trên sông. Giọng ngân của mấy cô ca sĩ “tự nhiên hát được” nghe hoài thấy cũng hay, cho dù có cứng cáp, gãy gọn như mấy mảnh nước đá bào chạm nhau trong ly chè đậu xanh đánh lâu lâu cầm lên ăn một muỗng, xong để lại chỗ cũ trên miếng gỗ đọng nước mát một vòng tròn xoay. Tiếng vỏ vẹm vẹm chạm nhau kêu lách cách vang dội đu đưa trên sóng nước. Chiếc thúng trát nhựa chai to chừng một sải khó chèo khó lái do một người điều khiển lần theo lưới chui vào. Nước đọng trên mắt lưới lấp lánh ánh trăng trông như vàng như bạc tan biến thật mau. Lưới phải lên khỏi mặt nước mới trông thấy cá. Kéo rũ lưới từ từ gom cá về một phía xong đưa lần về chỗ trổ miệng con. Đứng dạng chân cho chiếc thúng không lúc lắc, lừa thế hứng ngay chính giữa, rồi kéo lưới chùng xổ xong mớ cá, lần trở ra chèo thúng về bến nước thong thả nghỉ ngơi. Trên bục chận ngang phân chia khoang sau khoang trước của con đò trong vạn, ngồi vắt chân xấp mảy, kéo điếu thuốc cày thiệt là sướng cách chi! Tuy cùng là dân kẻ chài, nhưng cũng phân chia lặn hụp kéo lôi. Người suốt đời lặn sâu bắt cá thường không hút thuốc hay uống rượu ăn trầu. Lớp chuyên môn kéo lưới thả câu thường kéo luôn mồi thuốc ống tre lâng lâng sương khói.

Vẹm vẹm là một loại ngao, thuộc dòng họ nghêu sò ốc hến, lớn dài cả gang tay, hàng năm theo con nước vào ruộng đẻ trứng. Không vi, không mắt, mỗi khi vẹm vẹm muốn di chuyển thì ép hai mảnh vỏ rồi lướt đi như miếng đá mỏng ai quăng xiên xuống nước. Từ phá Tam Giang, dọc theo bợt rào từ Vĩnh Tu, Lãnh Thủy lên cho tới Thanh Hương, Đại Lược, thuộc quận Hương Điền, cứ mùa hè thì vẹm vẹm vào ruộng tràn đìa. Người làm cỏ lúa, bắt vẹm vẹm bỏ oi, đem về nấu miếng keng ăn chút. Lựa mấy cặp vỏ vẹm vẹm cho đẹp, dùng cát mịn chà sạch lớp nâu đen bên ngoài, xong kẹp ngược một mảnh vỏ vào ngón tay cái và mảnh thứ hai vào đầu bốn ngón tay còn lại, ép chập vào nhau thành tiếng theo điệu hát, khoan thai nhịp một, nhịp ba, thúc dồn nhịp năm nhịp bảy, lúc lơi, lúc láy, lúc rung tròn như tiếng chiện chiện réo cà lơi, nhiều khi nghe thiệt hay tùy theo bàn tay của nghệ nhân thả theo tiếng nhạc. Tuy là kẻ quê mùa nhưng tâm hồn cũng tràn trề hương bông lúa rơm khô, khi nghe tiếng nhạc phát ra do vỏ con vẹm vẹm qua bàn tay điêu luyện của nhạc công, vẫn thường chắc lưỡi khen hay, bởi lẽ vì không đủ chữ nên mới bảo là hay chi hay ốt dột!

 hue

Đánh cá trên sông, lấy mái chèo gõ vào mạn thuyền làm cho cá sợ phóng xoang vào lưới. Nhưng có lúc gõ mái chèo không nhằm chỗ vì cá quá sợ hãi lội ngược trở lộn lui. Tiếng vỏ vẹm vẹm thanh thanh làm cá khi bơi tới đụng lưới mới phóng tràn qua mặt nước rớt vào đăng. Trong phút trào lòng, cho dù là mấy nhịp cầu tre vốn ít thấy ở xứ Huế sau này, cũng vẫn lọt xuống sông vầng trăng tròn thay đèn cho những người giã gạo ban đêm. Giã gạo xong, ăn chén cháo vẹm vẹm cho khỏe đặng đi ngơi. Món bình dân, cách nấu cũng bình dân. Luộc vẹm vẹm chín nở tung hai mảnh, xong vớt từng con khều bỏ vỏ còn ruột để lộn lui trong nồi nước luộc bốc hơi. Bốc nắm gạo vo sơ rồi cho đại vào nồi, đổ thêm vài gáo nước nấu nhừ tơi là được. Khi ăn thì thêm chút nước mắm và mấy trái ớt tươi. Chén cháo vẹm vẹm gồm hai vị dẻo dai lỏng tuột. Húp nước cháo trơn lu, còn lưa nhai thịt vẹm dai dai sần sật. Chút mặn mặn, cay cay hà thít. Mồ hôi ra rơm rớm sau lưng. Sang thì thêm vô một chút gừng. Còn không cháo vẹm vẫn từng xưa nay! Ăn xong chíp chíp miệng để cái ngon chạy khắp quanh thân. Quài tay bưng núc đọi nước chè quết, mần thêm điếu thuốc ngang vị chi đủ bộ! Hiền lành và đơn giản như điếu thuốc lá vấn bằng lá thuốc khỏi cần giấy quyến giấy keo mần chi cho phiền hà rắc rối. Bập hơi thuốc nặng nghẹn say tức ngực ngon thiệt là ngon. Dễ dàng như khi nhìn thấy bóng trăng in dưới nước bèn cho là trăng sỉa xuống ao! Tiếng nhạc vẹm vẹm dùng thúc cá vào đăng, hay là nhạc dạo đầu cho kẻ chèo chiếc thúng tròn xoay ra dở đăng trút cá? Thân phận thấp nhất trong xã hội, ban đêm tăm tối, có cái khố cũng cổi ra để dành cho mới, không thôi sợ quấn vấn nhiều vòng làm giãn chỉ sợi thưa, hơn nữa có vải mô chịu cho thấu cảnh dầm nước dầm non cả ngày lẫn đêm không nghỉ. Nói cho ngay cho dù có ở lổ giữa đêm đen, cũng giống như con cá không bao giờ biết chuyện mặc áo mặc quần, thì có chi mô mà trẽn?

Người miệt biển ăn cay, trách cá kho ở mô dưới Thuận An, Tân Mỹ cho thiệt đầy cả ớt đỏ ớt vàng rực rỡ xuân thu. Mang vô trong Huế trong Dinh phải rắc nhiều tiêu. Người miệt vườn ăn vừa ớt lẫn tiêu. Ớt và tiêu hàng ngày quen thuộc. Giai cấp rõ ràng phân biệt dinh quê, nhưng ít người để ý. Ớt của dân nghèo, có lúc nghèo cả vị cay. Giống ớt chìa vôi cay the the, đến loại ớt chùm, ớt đũa chuyên trồng làm ớt bột. Dân nhà quê có mấy ai trồng mô cái thứ ớt cay xé lưỡi, điếc tai, cắn một tí phải hắt hơi nấc cụt như ớt tím, ớt mọi, ớt chỉ thiên của thành phần ăn cơm với thịt vuông, cá khúc! Còn những loại tiêu trắng, tiêu đen này nọ, thôi thì chờ khi mô giàu có bạc triêng bạc thúng hẳn mua! Chừ đang nghèo, cơm dưa mắm muối còn lo chưa có đủ mà ăn, vậy phải tạm thời nhịn tiêu cho khỏe! Nhân tiện làm đồng, đạp phải con vẹm vẹm dưới chân, mất tí công bắt lấy, chẳng tốn tiền mua. Bỏ công thì bỏ, chứ ai dại chi bỏ của. Mấy con hến cơm bằng móng tay cái trong Huế, sống mô bên cồn, muốn ăn phải bỏ tiền mua lại của mấy người lặn xúc. Từ món hến xào, canh hến đến món cơm hến lừng danh đều cho nhiều tiêu để bớt hết mùi tanh và không làm lạnh bụng. Con vẹm vẹm ở chốn quê mùa lạc hậu ngoài ni dáng vóc to lò lò ăn mau no lại không cần đến các thứ gia vị tiêu đường này nọ. Hến luộc xong, đổ vỏ, cho dù đó là loại hến đặc biệt ở tận trong Dinh. Còn vẹm vẹm luộc xong cũng bỏ vỏ, nhưng có khi vỏ vẹm vẹm được dùng làm nhạc cụ trong một số buổi hát ở các dinh các phủ, thiệt là sang trọng rỡ ràng, có mô câm như nghêu, như hến! Lại trên bến nước trường giang, tiếng nhạc vẹm vẹm làm vui lòng tôm cá, thảnh thơi đời ngư phủ trong số kiếp thuyền chài! Sống đơn giản đạm bạc, không cần tiêu tròn đầy hai ý nghĩa đen và nghĩa bóng. Kho cá không cần hồ tiêu. Nghèo khó không có tiền tiêu. Nói chuyện với dân sống sát bờ nước vùng biển cạn quanh đầm Thủy Tú và phá Tam Giang đừng nên nhắc chuyện tiêu vì ít khi cần đến. Có mô như trong cồn trong rẫy, trong Huế trong Dinh ăn chơi kiểu cách đúng mực đúng nang. Quê mùa chạ chạ như ở ngoài ni biển cạn, tuy địa danh rất hay như Lãnh Thủy, Vĩnh Tu, Điền Hương, Điền Hải nhưng sản vật chẳng được mấy cái ngon, không xứng với tên làng tên xóm.

nhanhac

So sánh với trên nguồn, có chỗ lại còn hơn vài nơi dưới biển. Lúa nếp sắn khoai tre giang măng nứa mô cũng như mô, nhưng ba cái thứ gia vị lỉnh kỉnh như tiêu sân lá lốt thì nhất định chào thua vì miệt biển quê mùa ngoài ni không có! Trước hết, tiêu hột là thứ thượng lưu. Như chuyện ngày xưa, có ông vua bên nước Anh, dùng vàng mà đổi lấy hột tiêu của mấy chú con trời, chuyện kể rõ ràng vàng tiêu ngang ngữa. Ở đây nỏ có bạc vàng, nên ba cái chuyện hồ tiêu hồ tiếc cũng dẹp qua một bên cho khỏe. Làm việc đồng áng, ăn thức ăn khô chắc bụng. Tối về mới ăn canh cho có thêm một chút tí nước nôi. Canh bí, canh bầu, rau khoai, tôm cá, chụt nưa, môn tím mấy thứ xoay quanh. Giản tiện lấy làm đầu, ai hơi mô thêm thắc ba cái thứ hành ngò vô trong nồi canh mần chi cho phiền phức. Mãi cho tới thời đệ nhị Cộng Hòa, một vài chợ ven biển mới mở thêm hàng thịt. Canh thịt bò cho sả, lá lốt và một chút lá sân, tuy là thứ canh suông nhưng có kẻ cho thiệt là ngon cách chi ngụy tặc. Sả và lá lốt cũng là mấy thứ thượng lưu ngoài ni không có. Miếng thịt bò đắt vàng trời, lại không ngon bằng lát cá dỡ mùa mưa! Gặp dịp vô Huế làm sang chơi theo kiểu nhập gia tuỳ tục, đi kéo ghế gọi tô cao lầu mì thì phải có đầy đủ nước mắm xì dầu sa tế tiêu hành chanh ớt đàng hoàng. Còn bình thường, tiêu với tiếc làm chi cho nó mắc răng! Thơm mít là thứ sang, của nhà quan nhà vườn, phủ phường này nọ. Nồi canh mít non nấu với tôm tươi rắc thêm sân lốt thơm ngon nhưng kiểu cách, khó nấu hơn nồi keng bín keng bù. Lại mấy thứ lá sân lá lốt có mô dễ kiếm. Ngay như ở chợ Đông Ba nhiều khi cũng nạo không ra. Lá lốt thì có thể bán ở chợ thường xuyên, chứ lá sân non phải chờ mùa xuân sau khi ra hoa kết trái mới đâm chồi nẩy lộc ra mầm non màu đỏ bầm thơm ngát mùi ...sân! Lại ít người hái bán lá sân non, bởi lẽ giá chẳng được mấy trự mấy đồng mất công tốn sức. Những người bán mít non cắt miếng, thường gói kèm thêm vài cọng lá sân non để chìu lòng khách. Có hỏi mới đưa, vì không biết người ta mua về để nấu canh hay dùng cho việc khác. Lạ một điều là chỉ bỏ sân lốt vô trong nồi canh. Còn dĩa mít trộn cần có mè rang thơm, giã giập giập cho vào, thêm mấy cọng ngò, xúc bánh tráng nướng giòn tan không cần sân lốt. Thứ chi ra thứ nấy, nồi canh mít ai lại bỏ thêm mè. Canh thịt bò hay canh chuối xanh cho tới canh môn canh nưa cũng thường gia thêm tí lá sân lá lốt cho nó dậy mùi.

Bên Mỹ có một loại cây lá non cũng đỏ nâu, thoáng ngửi qua cũng như mùi lá sân tên gọi là Pepper Tree. Cây cao, cho hạt cũng như hạt sân. Mùi hơi giống lá sân, nhưng vị thì hoàn toàn khác, không thể thay thế. Sân là giống cây leo, có gai, thường mọc nương theo những cây khác như tre, duối dại, căng, v.v hoặc mọc từng bụi trong những bãi đất hoang, gò, nỗng. Không ai trồng sân, nên khi nói chuyện làm giàn cho sân leo quả y như rằng đây là chuyện hoang đường nhất hạng. Đem trồng cây sân trong chậu, cũng lạ lùng như con cá móm chép miệng giữa sông Hương! Hoa sân màu trắng ngà ra từng chùm nhiều nhụy tán nhỏ thật mịn, rất thơm. Ong thường đến hút mật lấy phấn hoa bay vù vù loạn xạ. Trái sân mọc theo chùm, tròn như hạt tiêu, chẳng ai ăn nên không biết rõ vị mùi. Thời còn con nít có chơi trò lấy ống hóp làm cây súng bắn hột sân, trúng phải cũng đau sưng ửng đỏ. Cắn thử hột sân tươi thấy hơi cay tê đầu lưỡi nhưng không dám ăn vì nếm chẳng ngon lành, lại còn sợ ăn bậy vào chết dại. Hột sân non màu xanh, hột sân tra chín chuyển sang màu đỏ rồi rụng xuống. Tuy hột nhiều, nhưng mọc cây con rất ít, có lẽ vì trong bụi rậm không đủ ánh nắng mặt trời. Phải chăng lá sân non là một thứ rau mùi đặc biệt của đất Thần kinh. Ăn một lần là nhớ mãi. Tì vị có hư hàn ăn vào cũng chẳng hề chi. Thèm cọng lá sân, nhưng chẳng bị ghiền. Có càng tốt, còn không thì nhơ nhớ!

Cơ thể con người, ăn một miếng hôm nay, bảy năm sau mới đào thải sạch. Hai mươi tám năm qua, tức là gấp bốn lần. Hàng ngày nói tiếng Việt ít hơn tiếng Mỹ. Da thịt bây giờ nhiều chất bơ chất thịt hơn chất cơm chất canh. Hai mươi tám năm qua có khi cả năm không uống nước mà vẫn sống phây phây vì mấy chai bia lạnh rất vệ sinh lại rẻ. Tuổi càng cao, vóc dáng càng đẫy đà, bụng lớn răng thưa. Có lúc thức dậy thấy rêm mình, tay chân nóng rát. Người bần thần uể oải những muốn nằm thêm. Chóng mặt, ù tai, cáu bẳn không yên. Khám bác sĩ, mới hay lượng đường trong máu cao quá mức. Sống bên Mỹ mang ngay bệnh đế quốc đế cò hay tư bản tư bung đủ thứ. Tuy vẫn còn cười cợt không cần phải trông chừng cảnh sát lúc xuống đường tưới cây ven lộ, nhưng thấm thía rã rời vì chứng bệnh nan y không nhức không đau. Thuốc nọ thuốc kia ngày năm bảy loại. Cử kiêng lắm chuyện, cấm bột cấm đường. Đậu khuôn muôn năm, gạo Ấn Độ Pakistan vạn tuế! Lật trang sách cũ, tìm kiếm phương thang.

Từ Lục Vị đến Bát Vị Hoàn cứu chữa. Liên hệ bên nhà, nhờ ơn tiên tổ, có người mách cho bài thuốc gia truyền, chỉ cần uống vài thang lành bệnh. Thư từ qua lại, mua thuốc đúng thầy. Cách mau nhất là nhờ người mang tay sang Mỹ. Tiền tài không kể, mong có thuốc tiên. Kiếm người thật quen gọi là nhờ vã. Nhớ ngày xưa, kẻ đi người ở. Số mạng tại trời, người ở lại hẩm hiu. Kẻ ra đi vinh quang vì lao động đều đặn gởi quà về, nuôi trọn cả nhà người bạn bị kẹt lại cho đến ngày hội ngộ. Sang Mỹ sống được vài năm, sau khi có được thẻ xanh, kẻ mới sang vội về thăm quê cũ, lúc trở qua, luôn tiện nhờ cầm hộ hai thang. Điện thoại viễn liên, căn dặn kỹ càng. Thuốc tễ trị tiểu đường nhớ cho ưu tiên số một. Ừ è hứa hẹn. Trở lại Mỹ mấy ngày, trước đến thăm cho có chút tình, sau hỏi thuốc mình nhờ mang hộ. Đưa ra gói tôm khô nặng mùi rin rít khai khai, bảo không có thuốc để mang sang, thôi cầm đỡ để khi kẹt mà lai rai ba sợi. Hai hũ tiêu đen sợ làm nặng hành trang nên xếp qua một bên gọi là để lại. Mười mấy năm trời chồng nằm trong trại, hàng tháng vợ lãnh quà cũng đủ sống qua ngày. Mỗi lần mua gởi chừng vài ba trăm đô thêm mấy tiếng đồng hồ sắp xếp vô thùng, rất đáng được cấp bằng Kiên Trì Hương Cống. Cụ Bùi Kỷ có dạy: “Làm ơn chớ nên nhớ, Chịu ơn chớ nên quên”. Lời dạy chí lý. May mà chưa chịu ơn vì hai thang thuốc tễ trị tiểu đường tưởng là tiêu đen loại xấu nên đã quăng trả lại. Không có thuốc thì thôi, vẫn vui tươi thăm hỏi. Lúc chào ra về không nghe lời đáp lại tưởng chừng như nói với khoảng không.

Trời tối lạnh, hơi buồn. Ngọn đèn đường bên kia vẫn sáng. Đang lái xe, chợt cất tiếng hát bâng quơ, giọng vịt đực rền rĩ nhạc ve sầu tháng bảy. Trên không trung tối đen vì trăng rụng xuống mô giữa phố. Thôi cũng đành vì chỉ có một mặt trăng. Rụng rồi lại mọc. Dự tính gọi điện thoại về bên nhà. Bên ni California là tám giờ tối, thì ở bên tê nhà là mười một giờ trưa. Chờ lát nữa bên nhà sắp ăn cơm hãy gọi. Dù răng đi nữa thì cũng chút tình chị em tuy xa cách nửa quả địa cầu. Nói vài phút rồi ngưng, chứ có mô như chuyện của ai trong thời gian khốn khó cứ chờ giờ cơm là tới nhà thăm viếng, có lúc cầm theo chai mắm vẹm mua mô dưới vùng Cầu Hai, Đá Bạc, để tỏ một chút chi gọi là qua hũ mắm Lăng Cô. Đến lúc thong dong thì lại theo tính nết dân vùng biển không biết ăn tiêu, thêm vừa tiêm nhiễm thói văn minh thấy thuốc tễ trị lá lách ở phần trung tiêu viên nho nhỏ cũng sợ hãi e dè không dám cầm dám xách! Hai tễ thuốc vô chai vô hũ dán niêm cẩn thận theo tiêu chuẩn an toàn quốc tế, nhưng vẫn không mang nghĩ cũng buồn thay. Chị sốt sắng làm ngay. Gửi thuốc qua cho em trai bằng đường bưu điện. Có nhà nước kiểm duyệt đàng hoàng, ghi rõ ràng hai chữ “Thuốc Bắc”. Mười hai hôm sau nhận được. Thùng thuốc rực hào quang. Tiền chi phí chưa đầy trăm bạc Mỹ. Thôi, coi thử mặt trăng có còn trên trời hay đã rụng? Trời vẫn tối đen. Trăng lưỡi liềm e ấp. Trời Cali vẫn thường thiếu mấy ngôi sao. Sao hôm. Sao mai. Sao nằm ở chỗ mô không thấy? Thuốc trị chứng tiểu đường vẫn uống đều chi. Hết một thang đã thấy khỏe ra. Thêm thang nữa hoàn toàn ổn định. Một trăm hai mươi ngày phục thuốc. Kiêng cử đúng lời thầy. Đường trong máu trở lại bình thường, đo buổi sáng sau khi vừa ngủ dậy thấy luôn luôn chỉ số dưới 100mg cho một lít. Tự bây chừ trở đi, muốn yên ổn phải liệu mà kiêng cử. Cám ơn chị bên nhà gởi sang cho hai thang thuốc.

Liên lạc với chị đều đặn. Nhiều nhất là điện thư. Một lần kia, chị nói là có người bạn rất thân sẽ theo gia đình sang Mỹ định cư, muốn cái chi thì chị sẽ gởi mang qua. Kinh nghiệm thuốc thang, nên chẳng dám phiền hà. Chị nói rõ mấy người này là dân miệt vườn chính cống. Vợ là con nhà gia giáo, chồng đã từng làm quan võ lẫn quan văn tri hành hiệp nhất. Không như ai sống ở bợt đò. Lời chị giải thích nghe thiệt hay ho. Ừ thôi kệ, kiếm cái chi nhờ mang sang hộ để cho chị được vui vì lo được cho thằng em khó tính. Năm ngàn giá tiền ăn tô phở. Ba ngàn đồng một đọi bánh canh. Chị gọi thằng giữ trâu biểu kiếm vài hột sân khô xong cho tiền ăn phở. Mấy ngày sau thằng giữ trâu trở lại, đưa cho chị vỏn vẹn năm cái hột sân. Chị cho nó năm ngàn bỏ túi. Chẳng đáng bao nhiêu, nhưng hai phía vui lòng. Thời buổi dã man nên một hột sân giá trị bạc ngàn! Chị gói kỹ càng, nhờ người bạn gái giấu trong ví mang sang cho thằng em cắc cớ. Quà của chị gửi cho em là năm cái hột sân khô bé tí tẹo góp lại chưa bằng hột nút, nhưng tình của chị cho em bao la hơn cả bầu trời. Bạn của chị thì em cũng coi như chị. Chồng của bạn chị em coi cũng như anh. Ngày tháng mong manh, gặp thời buổi khó khăn, bạn của chị thiếu hụt thứ chi chị vẫn chu toàn đầy đủ trong những năm đếm lại thấy nhiều hơn mấy ngón của cả hai bàn tay. Giờ chị nhờ bạn mang lén năm cái hột sân sang Mỹ chắc là không đến nỗi phải lỗi đức công bằng. Chị bạn của chị rất tốt. Thân mật ân cần, chuyển lời nhắn rõ ràng đầy đủ. Riêng gói giấy có năm cái hột sân không biết để lộn chỗ mô mô! Có lẽ vì gói nhỏ, trong xắc tay bao gồm nhiều thứ, lấy vô lấy ra rớt lạc mất tiêu. Mất thì thôi, ăn thua chi năm cái hột sân khô héo quăn queo bèo bọt!

Nơi đất khách quê người, gặp nhau đây là quý rồi, để ý ba cái chuyện hột sân hột si trời ơi đất hỡi làm chi cho thêm mệt. Quãng đời còn lại, cũng rất nên bươn chải tài bồi. Khôn ngoan, chịu khó ắt trời không phụ kẻ thành tâm. Cuộc sống mới hanh thông, vợ chồng bạn của chị thật là hạnh phúc. Đời lên hương, hai người rời bỏ cái nhà thuê gò bó để dọn sang căn nhà mua rộng rãi khang trang. Trồng cây thẳng lối ngay hàng. Kỳ hoa dị thảo muôn vàn xinh tươi. Phẳng phiu thảm cỏ tuyệt vời. Tuyệt vời hơn nữa là trong góc vườn mọc tốt ngút trời một bụi cây lá hột sân có đủ gai đủ góc đàng hoàng! Ngắt tí lá vò chơi tỏa mùi thơm lựng. Cây sân này được chủ nhân trồng trong chậu đã lâu nên lớn gốc xoắn chùm năm ba chạc, bộ rễ vững chắc, thiệt cũng tiện cho những lúc chuyển dời. Thân cây sân ra mấy nhánh leo quanh cái cọc gỗ đóng xà ngang làm “giàn” rất công phu. Một số những cọng sân già ngăn ngắn, trơ trụi màu đỏ nâu xen bạc cháy ánh mặt trời có mấy điểm nho nhỏ giống như mấy mụn cồi còn sót lại sau khi sân rụng hột. Nhớ chi nhớ ốt dột. Sân mọc hoang ở Huế. Sân trồng bằng cách trỉa hột ở Cali... Một chút tần ngần... Im lìm tượng Beethoven!

Vùng quận Cam nắng ấm. Núi Yên Ngựa mù sương. Sông Thánh Ana cạn nước. Gần sang xuân nên mây xám cuối đông buồn lơ lửng. Con chim chích chòe Mỹ năm ni thiệt lạ vì thức dậy sớm hơn mọi năm, có khi hót trên trụ điện lúc hơn ba bốn giờ sáng réo rắt oái oăm như chứng tỏ là đang rộn ràng quét dọn mấy nốt nhạc rơi rớt trước cửa nhà trời. Ánh trăng non bỗng tự nhiên như vàng thêm một chút. Chắc có lẽ vì sau một trộ mưa thiệt to làm sông Thánh Ana cuộn xuôi giòng nước bạc, nên hôm nay trăng ít vui không chịu rụng xuống cầu. Trong không gian tĩnh lặng, lòng bỗng thấy bâng khuâng. Muốn vượt trùng dương hướng về cửa Thuận, ngược giòng lên đến khúc phân giang của ngã ba Cồn sẽ ghé bến đò Chợ Cạn, thăm người xưa thường hay xuống rửa chân. Xong lên nhà xin chị ca cho nghe bài Phú Lục Chậm, hát trần không nhạc đệm vì đào mô cho ra những người chuyên đàn sáo ngày xưa. Bàn tay chị có gầy khô vì trọng tuổi, xin cũng vì em khi giữ phách mà ráng ép cặp vỏ vẹm vẹm thiệt vừa, để cho tròn một chút hương xưa.


Thân Trọng Tuấn
Cali. Tháng 3 năm 2003

________

Ghi chú:
Bài này sau khi viết, đưa cho anh Trúc Chi Tôn Thất Kỳ xem, anh đề nghị là nên có phần giải thích vì dùng quá nhiều ngôn ngữ xứ Thừa Thiên, e rằng một số dâu rể của đất Thần kinh hay lớp trẻ sau này sẽ không hiểu.

Bát vị hoàn: Bài thuốc bắc nổi tiếng của Thánh y sư Trương Trọng Cảnh, trị được rất nhiều chứng bệnh. Bài Lục vị: 1. Thục địa 8 lạng, 2. Sơn thù 4 lạng, 3. Sơn dược 4 lạng, 4. Mẫu đơn 3 lạng, 5. Trạch tả 3 lạng, 6. Phục Linh 3 lạng, Lục vị thêm hai thứ cay nhuận bổ hỏa trong thủy: 1. Nhục quế 1 lạng, 2. Phụ tử 1 lạng.
Điều chế. Các vị điều chế theo phương pháp của Lôi Công. Tán nhỏ. Hòa với mật ong làm viên bằng hạt ngô đồng (hạt dậu đen, 0.3g). Uống mỗi lần 70-80 viên (21-24g), với nước muối nhạt. Nên uống khi đói lòng. Uống xong ăn thức ăn nhẹ chận lên để thuốc xuống hạ tiêu, không để tà khí xung nghịch.
Tùy theo chứng bệnh mà thêm vài vị nữa như suy nhược gia Đỗ trọng 3 lạng, Ngưu tất 3 lạng, Ngũ vị tử 8 chỉ, Lộc nhung vài lạng. Chứng tiểu đường cũng dùng bài Bát vị trị suy nhược này, thêm Thương truật 3 lạng, giảm mật ong, và nên ăn nhiều khuôn đậu thay cơm, cử bia rượu, đồ biển và các thứ mắm. Phải tập thể dục cho ra mồ hôi. Sâm và Cam thảo không cùng nhóm thuốc, kiêng không dùng.
Biển cạn: Dịch từ tên Hạc Hải, tức Phá Tam giang.
Bợt đò: Bến đò.
Bợt rào: Phá còn gọi là rào. Bợt rào là bờ phá Tam giang thuộc địa phận quận Hương Điền.
Cá dỡ: Thuộc loại cá biển, xuất hiện vào mùa đông. Cá dài cả thước tây, vảy trắng, thịt mềm, ngon, thơm, béo. Vì cá quá ngon cho nên phải đặt tên là cá Dỡ mới hết nước nói!
Chạ chạ: Tàm tạm, đại khái, làm cho có, v.v.
Chiện chiện réo cà lơi: Chim chiền chiện réo hót giữa không trung. Chim chiền chiện còn gọi là chim cà lơi.
Chim chích chòe Mỹ: Mocking bird.
Đăng: Một thứ bẫy cá loại lớn gồm sào và lưới giăng, cắm giữa sông hay đầm, phá.
Đi kéo ghế: Đi ăn tiệm
Đi ngơi: Đi ngủ, đi nằm.
Đìa: ao nhỏ.
Điếu thuốc cày: Nguyên thủy của người Lào. Thân điếu gồm ống tre giữ một khúc mắt phía dưới. Trên phần mắt, khoét xiên lổ nhỏ xong gắn một ống trúc nhỏ vào gần sát đáy ống để giữ mồi thuốc. Đổ vào ống tre tí nước cho ngập chân ống trúc. Khi hút, úp miệng vào ống tre, châm lửa, rít kêu sòng sọc. Chế biến kiểu cách, có cần điếu, bình, chân, nắp, đóm, v.v. từ bậc trung lưu cho đến vua quan. Hải Thượng Lãn Ông Lê Trác có viết: Nhớ ai như nhớ thuốc Lào, Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên. Vua Tự Đức nghiện thuốc Lào.
Điếu thuốc ngang: Thuốc rẻ tiền, tự trồng và ủ lấy.
Đọi: Cái tô
Đúng mực đúng nang: Nguyên nghĩa là đúng mức, đúng mực độ. Ở đây nói mực, hiểu thêm ra là con cá mực, nên nói theo cả nang tức là nang mực cho đủ bộ. Giống như khi nói hai chữ phân bì có nghĩa là so đo, tị nạnh, v.v. Bì hiểu thêm là quả trần bì nên thường nói Phân bì phân lê (trái lê) cho cân đối.
Hay chi hay ốt dột!: Ngôn ngữ miệt biển. Hay hết sức, không sao tả hết. Ốt dột là mắc cỡ, xâu hổ. Hay không tả được nên mới cảm thấy ốt dột.
Hà thít: Ăn cay, hít hà. Gặp lúc quá cay chảy nước mắt mới hà thít!
Hò xự liêu cống xê: Năm cung bậc trong âm nhạc Việt mượn của Tàu, tương tự như ngũ âm của người Trung Hoa là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Có kẻ không biết, cho đây là khúc hò mang tên xự liêu cống xê, không đúng.
Hồ tiêu: Hạt tiêu. Vua Charles III nước Anh dùng vàng đổi lấy hạt tiêu với người Tàu. Một lượng vàng đổi một lượng hạt tiêu.
Keng bín keng bù: Canh bí canh bầu
Lổn cồi: Chín đến độ rơi rụng cả cùi.
Nạo không ra: Khó kiếm, khan hiếm, tìm mua không được, v.v.
Ngã ba Cồn, bến đò Chợ Cạn: Thuộc thôn Vỹ Dã tức là Vỹ Dạ.
Ngồi vắt chân xấp mảy: Ngồi xếp chân chữ ngũ. Ngồi xếp chân này lên chân kia.
Nguồn: Vùng núi Trường sơn. Nơi bắt đầu của sông Hương gồm hai nguồn tả trạch và hữu trạch.
Nhớ chi nhớ ốt dột: Quá nhớ. (Buồn chi buồn ốt dột... Cay chi cay ốt dột... Ngá (Ngứa) chi ngá ốt dột...)
Nỏ có: Chẳng có, không có.
Núc: Uống ừng ực một hơi cạn tô nước. Núc một nghỉn là uống một hơi.
Núi Yên Ngựa: Saddleback Mountain, phía đông quận Cam, California.
Nước chè quết: Chè tươi, giả nhỏ, cho vào om đất đổ nước gấp đôi, nấu sôi trào một lần, thêm nước lạnh cho vừa đậm nhạt tùy ý, uống ấm. Khi rót, dội cho nổi bọt. Vua Minh Mạng cho tên là Bào Ảnh Trà.
Oi: Giỏ tre đựng cá hình trái bầu eo, nắp rời đan tre xéo úp ngược theo kiểu nắp lờ để cá khỏi nhảy ra.
Ở lổ: Ở truồng, không mặc quần.
Sông Thánh Ana: Santa Ana River, thuộc quận Cam và Riverside.
To lò lò: To lớn hơn bình thường, tuy nhiên vẫn có thể cầm nhắc được.
Trộ mưa: Cơn mưa
Vạn: Xóm đò, xóm chài. Người sống trong xóm chài gọi là kẻ vạn.
Vẹm vẹm: Theo sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của cụ Lê Trác thì vẹm vẹm vị cay.

 

 

Tìm các bài VĂN khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com