Mary Clay nhìn qua cửa sổ ngôi nhà trong một nông trại cũ. Một khung cảnh đìu hiu – núi đồi, đồng ruộng, và rừng cây, trơ trụi, nhợt nhạt, mù sương bao phủ – đủ để không còn thấy bóng dáng một ngôi nhà nào khác nữa.
Cô không thuộc dạng phụ nữ nhất thiết phải có bạn bè. Cô thích thêu thùa may vá. Đam mê đọc sách. Chẳng ưa tán gẫu. Hẳn là vì cô đã rất hạnh phúc với cuộc sống có phần cô đơn ở nông trại Cromb Farm.
Hồi chưa kết hôn, cô đã từng háo hức tơ tưởng đến cái cảnh được ngồi thêu thùa và đọc sách trong những đêm dài. Cô thừa biết là ban ngày mình sẽ rất bận, bởi nông trại đã xưa cũ bừa bộn, và cũng chẳng có ai phụ giúp cô.
Thế nhưng lòng cô lại mong có được sự yên bình trong những buổi tối lên đèn; và chỉ mới gần đây thôi, sau mười năm kết hôn, cô mới chịu từ bỏ hy vọng của mình. Ước mơ về một cõi yên bình thật quá xa xôi trong gian bếp nông trại cũ kỹ vào buổi tối. Ước mơ đó đã bị chặn đứng bởi cái giọng ồm oàm của ông chồng John Clay, anh ta thường la toáng lên với những mệnh lệnh, những lời càm ràm, hay là cách đọc báo lớn tiếng lộn xộn của anh ta.
Mary là một người phụ nữ im lặng và yêu thích sự im lặng. Nhưng John lại thích nghe âm thanh của giọng anh ta; anh ta thích hét lên với cô; để kêu cô chạy từ phòng này sang phòng khác; và trên hết, anh ta thích nghe giọng đọc báo của chính anh ta vào buổi tối, cùng với cô.
Đó là điều khiến cô sợ hãi nhất. Dạo gần đây, cái giọng đó làm như chọc thẳng vào thần kinh của cô, thiếu điều cô phải thét lên mới thôi. Còn giọng của anh ta cứ ào ạt tuôn ra, khàn khàn khào khào kiểu như đang rống lên một khúc ca nào đó, những âm thanh đó làm cô khó chịu cùng cực. Tiếng “Mary!” anh ta kêu cô, khi cô đang làm việc nhà, bắt cô phải chạy đến bất cứ nơi nào anh ta ngẫu nhiên có mặt, hay mệnh lệnh “Đem dép cho tôi, hoặc “Mang tẩu thuốc cho tôi”, lắm lúc khiến cô như điên loạn cả lên.
Câu trả lời “Tự đi mà lấy dép của anh đi” đã bao lần run run trên đôi môi cô, nhưng chưa bao giờ bật ra thành tiếng, bởi cô là một phụ nữ không kham nổi sự thịnh nộ của người khác. Bất cứ tiếng om sòm huyên náo nào cũng đều làm cho cô vô cùng khiếp đảm.
Cô đã chịu đựng tình trạng đó cả chục năm rồi, thành thử chắc hẳn là cô vẫn có thể tiếp tục với nó. Tuy nhiên hôm nay, khi cô đăm đăm nhìn ra cảnh đồng quê mùa đông lạnh lẽo, một cái nhìn vô vọng, cô nhận ra rằng cô không thể tiếp tục như thế được nữa. Một điều gì đó tất phải xảy ra. Nhưng có điều gì có thể xảy ra cơ chứ?
Vậy mà tuần tới đã là lễ Giáng Sinh rồi. Cô mỉm cười mỉa mai cay đắng với suy nghĩ ấy. Rồi cô nhận ra chồng cô đang đi lên đường. Anh ta bước qua cổng và vòng qua cửa ra vào.
– “Mary!”
Cô chầm chạp miễn cưỡng đáp lại cái “mệnh lệnh” ấy. Anh ta cầm một lá thư trong tay.
“Tôi gặp người đưa thư”, anh nói, “thư dì của em”.
Cô mở bức thư, im lặng xem thư. Cả hai người biết rất rõ lá thư nói gì.
“Dì ấy lại muốn chúng ta qua nhà dự lễ Giáng Sinh”. Mary nói.
Anh chồng bắt đầu càu nhàu.
“Dì ấy điếc đặc. Điếc y như mẹ dì ấy vậy. Dì ấy phải biết, tốt nhất là nên đi hỏi mọi người chung quanh khi dì ấy chẳng nghe thấy ai nói gì cả.”
Mary không nói gì. Thấy lời mời, anh ta luôn cằn nhằn vậy đó, nhưng thực ra lại rất muốn đi. Anh ta thích chuyện trò với dượng của cô. Anh ta thích thay đổi bầu không khí thôn quê trong một vài ngày, để thu thập hóng hớt mọi lời đồn đại, và thích được ngơi tay khỏi công việc nông trang một cách chính đáng trong thời gian đó.
Bệnh điếc của nhà Crewe thì ai cũng biết. Bà cố của Mary bị điếc đặc khi mới ba mươi lăm tuổi; con gái bà đã thừa hưởng nỗi ưu phiền đó, và cô cháu gái lớn, tức là bà dì mà Mary sống chung hồi còn nhỏ, cũng thừa kế bệnh điếc nói trên, ở cùng độ tuổi.
“Được rồi,” cuối cùng anh ta nói, làm ra vẻ miễn cưỡng như để đáp lại sự im lặng của cô, “chúng ta nên đi thì hơn. Viết thư trả lời là chúng ta sẽ đi nhé”.
* * * * *
Đó là đêm trước Giáng Sinh. Họ ở gian bếp trong nông trại của ông dượng. Bà dì bị điếc ngồi đan trên chiếc ghế gần lò sưởi. Trên khuôn mặt hom hem của bà thoáng một nụ cười mỉa mai kỳ lạ, một biểu lộ thường thấy ở bà.
Hai người đàn ông đứng ở ngưỡng cửa. Còn Mary ngồi ở bàn nhìn bâng quơ ra ngoài cửa sổ. Ngoài trời, tuyết rơi trong mưa rào nhạt nhòa. Trong nhà, ánh lửa chiếu lấp lánh trên những chiếc nồi, chảo bằng đồng, trên những bát dĩa bằng sành sứ đựng trong cái chạn cũ bằng gỗ sồi, và trên những chiếc giăm bông treo trên trần nhà.
Thình lình, dượng James quay lại gọi bà vợ:
“Này Jane!” ông nói.
Bà điếc không hề động đậy.
“Jane!”
Vẫn không hề có động tịnh gì trên khuôn mặt già nua cũ bí ẩn ngồi bên ngọn lửa.
“Jane!”
Bà cụ khẽ quay về phía có tiếng nói.
“Này bà lấy những bức ảnh ở trên gác xuống để cháu John xem nào!” ông ta kêu to lên.
“Lấy mấy chiếc thuyền hả?” bà lão nói.
“Những tấm ảnh chứ!” chồng bà gầm lên.
“Mấy cái áo khoác à?” bà run rẩy..
Mary nhìn người nọ qua người kia. Người đàn ông phác một cử chỉ bực tức và đi ra khỏi phòng. Rồi ông ta quay lại với một chồng bưu ảnh trên tay.
“Thà tự làm còn nhanh hơn,” ông càu nhàu. “Đây là những gì anh tôi đã gửi về từ Thụy Sĩ, nơi anh ấy đang làm việc, dựa trên những phong cảnh, có thể thấy nơi đó hẳn là một vùng đất rất tươi đẹp.”
John cầm lấy tập ảnh từ tay ông cụ. “Tình trạng của dì con tệ hơn rồi phải không dượng? Anh ta hỏi, đầu nghiêng nghiêng về phía bà cụ.
Bà vẫn đang nhìn đăm đăm vào ngọn lửa, môi nhếch lên thành một nụ cười kỳ lạ.
Người chồng của bà nhún vai. “Ừ thì tình trạng của bà ấy bây giờ cũng gần như tình trạng của mẹ và bà của bà ấy trước kia vậy thôi! Nói với bà ấy điều gì còn tốn nhiều thời gian hơn là tự làm điều đó, những người già điếc cũng có chút ngu ngơ ngớ ngẩn, nên không thể hiểu ý người khác được. Tốt nhất là để cho họ sống một mình”.
Nghe vậy, người đàn ông kia gật đầu và châm tẩu thuốc. Sau đó ông James mở cửa ra.
“Tuyết ngừng rơi rồi,” ông ta nói. “Chúng ta sẽ đi dạo đến cuối làng rồi quay lại nhé?”
Người kia gật đầu, và lấy mũ của mình ở sau cánh cửa. Một cơn gió lạnh lùa vào tràn ngập khắp gian phòng khi họ đi ra.
Mary lấy một quyển sách bìa mềm trên bàn và đến bên lò sưởi.
“Mary!”
Dì bắt đầu nói. Đó không phải là giọng nói cáu kỉnh the thé của một người phụ nữ bị điếc, mà nghe như tiếng của người dì trẻ từ thời thơ ấu mà Mary còn nhớ đến giờ. Người phụ nữ lớn tuổi cúi người về phía trước, nhìn cô chăm chú.
“Mary! Chúc con một Giáng Sinh vui vẻ nhé”
Và dường như quên mất dì mình bị điếc, Mary khẽ trả lời bằng một giọng trầm trầm bình thường:
“Cháu cũng chúc dì như vậy nhé!”
“Cảm ơn cháu, cảm ơn cháu”.
Mary há hốc miệng kinh ngạc.
“Dì ơi, dì có thể nghe cháu nói à?”
Người phụ nữ lớn tuổi cười, lặng lẽ, lắc lư trên ghế cứ như niềm vui dồn nén trong nhiều năm của bà có dịp bộc phát.
“Ừ, dì có thể nghe cháu, bé yêu à. Dì nghe được cháu nói đấy”
Mary nắm chặt tay người dì của mình tha thiết.
“Vậy dì đã được chữa khỏi hả dì…”
“Ừ, dì được chữa khỏi khi mọi thứ được chữa khỏi!
“Dì…?”
“Dì chưa bao giờ điếc, con à, sẽ không bao giờ điếc, lạy Chúa. Dì sẽ giúp con hiểu hết mọi chuyện”,
Mary đứng dậy hoang mang.
“Dì? Dì chưa bao giờ điếc à?”
Người phụ nữ già lại cười tủm tỉm.
“Dì không điếc, mẹ dì cũng không điếc, bà ngoại cũng không điếc”.
Mary đứng lùi xa người dì một chút.
“Cháu… cháu không biết dì muốn nói gì”, cô bàng hoàng nói, ”Hóa ra… dì đã giả điếc sao?”
“Dì sẽ tặng cho cháu một món quà Giáng Sinh với câu chuyện giả điếc này, cháu yêu”, bà cụ nói. “Mẹ dì đã tặng dì một món quà Giáng Sinh như thế khi dì còn ở tuổi cháu, và bà ngoại của dì cũng đã tặng cho mẹ dì một món quà như thế. Dì không có con gái để tặng món quà này, vì vậy dì tặng nó cho cháu. Nó có thể dẫn đến những điều hết sức bất ngờ như – nếu cháu muốn - cháu có thể nghe những gì cháu muốn, và không nghe những gì cháu không muốn. Cháu hiểu không?”.
Dì cúi đầu gần hơn và thì thầm, “Cháu sẽ im miệng trước tất cả, như thế thì khỏi làm tay sai cho người ta, khỏi trả lời những câu hỏi ngớ ngẩn của người ta, khỏi chạy việc lặt vặt cho họ như một con chó. Dì đã quan sát cháu, cháu yêu của dì. Cháu không được bình yên thanh thản phải không?”
Mary run rẩy.
“Ôi dì ơi, cháu không biết phải nghĩ gì nữa” cô nói. “Cháu… cháu không thể làm điều đó được đâu!”
“Hãy làm những gì cháu thích”, bà cụ nói. “Dù sao thì cũng nên coi nó như một món quà – cái điếc của bà Crewe là một món quà Giáng Sinh”, bà lại cười tủm tỉm. “Sử dụng nó hay không tùy thích, cháu sẽ thấy nó rất thú vị”.
Và trên khuôn mặt già nua, lại nở một nụ cười bí ẩn như thể bà đang mang trong trái tim bà một vài trò vui mà các vị thần trên đỉnh núi Olympus ưa thích.
Cánh cửa đột ngột mở ra cùng một cơn gió lạnh, rồi hai người đàn ông bước vào, người đầy tuyết.
“Cháu… cháu sẽ không làm điều đó đâu!” Mary thì thầm, run rẩy.
“Hai dượng cháu chúng tôi không đi được xa, tuyết lại rơi nữa rồi” John buông lời cảm thán, rồi treo mũ lên.
Bà cụ đứng dậy và bắt đầu dọn bữa tối, lặng lẽ và khéo léo, bà đi lại giữa tủ và bàn ăn mà chẳng nhìn lên lần nào. Mary ngồi bên lò sưởi, bất động, không lời, mắt cô nhìn như dán chặt vào những cục than hồng rực nóng.
“Cháu thấy vợ cháu dấu hiệu bị điếc nào không?” James thì thầm, nhìn về phía Mary. “Nó xảy ra với vợ chú khi bà ấy ở vào đúng cái độ tuổi này đó! Ấy là, chú nghe kể lại thế”
Rồi ông gọi to, “Mary!”
Một màu hồng nhạt nhè nhẹ ửng mờ mờ trên má Mary, nhưng tịnh không có bất kỳ một ánh nhìn hay một cử động nào cho thấy cô đã nghe thấy tiếng gọi của người dượng. Ông dượng James ném một cái nhìn đầy ý nghĩa về phía chồng Mary.
Còn người phụ nữ già đứng lặng yên trong phút chốc, một tay một cái cốc, phảng phất một nụ cười cùng nàng Mary, chầm chậm, dịu dàng.
Richmal Crompton & Hoàng Anh Dũng Chuyển ngữ