User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
Trai ti nan
 
Láng Giềng Xưa. Ngày tôi còn bé, dường như lần nào đánh nhau với trẻ con chăn bò trong làng, sớm muộn rồi cũng đến tai bố mẹ, nhất là đánh nhau với trẻ con hàng xóm. Chiều chiều lúc mặt trời sắp xế bóng, tôi cùng lũ trẻ đuổi bò từ bãi cỏ ven đồi bên làng về nhà, và sau khi bò vào chuồng, tôi sửa soạn chờ cơm chiều. Nhưng nếu ngày nào có đánh lộn thì tình hình lại khác. Tin trẻ con chăn bò đánh lộn lan ra rất nhanh. Chỉ cần một người làm rẫy đi ngang chỗ trẻ con đánh nhau là bố mẹ tôi thế nào cũng nhận thông tin trước khi lũ bò và tôi về đến nhà. Nếu bố  làm ruộng về sớm, đương nhiên tôi được một trận đòn rát mông. Và ngay sau trận đòn lại phải nghe mẹ dạy, “Bán anh em xa  mua “náng riềng” gần, con ạ!” Bố mẹ tôi là dân di cư gốc Ninh Bình-Phát Diệm, lại mù chữ, nên không phát âm đúng chữ láng giềng được. Lúc mới lớn tôi mắc cỡ với bạn vì cách bố mẹ phát âm, nhưng bây giờ lại thèm được nghe. Tôi không thể nhớ được là đã nghe mẹ dạy câu tục ngữ này bao nhiêu lần. Dù ngày nhỏ chả hiểu được ý nghĩa, nhưng nghe nhiều nên thấm nhuần vào não tuỷ mình rất tự nhiên.

Đối với bố mẹ tôi, hàng xóm láng giềng rất quan trọng và cần thiết vì Các Ngài phải bỏ quê cha đất tổ – nơi tổ tiên họ hàng đã quây quần sống trong ngôi làng nhỏ, miền Bắc-vào miền Nam xa lạ dựng lại cuộc đời. Năm 1954, sau Hiệp Đinh Geneve, bố mẹ tôi đưa chị và anh tôi theo đoàn người Công Giáo chạy trốn Cộng Sản Vô Thần vào miền Nam để được sống đạo tự do. Dĩ nhiên là Các Ngài không hiểu chủ nghĩa Cộng Sản là gì, nhưng vì đã phải chứng kiến hay nghe được những gì Cộng Sản làm nên Các Ngài phải bỏ làng ra đi. Đa số dân Công Giáo miền Bắc thời ấy, nhất là người mù chữ như bố mẹ tôi, đều đi theo sự hướng dẫn của các linh mục Công Giáo. Vào đến miền Nam, bố mẹ và những người trong làng cũng tìm cách đi theo các Linh Mục để được định cư trong một làng Công Giáo.

Ở thôn quê ngày tôi còn bé, láng giềng là người có thể sang nhà nhau vay vài lon gạo về nấu cơm khi hết gạo, hay chưa kịp xay lúa trong kho. Láng giềng có thể xin hay mượn bát nước mắm, vài củ tỏi, hay các thứ cần thiết khác. Hàng xóm ở xa hơn vài căn nhà hay một khu ngõ, nhưng cũng quan trọng. Ngày bố mẹ tôi dựng nhà, dù đã thuê thợ mộc cắt gỗ, xẻ ván, đóng đinh, nhưng để dựng những trụ gỗ làm khung và sườn nhà thì phải nhờ hàng xóm. Các thanh niên hay trung niên trong làng được nhờ đến giúp nhóm thợ mộc dựng khung nhà và họ làm việc miễn phí, bố mẹ tôi chỉ lo đãi họ cơm rượu cho đầy đủ, và các láng giềng sang giúp làm thịt vài con gà, ngả con cầy hay con lợn dọn cơm đãi hàng xóm đến giúp việc. Những biến cố gia đình như tang ma, dựng nhà, chữa hoả hoạn đều có sự hợp tác của láng giềng và hàng xóm. Có lẽ vì vậy mà mẹ tôi muốn các con hiểu được tầm quan trọng của láng giềng hàng xóm nên đã dạy các con mẹ bài học làm người này từ thời ấu thơ.

Nhà thờ là trung tâm sinh hoạt đời sống người Công Giáo từ miền Bắc di cư vào miền Nam. Việc này cũng na ná như di dân từ Anh Quốc sang Hoa Kỳ đầu thế kỷ 17. Ở Jamestown, Virginia hay Plymouth, Masachussetts, người di dân coi nhà thờ, hay nhà họp cộng đồng là trung tâm sinh hoạt tôn giáo và xã hội. Và cũng từ các nơi hội họp này tình hàng xóm láng giềng được nẩy nở. Nếu bạn đi ngang vùng New England của Hoa Kỳ, bạn sẽ thấy những ngôi giáo đường nhỏ, tường sơn trắng, mái xám, kiến trúc bằng gỗ với tháp nhọn vươn lên, rồi bạn có thể tưởng tượng ra sinh hoạt và đời sống của di dân khoảng 400 năm trước tại Hoa Kỳ ra sao, và hiểu được tầm quan trọng của hàng xóm láng giềng trong các cộng đồng di dân thời Hoa Kỳ còn là thuộc địa của Anh Quốc.

Khi những người Việt Nam tỵ nạn đến Hoa Kỳ cuối tháng Tư, 1975, dường như hầu hết mọi người đã được tạm dung trong bốn trại ti nạn từ California sang Pennsylvania, xuống Arkansas và Florida, rất nhiều người  mong muốn được định cư chung ở một nơi có hàng xóm láng giềng vì đa số đều lo sợ về tương lai vô định trong xã hội xa lạ từ ngôn ngữ đến sinh hoạt hàng ngày. Chính phủ Liên Bang và các chính quyền địa phương không muốn đưa dân tị nạn Việt định cư tập trung để tránh sự chống đối của dân địa phương, tránh khủng hoảng về thiếu hụt trường học cho trẻ em, thất nghiệp cho người lớn, thiếu hụt nhà cửa cho dân chúng, hay thâm thụt ngân quỹ xã hội và y tế cộng đồng. Lúc tôi ở trại ti nạn Fort Chaffee, có một Linh Mục Công Giáo đã khích động một nhóm giáo dân biểu tình chống đối chính sách định cư của chính phủ Hoa Kỳ. Vị Linh Mục này muốn đưa giáo dân đi lập giáo xứ mới.

Dù dân tị nạn Việt bị tản mát khắp nơi từ Guam sang Alaska, từ Haiwaii sang New York hay từ Main xuống Mississippi, sau một thời gian rất ngắn, nhiều người ti nạn được các bảo trợ Mỹ tử tế giúp tìm việc làm, dành dụm mua xe hơi, và họ đã chẳng ngại đưa gia đình tìm đến nơi có bà con hay bạn bè để tái lập nghiệp. Điều này nói lên tầm quan trọng của liên hệ đồng hương hay láng giềng trong đời người di dân-tị-nạn Việt Nam và các di dân da màu. Di dân da trắng hội nhập hoà tan vào xã hội Hoa Kỳ dễ dàng hơn các di dân da màu như di dân gốc Việt. Hy vọng các sinh viên gốc Việt chuyên về sử học sẽ biên soạn được những luận án giá trị về lịch sử di dân của người Việt tại Hoa Kỳ và thế giới.

Những thay đổi môi trường sống nhờ phát triển kỹ nghệ, kinh tế, và chiều hướng xã hội đã làm cho ý nghĩa chữ láng giềng bị lu mờ. Hơn 45 năm biệt xứ, dường như tôi đã quên bẵng chữ láng giềng chỉ trừ những lúc gặp bạn bè hứng khởi đọc câu lục bát của Nguyễn Bính, “Nhà nàng bên cạnh nhà tôi//Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn///.” Hay nghêu ngao, “Hôm nay trời xuân bao trong sáng//Dừng gót phiêu linh về thăm nhà… Cô láng giềng ơi…” của Hoàng Quý thì hai chữ này mới được nhắc lại trong tinh thần văn nghệ thôi. Thời sinh viên mình có bạn chung phòng nhưng bạn chung phòng hay ở cùng cư xá không phải láng giềng. Gần đây tôi quay về sống ở nơi đã bỏ đi hơn 30, các chữ láng giềng hàng xóm bỗng trở nên ý nghĩa thân tình.

Láng Giềng Hôm Nay. Gia đình chị ruột của người bạn thân ở rất gần nhà, và vì thế, vợ chồng anh Bảy chị Huệ coi vợ chồng tôi như em. Thỉnh thoảng chị H. nấu món gì lạ, hay rau cỏ trong vườn nhà chị đã lên xanh tươi là gia đình tôi được hưởng hương hoa từ bếp ra đến vườn (hình phải) nhà anh chị, kể cả những quả trứng gà tươi chị vừa thu lượm từ chuồng sau vườn. Có lần chị gọi, “Miên, em biết ăn canh mướp đắng không?” Chẳng cần suy nghĩ tôi hồn nhiên trả lời, “Thưa chị có.” Những lúc không bận, chị và anh B. đưa thức ăn hay rau cỏ để trước cửa rồi gửi “thoại nhắn-text message” bảo, “Chị để ngoài cửa em ra lấy.” Nhất là trong thời gian dịch bệnh này chỉ liên lạc qua điện thoại chứ chẳng nhìn thấy mặt nhau. Ngoài chị H. ra tôi còn có bác Dung, mẹ của vợ bạn chung phòng ngày xưa. Tôi gọi bác D. dù bác còn trẻ tuổi hơn mẹ tôi nhiều. Thỉnh thoảng bác gọi, “M. ăn kim chi không?” Hay, “Biết ăn giả cầy không?” Dĩ nhiên tôi vui vẻ xin nhận. Có lần chị Tô Bé, vợ người bạn đàn anh chung phòng thời sinh viên, gửi thoại-nhắn bảo, “M. chị để bánh cuốn chị làm trước cửa, lấy vào kẻo thiu.” (hình trái)

Những trao đổi hương hoa của các món ăn truyền thống hay rau trái từ vườn láng giềng là những món quà vô giá. Tiền bạc cho ta mua được món ăn hay rau cỏ ta thích, nhưng không tài nào ta mua nổi những thứ mà láng giềng và bạn cho ta.

Một buổi sáng Chủ Nhật gần đây, Trang, vợ bạn tôi điện thoại bảo, “Anh M. chút xíu nữa em sẽ đến nhà anh.” Nghe giọng nói khẳng khái của vợ bạn làm mình hơi lo ngại rồi tự hỏi “Chuyện gì đây?” Tôi thong thả trả lời, “Nhà anh sửa soạn dự Thánh Lễ Trực Tuyến.”  Tr. Trả lời, “Không sao.” Vừa tính trả lời Tr. là hẹn lần tới, Tr. nhanh nhẹn nói, “Em không vào nhà đâu, anh chỉ cần mở cổng  thôi.” Thật ra thì mùa dịch bệnh đang lây lan và ông cụ Nhạc của tôi đã trên 90 nên đón bạn vào cũng ngại.

Lý do bạn tôi muốn ghé nhà vì đã mua cho gia đình tôi bộ bàn ghế để ngoài trời, nhưng mấy tháng nay ai cũng khép cửa ẩn mình. Tôi mang khẩu trang ra mở cổng đón vợ chồng bạn Dương- Tr., cả hai nhanh nhẹn khiêng bàn ghế xuống xe. Tôi bảo cứ để bên hàng rào, tôi sẽ khiêng ra sân. Bạn tôi phản đối và họ đã thoăn thoắt đưa bàn ghế xếp lên bục gỗ sau nhà. Tôi phụ khiêng với bạn, nhưng khi Tr. nhìn cách tôi khiêng ghế đã phê bình, “Anh M. đúng là thầy giáo, cái ghế nhẹ vậy mà phải khệ nệ.” Thấy cách Tr. giúp chồng khiêng cái bàn sắt, tôi bảo bạn, “Coi chừng, đừng chọc ghẹo vợ, kẻo em Tr, khua tay là mày tan tác ngay.” Có bạn ở xa nhau là đã quý, nhưng bạn ở gần nhau là điều may mắn. Một bạn cho bàn ghế, một bạn cho cái dù che bàn, thế là toàn hảo. Bộ bàn ghế và cái dù che các bạn cho nó khác với mình mua ở tiệm. Bởi vì mỗi lần ra sân uống rượu lại được nhớ bạn mình. Thời buổi Cô Vi này dù không được ngồi uống rượu với bạn, nhưng biết rằng bạn ở gần là đủ ấm lòng.

Bên sân vườn sau nhà bây giờ có những chậu cây ớt đang được mùa nhiều trái, và vài chậu rau thơm tươi tốt. Đây là hương hoa đồng nội các bạn láng giềng đem cho. Vợ chồng tôi đã sửa soạn đón bạn bè họp nhau văn nghệ ngoài trời từ đầu mùa Xuân lúc khí trời vừa tươi mát, nhưng phải huỷ dự tính vì cơn dịch bệnh bất ngờ. Đúng như vị sư tổ triết học Tây Phương, Aristottle, đã từng bảo rằng con người là loài vật xã hội, chỉ có quái vật hay thần thánh mới không cần xã hội. Xã hội thu nhỏ của ta là gia đình, họ hàng, và bạn bè láng giếng. Càng cao tuổi, ta càng cần có láng giềng. Tuổi già tha hương không bạn bè, không láng giềng là tuổi thê lương.

Bát Canh Tuổi Thơ. Trong các món ăn tôi được láng giềng cho có một món, theo tôi, rất đặc biệt: Đấy là canh rau đay. Đây là loại rau chẳng khác các cây cỏ dại mọc trong vườn nhà ngày còn bé. Tôi chưa từng thấy ai ở nhà quê tôi trồng cả vườn hay chỉ một luống toàn rau đay (hình phải) như họ trồng ngô khoai và các loại rau cỏ khác. Hình như mình chỉ có thể mua rau đay ở tiệm thực phẩm phục vụ khách gốc Việt bên Hoa Kỳ thì phải. Các chợ thực phẩm phục vụ dân Tàu, Đại Hàn, hay dân gốc Á Châu khác dường như không bán rau đay.

Có nhiều người tưởng lầm rằng rau đay nấu canh cũng là loại đay hay cây bố được trồng theo kiểu công nghệ để lấy sợi từ thân cây làm dây thừng hay các loại bao đựng lúa ngô. Dân làng quê tôi gọi những cái bao đựng lúa là các bao bố. Tôi đã nghe và đọc vài tài liệu chưa được kiểm chứng rõ ràng là một trong các nguyên nhân gây ra nạn đói kinh hoàng, khoảng tháng 3 năm 1945 tại miền Bắc Việt Nam, là vì quân đội Nhật sau khi đánh bại quân đội Thực Dân Pháp đã cướp thu lúa gạo của dân ta mang về Nhật và bắt dân miền Bắc nhổ lúa trồng đay để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của họ. Dân mình sống bằng lúa gạo mà không được trồng lúa thì lấy gì sống? Tội ác của Nhật đã giết chết gần triệu đồng bào mình trong nạn đói năm 1945. Trong số những người chết đói có người trong dòng họ của bố mẹ tôi. Mẹ tôi kể cả nhà chết hết chỉ còn mẹ và người cậu ruột của tôi. Cậu tôi phải đi làm con ở cho người trong dòng họ để có cơm ăn. Con ở có nghĩa là làm nô lệ, bị sai khiến mọi việc. Tội ác của Nhật năm 1945 hình như vẫn chưa có nhà sử học nào nghiên cứu cho tới nơi tới chốn. Đang nghĩ về món canh tuổi thơ mà lại lan man sang việc Nhật làm dân ta chết đói vì phải trồng đay cho họ.

Nếu phải chọn món canh mình thích nhất, đương nhiên tôi sẽ bảo là canh rau đay, chẳng cần đắn đo suy nghĩ. Bạn có thể gu-gồ tìm những lời bàn hay dữ kiện về rau đay, người thì liệt kê hàng loạt chất tốt cho sức khoẻ tiềm ẩn trong rau đay, kẻ thì cho công thức nấu canh rau đay. Nhưng riêng với tôi, bát canh rau đay chứa đựng cả thời thơ ấu và hình bóng quê nhà.

Nếu không quá lời thì tôi có thể khẳng định rằng mình đã ăn canh rau đay từ thuở trong thai và thời bú sữa mẹ.

Cách đây vài hôm, chị H. gửi tôi thoại-nhắn, “Em có biết ăn canh rau đay không?” Đọc lời nhắn rồi tự bảo mình, trời ơi, sao chị lại hỏi vậy? Tôi vội vã bấm câu trả lời, “Thưa chị có.” Và ngay sau đó tôi sang nhà chị lấy canh rau đay (hình trái) chị để sẵn ngoài sân mang về thưởng thức. Mỗi lần nhìn tôi ăn canh rau đay một cách sung sướng là vợ tôi đều ngơ ngác lắc đầu, vì nàng không thể hiểu tại sao tôi có được cảm giác khoái khẩu khi húp nước canh nhơn nhớt đăng đắng như vậy được? Nàng được sinh ra trong gia đình gốc Quảng: Cha Quảng Nam mẹ Quảng Trị rồi lớn lên ở Hoa Kỳ nên không được ăn canh rau đay từ thơ ấu như tôi vì gia đình cha mẹ nàng không ăn món này. Món canh rau đay dường như chỉ thịnh hành ở miền Bắc Việt thôi. Có những món ăn ngon miệng vì mình quen thuộc với mùi vị từ thuở ấu thơ. Người Mỹ gọi các món này là comfort food, thường là những món ăn gợi cảm gợi nhớ nhất là những lúc ta mệt mỏi hay xa nhà, thèm được ăn những món rất đơn giản nhưng có thể làm ấm lòng và cho ta cảm giác “đã miệng” dịu dàng.

Ở làng quê tôi, mùa trồng lúa nước thường bắt đầu vào mùa mưa, cả cánh đồng ruộng được chia thành những ô ngăn cách bởi những bờ đê nhỏ để giữ nước. Những khoảng ruộng này cũng là môi trường cho cua đồng sinh nở. Chị tôi đi làm ruộng và ngày nào bắt được cua đồng, chị mang về nhà nấu canh. Những con cua nhỏ như hai ngón chân cái của người lớn kẹp lại, nhưng giẹp xép, được ngâm trong chậu cho sạch bùn. Nếu chị tôi không ngồi xổm bên giếng nước giã cua thì mẹ tôi làm việc này. Văn minh ngồi xổm của người dân quê Việt Nam hẳn đã có cả ngàn năm. Tôi còn nhớ cách mẹ giã cua. Mẹ bốc vội một vốc khoảng chục con, cho vào cối đá hay cối đúc bằng xi măng, tay phải mẹ cầm cái chày gỗ nện xuốc lòng cối, tay trái mẹ gạt những con cua tìm cách tránh nạn vào lại lòng cối. Khi những con cua đã bị tan thân nát xác, mẹ dùng miếng vải cũ lọc lấy nước để nấu canh. Có hai món canh mẹ nấu nước cua đồng là canh khoai môn và canh rau đay. Những củ khoai môn nhỏ chứ không vĩ đại như khoai môn bán ở các chợ thực phẩm Á Châu bên Hoa Kỳ. Canh khoai môn nấu nước cua đồng ăn với rau riếp thái mỏng cũng ngon tuyệt vời, nhưng không thể ngon bằng canh rau đay nấu với cua đồng. Đấy là món canh vô địch, tối cực ngon. Thường thì rau đay mọc lẫn lộn với các loại cây cỏ khác bên bờ giậu, bờ ao hay bờ giếng. Rau đay tươi thái mỏng nấu trong nồi nước cua toả lan mùi thơm ngòn ngọt thanh tao. Khi chị bắt được mớ cua đồng có gạch hay trứng, gạch vàng nổi lên lẫn lộn trong màu xanh đậm của lá rau đay làm tăng phần hấp dẫn của nồi canh lên gấp bội.

Canh rau đay không nên ăn vội vàng lúc còn nóng. Nếu ta hấp tấp húp thìa canh nóng, vừa cho vào miệng đã trôi cái vù qua cổ họng xuống bụng, gây ra cảm giác nóng bỏng từ đầu lưỡi đến bao tử. Ta sẽ không thưởng thức được mùi vị ngon ngọt của canh nữa nhưng lại phải rùng mình lên vì sức nóng của nước canh. Mình nên chờ cho tô canh bớt nóng, chan vào bát cơm, bưng lên trước mắt, từ từ nhìn bát cơm trộn canh cho mùi thơm toả vào mặt, rồi thong thả và cơm vào miệng, nhai chậm rãi, để nước canh nhơn nhớt và những lá rau đay vị đăng đắng đậm đà ngòn ngọt trơn tru thấm vào da miệng da lưỡi rồi từ từ nuốt trôi xuống cổ họng. Thời ấu thơ, nhà quê nghèo và tủ lạnh cũng chưa thông dụng tại Việt Nam nên canh còn dư được cất vào gác măng dê. Tôi chả hiểu dân làng tôi học chữ này ở đâu mà cả bố mẹ tôi cũng gọi cái tủ gỗ nhỏ để thức ăn dư hay ly chén là cái gác măng dê. Sau này đi học mới biết tiếng Pháp gọi là Garde Manger. Đi chăn bò về đói bụng mà có bát cơm nóng trộn canh rau đay nguội thì chẳng còn gì sung sướng và khoái lạc hơn. Gần đây tôi thử để canh rau đay trong tủ lạnh rồi lấy ra ăn xem sao. Kết quả tốt đẹp. Trưa hè ăn bát canh rau đay lạnh cũng tuyệt vời ngon.

Bây giờ tuổi đời đang lế xế chiều, bát canh rau đay ở xứ người chứa đựng cả một trời quê xưa và thời thơ ấu. Hạnh phúc lắm khi được các con tôi học theo bố ăn canh rau đay, canh mướp đắng và cả canh khoai môn. Bây giờ con gái chúng tôi sống xa nhà, nhưng thỉnh thoảng con text cho bố mẹ và em hình ảnh món ăn con vừa nấu xong, nhất là những món con đã được mẹ hay bố nấu cho ăn lúc còn thơ, khiến lòng mình âm ấm niềm hạnh phúc. Món ăn truyền thống trong gia đình như sợi dây vô hình buộc đời ta với những liên hệ gia đình và xóm làng rất linh thiêng. Các láng giềng yêu quí cho tôi canh rau đay và những món ăn hương vị quê xưa, nhưng thật ra, họ đã cho tôi cả một trời kỷ niệm. Bây giờ tôi đã  hiểu ý nghĩa lời mẹ dạy sau những trận đòn bố đánh rát mông, “Bán anh em xa mua “náng riềng” gần” là chân lý cho đời tha hương biệt xứ, và canh rau đay mẹ hay chị nấu đã hoá thành kho tàng kỷ niệm.

Trần Thu Miên
Tuỳ Bút Hè 2020

 

Tìm các bài VĂN khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com