Giáng Sinh ngày nay đã là ngày lễ không chỉ của riêng người Công Giáo mà là của cả nhân loại. Điều gì làm nên một đêm Giáng Sinh đầy ý nghĩa? Chúng ta nghĩ tới Ông già Tuyết, quà Giáng Sinh, ánh sáng lung linh, đêm đông lạnh, tuyết trắng, món ngỗng quay, cây thông Noel, không khí ấm cúng trong các gia đình Ki Tô hữu hay hình ảnh náo nức ngoài phố của người ngoại đạo, v.v. nhưng nhất thiết không thể thiếu nhà Thờ Công Giáo và các bản Thánh Ca.
Có một bản Thánh ca đặc biệt năm nay tròn 200 tuổi đã thể hiện sức sống trường tồn của nó bất chấp thời gian và những đổi thay của loài người. Bản Thánh ca này có lời ca được dịch ra ít nhất 140 thứ tiếng, chưa kể các loại thổ ngữ khác. Nó được thể hiện bởi vô số các giọng ca lẫy lừng, các dàn đồng ca danh tiếng trên thế giới. Không chỉ trong hoàn cảnh thanh bình, nó còn được hát ở hai bờ chiến tuyến và là lý do ngừng bắn của binh sĩ hai bên Anh – Đức trong thế chiến 2. Năm 2011, bản Thánh ca này được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Năm 2013, tạp chí Time sau một cuộc khảo sát đã tuyên bố đây là ca khúc Giáng sinh được yêu thích nhất trên thế giới với 733 lần được thu âm, tính riêng từ 1978 đến thời điểm đó.
Qua 200 năm, bản Thánh ca Silent Night đã thể hiện sức sống trường tồn của nó bất chấp thời gian và những đổi thay của loài người.
Chúng ta đang nói đến bản Silent Night huyền thoại.
Hoàn cảnh ra đời của bài hát
Ngày 24/12/1818, tại làng Oberndorf gần Salzburg nước Áo, có một vị cố đạo trẻ 25 tuổi tên là Joseph Mohr đang loay hoay chuẩn bị cho phần âm nhạc của buổi đêm Giáng Sinh. Ông phát hiện cây đàn Organ trong nhà thờ bị chuột gặm hỏng, do vậy dàn đồng ca sẽ không thể trình diễn được như thường lệ. Trong hoàn cảnh này chỉ có thể sử dụng tiết mục đơn ca và đệm bằng đàn guitar mà thôi. Nhưng với nhạc phẩm nào đây? Joseph Mohr chợt nhớ đến một bài thơ ông làm hai năm trước ngợi ca cảnh Chúa Jesus giáng sinh. Có lẽ phải phổ nhạc cho bài thơ này để sử dụng cho buổi lễ tối hôm đó. Ông nhớ đến người bạn của mình là Franz Gruber, một thầy giáo dạy nhạc ở trường làng và đem bài thơ đến nhờ Gruber phổ nhạc. Gruber nhận lời và rất nhanh chóng phổ nhạc cho bài thơ để hai người có thể bắt tay vào tập luyện.
Và buổi đêm Giáng Sinh đó, dân làng Oberndorf hết sức ngạc nhiên và thích thú với tiết mục biểu diễn của hai nhạc công không chuyên. Một bài hát lạ lẫm được trình bày bởi giọng bass của Gruber và giọng tenor của Mohr, được đệm bằng đàn guitar… đã thành công rực rỡ và mang lại một không khí hết sức khác lạ, hết sức thiêng liêng.
Từ đó, bản nhạc bắt đầu được Gruber lan truyền quanh khu vực Oberndorf và ngày càng đi xa hơn. Đặc biệt, ban nhạc Rainer Family đã trình diễn nó ở cung điện của Sa Hoàng Nga và Hoàng đế nước Áo vào năm 1822. Năm 1832, Silent Night được trình bày trước công chúng ở Leipzig. Vua Phổ Friedrich Wilhelm năm nào cũng mời dàn đồng ca nhà thờ tới lâu đài trình bày ca khúc này. Năm 1839, nó được chơi ở NewYork và rồi đi khắp thế giới theo chân các nhà truyền giáo. Chỉ có điều, người ta đã quên bẵng hai người cha đẻ của nó là Mohr và Gruber ở một ngôi làng bình dị nước Áo. Ca khúc hay được hiểu nhầm là dân ca Tylorean (vùng đất trong khu vực núi Alps ở Châu Âu) hoặc thậm chí được cho là tác phẩm của những nhà soạn nhạc lừng danh như Haydn, Mozart hay Beethoven.. Mãi cho đến năm 1995, người ta mới tìm thấy bản chép tay của bản nhạc và khẳng định được chủ nhân đích thực của nó là Mohr và Gruber sau gần 200 năm bị rơi vào quên lãng.
Hình vẽ Josef Mohr và Nhạc sĩ Franz Gruber đều là người Áo, đồng tác giả của bài Silent Night.
Tại Việt Nam, bản Silent Night được chuyển lời Việt thành bản “Đêm Thánh Vô Cùng” khoảng hơn nửa thế kỷ trước bởi nhạc sĩ Hùng Lân.
Nội dung của bản Silent Night – Đêm Yên Lặng
Silent Night mô tả sự việc vào đêm huyền thoại khi Chúa Jesus giáng sinh với phần ca từ như sau (bản gốc tiếng Áo gồm 6 khổ thơ, bản tiếng Anh sau đây rút gọn còn 3 khổ thơ)
Silent night, holy night!
All is calm, all is bright.
Round yon Virgin Mother and Child.
Holy infant so tender and mild,
Sleep in heavenly peace,
Sleep in heavenly peace
Silent night, holy night!
Shepherds quake at the sight.
Glories stream from heaven afar
Heavenly hosts sing Alleluia,
Christ the Savior is born!
Christ the Savior is born
Silent night, holy night!
Son of God, love’s pure light.
Radiant beams from Thy holy face
With dawn of redeeming grace,
Jesus Lord, at Thy birth
Jesus Lord, at Thy birth.
Tạm dịch:
Đêm tĩnh mịch, đêm thiêng liêng!
Mọi vật thật bình yên và rạng rỡ
Xung quanh Đức Mẹ đồng trinh và con của bà
Đức Chúa hài đồng thật hiền hậu và bé bỏng
Yên ngủ trong cảnh thái bình thiên giới
Yên ngủ trong cảnh thái bình thiên giới
Đêm tĩnh mịch, đêm thiêng liêng!
Những mục tử chấn động trước thần tích triển hiện
Những luồng sáng mỹ diệu từ thiên đường phía xa
Những thiên sứ hát vang bài “ngợi ca Thiên Chúa”
Đấng Ki Tô Cứu Thế đã ra đời
Đấng Ki Tô Cứu Thế đã ra đời
Đêm tĩnh mịch, đêm thiêng liêng!
Người con của Thiên Chúa, ánh sáng thánh khiết của tình yêu thương
Những tia sáng lộng lẫy từ dung nhan của Thiên Chúa
Với bình minh của ơn cứu rỗi
Chúa Jesus giáng thế
Chúa Jesus giáng thế.
Độc giả có thể đối chiếu nội dung bài hát mô tả trung thực cảnh Chúa Jesus ra đời trong bài viết này:
Sự ra đời của Chúa Jesus và truyền thống tặng quà Giáng Sinh
Trải qua nhiều ngàn năm lịch sử, người Do Thái đã nếm trải biết bao thăng trầm, khi thì vinh quang rực rỡ, lúc lại nhục nhằn lao khổ. Nhưng mỗi khi lầm than, từ trong lòng dân tộc ấy lại sinh xuất một vị cứu tinh…
Hơn 2000 năm trước, xứ Judea của người Do Thái nằm dưới sự cai trị của một vị tiểu vương tên là Herod đệ nhất hay Herod Cả. Herod Cả chịu trách nhiệm trước hoàng đế Augustus của La Mã, nghĩa là người Do Thái giờ đây thuộc sự cai trị của chính quyền La Mã.
Và thế là, người Do Thái trong muôn vàn đau khổ của những người bị ngoại bang áp bức, vẫn một lòng ngóng trông Đấng Cứu Độ sẽ đến giải thoát cho mình. Ngài là vị vua chân chính của người Do Thái, là Đức Christ (Ki Tô) – Đấng Cứu Thế – Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, như lời các ngôn sứ xa xưa đã từng nhắc đến.
Lúc ấy ở thành Nazareth, tại một vùng đất ven hồ gọi là Galilea phía bắc tỉnh Judea có một trinh nữ tên là Mary, bà đã đính hôn với một người thợ mộc tên là Joseph. Cả hai người đều là dòng dõi của vua David, vị vua vĩ đại của người Do Thái, cũng là hậu duệ của tổ phụ Abraham.
Bỗng một hôm, trước mặt Mary xuất hiện một vị khách đến từ hư không, ngài tự xưng mình là thiên sứ Gabriel. Ngài nói: “Đừng sợ, Mary. Bà là người được ân phúc hơn mọi người nữ. Vì vậy, bà sẽ được ban cho một đứa con trai tên Jesus. Ngài sẽ cao cả và được gọi là Con của Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ cho ngài ngai vàng của David tổ tiên ngài. Ngài sẽ trị vì nhà của Israel tới muôn đời và vương quốc của ngài sẽ vô tận”.
Mary hết sức bối rối vì ngày hôn lễ của bà với Joseph vẫn còn rất xa và ông ấy chỉ là một thợ mộc, làm sao con họ có thể trở thành một vị vua của dân Do Thái. Nhưng thiên sứ Gabriel nói với bà rằng: người con trai bà sinh ra sẽ là con Thiên Chúa. Và với Thiên Chúa thì không gì là không thể được. Nghe vậy, Mary tin tưởng và sẵn lòng để mọi việc xảy ra theo ý của Thiên Chúa.
Mary đã kể hết mọi chuyện cho Joseph, chồng chưa cưới của bà, lúc đó bà cũng bắt đầu mang thai dù bà vẫn là trinh nữ và chưa thành hôn. Joseph là một người tốt và công chính, ông hết sức băn khoăn và đã tính đến chuyện rút lui khỏi mối quan hệ với Mary. Nhưng đang khi ông ngẫm nghĩ về việc ấy, thì trong một giấc mộng, Thiên sứ của Thiên Chúa hiện đến với ông và phán rằng: “Hỡi Joseph, con cháu David, ngươi chớ ngại mà tiếp nhận Mary, vợ của ngươi; vì thai ở trong nàng là bởi thánh linh. Nàng sẽ sinh một trai, ngươi hãy gọi tên Ngài là Jesus; vì Ngài sẽ cứu dân của Ngài ra khỏi những tội lỗi của họ. [Jesus có nghĩa là: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu Là Đấng Cứu Rỗi].”
Joseph tỉnh dậy, đã xóa sạch những lo ngại, ông tươi tỉnh và chẳng bao lâu ông thành hôn với Mary. Họ sống chung tại Nazareth. Nhưng trước sau, Mary vẫn là một cô gái đồng trinh.
Một ngày, hai vợ chồng Joseph và Mary phải lên đường về bản quán Bethlehem như bao nhiêu người Do Thái khác do hoàng đế La Mã Augustus đã ra lệnh họ phải ghi tên mình vào danh sách đóng thuế của tổ tiên. Mary sắp đến kỳ sinh nở, do vậy chuyến đi có khoảng cách 110 km từ Nazareth tới Bethlehem đối với họ trở nên hết sức khó nhọc. Vậy mà Mary không có lấy một lời phàn nàn. Đến nơi thì các quán trọ đã trở nên chật ních, chẳng ai thèm ngó ngàng tới cảnh ngộ của hai vợ chồng sản phụ Mary.
Do vậy, Joseph đã phải đưa vợ mình vào nghỉ ở một chuồng gia súc. Ông kiếm một cái máng gỗ đựng thức ăn của súc vật, chùi thật sạch và lót cỏ khô vào đó để biến nó thành một cái nôi cho Jesus. Và Đức Chúa Jesus đã ra đời như thế.
Đức Chúa Jesus ra đời. (Ảnh: mariantime.org)
Khi Đức Chúa Jesus ra đời, cả thị trấn đang say giấc nồng. Đêm ấy thật yên ả và lại sáng sủa, bầu trời không mây, rải rác có những vì sao chiếu ánh sáng huyền ảo xuống những đàn súc vật đang say ngủ tại Bethlehem. Trên đồng cỏ chỉ có những người chăn cừu là còn thức. Bỗng có một ánh sáng chói lòa và mỹ diệu tỏa khắp bầu trời, một Thiên sứ xuất hiện phía trên họ trong vinh quang rực rỡ và cao giọng phán bảo cho những mục tử đang run rẩy quỳ xuống:
“Chớ sợ! Này đây, ta mang tới cho anh em tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho muôn dân. Hôm nay, trong thành David, đã ra đời cho mọi người Đấng Cứu Độ, Ngài là Chúa Christ. Và đây là dấu hiệu tỏ ra cho anh em: anh em sẽ tìm thấy một hài nhi mình quấn tã lót, nằm trong máng cỏ”.
Ánh sáng từ Trời tuôn xuống càng rực rỡ hơn và đột nhiên xuất hiện những sinh mệnh siêu phàm với hào quang chiếu rọi khắp nơi. Họ cùng cất cao tiếng hát ca ngợi Thiên Chúa:
“Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm, và dưới đất bình an thiện chí cho loài người Chúa thương”.
Rồi toàn bộ khung cảnh thù thắng ấy dần dần biến mất để lại các mục tử trong lòng hết sức chấn động, ngẩn ngơ. Họ bảo nhau cùng tới Bethlehem và tìm thấy Chúa hài đồng trên máng cỏ trong một chuồng gia súc. Họ kể lại cho Mary và Joseph mọi sự họ đã gặp trên cánh đồng. Ra về, lòng họ vẫn còn náo nức, gặp ai họ cũng kể về sự lạ họ đã thấy đêm đó. Đồng thời các mục tử khi về lại với bầy cừu của mình họ cũng hết sức vinh danh và ca ngợi Thiên Chúa đã gửi tới cho họ Đấng Cứu Độ, tức Đức Chúa Christ.
Còn Mary thì giữ kín trong lòng mọi sự bà biết, bà nghe và thấy. Vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ ra đời, hai vợ chồng Mary và Joseph đưa cậu bé đi làm lễ thánh hóa và đặt tên cho cậu là Jesus, cái tên có ý nghĩa “cứu độ”.
Khi Jesus ra đời ở Bethlehem xứ Judea thì ở phương Đông, có ba nhà thông thái biết xem chiêm tinh đã nhìn thấy một ngôi sao mới rực rỡ xuất hiện trên bầu trời, vạch một đường sáng qua vòm trời hướng tới vương quốc Judea và mất dạng khỏi tầm nhìn.
Vốn là các nhà thông thái, họ biết ngôi sao ấy liên quan đến lời tiên tri được lưu truyền trong dân tộc Do Thái từ những ngày xa xưa về sự xuất hiện của một vị vua mới và vĩ đại của người Do Thái sẽ cứu rỗi dân tộc này.
Thế rồi, họ chất lên lưng lạc đà các quà tặng cho hài nhi ấy và khởi hành một chuyến hành trình dài. Vì Jerusalem là kinh đô thiêng liêng của người Do Thái, nên các nhà thông thái đã đi tới đó, hy vọng tìm thấy Đức Vua Do Thái mới ở một cung điện nào đó tại Jerusalem. Nhưng không có ai như thế cả.
Tuy vậy, tin đồn về chuyến viếng thăm nhà vua Do Thái mới của ba vị thông thái đã đến tai Herod Cả khiến ông ta hết sức lo lắng cho vương quyền của mình. Ông ta triệu tập các tư tế và kinh sư, những người ghi chép và diễn giải lời dạy của tiền nhân. Họ cho ông ta biết rằng Đức Christ, vị vua mới của Israel sẽ ra đời tại Bethlehem vùng Judea theo lời của các ngôn sứ xưa kia.
Sau đó, Herod kín đáo gọi ba nhà thông thái đến. Herod hỏi họ về thời điểm xuất hiện ngôi sao trên bầu trời phương Đông. Họ cho ông ta biết. Nhưng đến câu hỏi ranh ma tiếp theo của vua Herod: “Hiện giờ ngôi sao ấy ở đâu?” thì họ thành thực trả lời là họ không biết.
“Vậy hãy đi Bethlehem, vì theo lời các kinh sư thì có thể tìm thấy hài nhi ở đó. Nhưng khi các ngài tìm thấy hài nhi thì hãy quay lại đây cho ta biết để ta cũng đi bái lạy”. Herod nói.
Khi các nhà thông thái tới Bethlehem họ vui mừng thấy ngôi sao lúc trước lại xuất hiện đằng trước họ. Và khi nó dừng lại trên một ngôi nhà đơn sơ thì họ bước vào ngôi nhà ấy. Họ hết sức vui mừng thấy cậu bé đang nằm trên tay Mary và bên cạnh là người thợ mộc Joseph. Ba nhà thông thái đã quỳ xuống thật thấp bái lạy Đức Chúa hài đồng vì họ biết sau này cậu không chỉ là Vua mà còn là một Đấng Cứu Thế. Họ mở túi xách và rương hòm để biếu Jesus các tặng phẩm quý giá tương xứng với một đế vương: vàng tiêu biểu cho sự giàu sang trần thế; nhũ hương và mộc dược tiêu biểu cho lễ vật hiến dâng Thiên Chúa trên trời và còn rất nhiều các phẩm vật quý giá khác nữa.
Ba nhà thông thái đã quỳ xuống thật thấp bái lạy Đức Chúa hài đồng. (Ảnh: thesacredpage.com)
Sau đó, các nhà thông thái nghĩ đến việc quay trở lại Jerusalem để báo với vua Herod về nơi có thể tìm thấy hài nhi phi thường này. Nhưng đêm đó, mỗi người mơ thấy một giấc mộng như nhau. Trong giấc mộng đó, Thiên sứ của Thiên Chúa cảnh báo họ đừng báo cho Herod biết tin này. Do đó, họ rời Bethlehem và đi một đường vòng, tránh Jerusalem, để về lại xứ sở của mình.
Các nhà thông thái lên đường chưa bao lâu thì Thiên sứ cũng báo mộng cho Joseph. Thiên sứ nói: “Hãy thức dậy, hãy mang hài nhi và mẹ ngài trốn sang Ai Cập vì vua Herod sắp tìm đến giết ngài”.
Joseph lập tức tỉnh dậy và mang Mary và Jesus rời đi Ai Cập đêm ấy.
Còn Herod chờ mãi không thấy ba nhà thông thái quay lại. Sau cùng ông nghe nói họ đã về lại xứ sở của họ mà không đến gặp ông. Herod nổi giận lôi đình và cảm thấy lời phán truyền của các ngôn sứ có thể ứng nghiệm. Để loại trừ nguy cơ bị thay thế bởi vị vua mới, ông ta ra lệnh cho quân lính tìm và giết sạch những bé trai dưới hai tuổi tại Bethlehem.
Thế là một cuộc tắm máu những đứa trẻ đã diễn ra sau mệnh lệnh của nhà vua bạo tàn. Khắp Bethlehem vang lên những tiếng than khóc đau đớn và ai oán. Một bầu không khí tang tóc bao trùm đất Bethlehem vốn yên bình.
Trong khi ấy, Đức Chúa Jesus đã an toàn ở đất Ai Cập cùng với cha mẹ ngài, Joseph và Mary.
….
Từ Adam đến Noah tới Abraham rồi đến David, tiên tri Elijah, rồi đến Jesus… tộc người Do Thái, hậu duệ của những người được tạo ra bởi Thiên Chúa đã đi từ thiên niên kỷ này đến thiên niên kỷ khác, khi thì vinh quang rực rỡ, lúc lại trong nhục nhằn lao khổ. Nhưng mỗi khi lầm than, từ trong lòng dân tộc ấy lại sinh xuất một vị cứu tinh.
Khi lụt hồng thủy xảy ra có Noah gây dựng lại giống người Do Thái. Khi Dân Do Thái rên xiết dưới ách cai trị tàn bạo của người Ai Cập, họ có Moses dẫn họ vượt Biển Đỏ trở lại vùng đất hứa của sữa và mật ong. Khi họ bị người Philistine xâm lăng, Samson và David đã cứu họ. Và giờ đây, người Do Thái lại một lần nữa trông chờ vị cứu tinh đã được đề cập tới trong những lời phán truyền xa xưa của các ngôn sứ để cứu rỗi họ.
Tuy vậy, chẳng ai có thể ngờ rằng Đức Vua mới, Đấng Cứu Độ của người Do Thái, thậm chí là Đấng Cứu Thế của loài người lại có một xuất thân hết sức bình dân. Ngài làm con của một người thợ mộc, một người tốt và công chính, nhưng chẳng có quyền lực hay của cải gì đặng giúp Ngài lên ngôi vua. Ngài không sinh ra trong nhung lụa, nơi cung điện nguy nga mà lại ra đời trong một chuồng gia súc, nằm trên một cái máng ăn của lừa. Khi Ngài được sinh ra, cả nước chẳng nín thở mong chờ, chẳng có các đại thần tung hô vạn tuế. Ngoài cha mẹ Ngài, chỉ có những chú cừu, chú lừa hiền lành chứng kiến mà thôi. Nhưng, đấy là ý của Thiên Chúa mà con người ở cảnh giới tư duy của người thường sẽ không sao hiểu được.
Đến cả những nhà thông thái phương Đông cũng nghĩ rằng phải tìm Ngài ở cung vàng điện ngọc nơi kinh đô Jerusalem sầm uất. Đó là Đức Vua mới, là Đấng Cứu Độ cơ mà, nào ai nghĩ một vị cứu tinh cao cả của nhân loại lại ra đời ở một nơi bình dị như vậy.
Ấy cũng là sắp xếp của Thiên Chúa để sau này thử thách những người có đức tin mạnh mẽ, có lòng nhiệt tâm cầu đạo. Nếu họ qua lời tuyên giảng, qua tin mừng mà Chúa Jesus mang tới, qua những việc tốt lành mà Ngài làm cho con người mà họ sẵn lòng tin vào Chúa Jesus, đi theo Ngài bất chấp xuất thân bình dân của Ngài thì họ mới xứng đáng được ban ơn qua Đức Jesus mà vào đến nước Trời của Thiên Chúa.
Sau này, ngày sinh của Chúa Jesus được người Công Giáo gọi là Lễ Giáng Sinh hay lễ Thiên Chúa Giáng Sinh. Nó còn có những tên gọi khác là Noel, Christmas hay X’mas. Trong tiếng Pháp, Noël là từ viết tắt của Emmanuel nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Christ có nghĩa là “Đấng chịu xức dầu”, là tước vị của Đức Chúa Jesus. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (Thánh lễ). Do vậy, Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Jesus.
Nếu Phật Giáo có ngày 8/4 âm lịch là ngày sinh nhật hay đản sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì Cơ Đốc Giáo có đêm 24, ngày 25 là ngày sinh nhật hay ngày Giáng Sinh của Đức Chúa Jesus. Theo lịch Do Thái, thời điểm tính bắt đầu một ngày là lúc hoàng hôn chứ không phải nửa đêm nên Noel thường được mừng từ tối ngày 24/12. Ngày 25/12 được gọi là “Lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24/12 gọi là “Lễ Vọng”.
Và Chúa Jesus, Đức Phật Thích Ca hay các Đại Giác Giả khác, với uy đức và những phẩm chất cao thượng vượt hẳn người thường, các Ngài luôn luôn có một sức thuyết phục bẩm sinh đối với dân chúng. Vì vậy điều này bao giờ cũng là mối lo ngại và ghen tị của các chính quyền thế tục đương đại. Nhưng cuối cùng, những điều mà các Ngài rao truyền là Chính Đạo có sức sống lâu dài, được loài người đón nhận và tôn vinh; trong khi thân xác của các bạo chúa vô minh, vô Đạo đã tan nát từ lâu và tên tuổi của họ bị đời đời nguyền rủa.
Chúng ta không biết chi tiết tất cả những vật phẩm mà ba nhà thông thái đã mang từ phương Đông xa xôi tới để dâng tặng lên Chúa hài đồng, nhưng từ tích đó mà sau này có tục tặng quà Giáng Sinh trong dân gian, với những món quà hết sức phong phú. Vì ngày Chúa ra đời là ngày mà Ngài mang tin mừng đến với thế gian, rằng con người sẽ được cứu rỗi.
Trong ngày Lễ Vọng hàng năm, người phương Tây lại hát lên khúc thánh ca “Veni Veni Emmanuel” để cùng sống lại thời khắc đáng mong chờ nhất trong lịch sử: Ngày Chúa hài đồng sắp ra đời:
Chút cảm nghĩ về bản Silent Night – Đêm yên lặng
Bản Silent Night hát về một thời điểm thiêng liêng nhất của loài người từ 2.000 năm trước, đó là đêm giáng sinh của Chúa Jesus, vị Cứu Thế của nhân loại. Nhưng Ngài ra đời trong một khung cảnh thật bình dị – trong một chuồng gia súc, trên máng cỏ cho lừa. Ngài sinh thành trong một gia đình lao động bình dị. Và những tác giả của bài hát ca ngợi vị Thánh giả bình dị mà vĩ đại ấy cũng là hai con người bình dị của làng quê nước Áo, không phải là những tên tuổi lừng lẫy trong giới âm nhạc như Haydn, Beethoven, Mozart… như nhiều người lầm tưởng.
Thậm chí, tên tuổi của họ suýt chút nữa đã vĩnh viễn rơi vào quên lãng, trái ngược hẳn với danh tiếng ngày càng lên cao của bài hát.
Thật khó tưởng tượng rằng một bài hát bất hủ như vậy đã ra đời bởi một nguyên nhân kỳ quặc: một sự cố về nhạc cụ của một dàn đồng ca địa phương trong ngày Giáng Sinh 24/12/1818. Thế rồi, nó được sáng tác và tập luyện trong một thời gian nhanh kỷ lục chỉ vài tiếng đồng hồ trước buổi lễ. Điều này khiến chúng ta liên tưởng đến việc bản nhạc này đã được sáng tác bởi ý Chúa thông qua hai người thường. Đó là thần tích triển hiện.
Cứ mỗi mùa Giáng Sinh về, bản Silent Night lại vang lên trong khắp các ngôi nhà, phố phường và nhà thờ. Nó mang lại một cảm giác đặc biệt khi được nghe trong Nhà Thờ Thiên Chúa. Dù có là giáo dân hay không, dù có hiểu nội dung bài hát hay không, hầu như bất cứ ai nghe nó cũng nảy nở một cảm giác an bình, để rồi hồn ta lặng đi trong giây lát và trôi vào một khung cảnh thiêng liêng cổ xưa mà ta không thể diễn tả được bằng lời. Hình như trong tâm khảm của mỗi chúng ta trỗi dậy một điều gì đó linh thiêng, một ơn cứu rỗi mà ta đã đón đợi từ lâu lắm trong vô thức.
Hay đơn giản đó là những phút bình lặng, tĩnh tâm hiếm hoi khiến trí ta sáng suốt hơn, lòng ta cao thượng hơn… những phút bình lặng thực sự mà bài hát mang lại cho loài người, cho một thế giới mà từ lâu đã trở nên không còn nhiều bình lặng.
Xin kính mời quý độc giả thưởng thức bản Silent Night với phần thể hiện của hai danh ca Hayley Westenra và Aled Jones.
Bình Nguyên