
Lạc Long Quân Sùng Lãm
Hồng Bàng vốn họ vua Hùng Vương.
Hồng Bàng vốn họ vua Hùng Vương.
Người đứng đầu của nước Văn Lang.
Mười tám đời yên như bàn thạch.
Sống an nhàn một cõi phương Nam.
Lấy đạo nhơn hòa xây dựng nước.
Lấy đạo nhơn hòa xây dựng nước.
Không màng tranh chấp với lân bang
Trên dưới vua tôi vốn một lòng.
Thương nhau tựa như cùng cha mẹ.
Thanh bình trong cảnh đời dân dã.
Hòa bình trong cuộc sống chung nhau.
Thái bình dân sống đời an lạc.
Hòa bình trong cuộc sống chung nhau.
Thái bình dân sống đời an lạc.
"Tam bình" chung lại sống thái hòa.
Vua tự xem dân như cha mẹ.
Dân trọng vua như bậc thánh hiền.
Chung lòng xây dựng nước Văn Lang.
Phù trợ dương danh giống Lạc Hồng.
Được Lời (LKC)
Người Việt nhìn qua sử Việt.
Mấy ai nói đến lời chân thật.
"Người Việt" ra sao mới thực là.
Để lòng nhìn lại quá khứ ta sẽ thấy "Người Việt tự dối mình" trên nhiều phương diện, tự thấy nếu nói thẳng thừng thì sợ người ta gọi mình là ngang ngược và hồ đồ, vì đây là vấn đề nhạy cảm đối với mọi người cùng chung nói tiếng Việt, cùng chịu ảnh hưởng đến sông núi Việt Nam, đó là "chất Việt" sẵn có trong bản thân "cần cù, nhẫn nại, thông minh và hòa bình", sự thật này không ai mà không nhận thấy, và cũng không thể chối cãi được. Nhưng nói đến "Người Việt" người ta không nhận xét qua đời sống dân gian để phán đoán, mà chỉ nhìn cảnh xô bồ bon chen trong cuộc sống thị thành, các hàng phẩm quan quyền và nhất là qua sử sách, rồi bình phẩm một cách qua loa trong cái "tính lơ là" sẵn có, bởi thế mất đi nhiều cơ may chính mình tạo nên.
Nói đến sử sách thì phải xét qua các triều đại lập quốc. Nhìn chung "Người Việt" trông vẻ như hòa đồng và hiếu khách, trong lần gặp mặt đầu, sau khi giới thiệu qua tên họ và vài câu xã giao, thế nào cũng có câu tiếp "Anh là người.. H..?", khi nghe qua giọng nói hoặc cái họ của người đối diện, rồi liền hỏi trong vẻ tự nhiên như là lời xã giao, đây là "tính lơ là" của "người Việt", vì tôi được hỏi nhiều lần qua cấp chỉ huy hoặc những người bạn mới trong quân đội, không phải người Việt có tính kỳ thị mà vì tính tự hào về dân tộc bởi sự thông minh sẵn có trong con người, cho nên mọi việc đều dè dặt và cẩn thận trong các ngành chỉ huy, lãnh đạo, người Việt tin tưởng nhiều ở những người họ Lê, Trần, Nguyễn, qua sử người Việt vẫn còn dè dặt các họ như Đinh, Lý, Trịnh, Hồ, Bùi, Phạm và Ngô... "họ Ngô" đôi khi cũng còn nghi ngờ, sao tôi nói thế, vì vợ tôi bạn bè cũng thường hỏi "Chị là người Hoa?". Sao người mình lại có cái tính này, có phải vì ảnh hưởng quan niệm "ngàn năm nô lệ giặc Tàu", đây là một định kiến cố chấp của những "người Việt trí thức", chứ sao không nhìn qua nước Malaysia (24/100 gốc Hoa, 70/100 người bản xứ), Tân Gia Ba (75/100 gốc Hoa, 25/100 người bản và gốc Ấn), quốc gia phát triển mạnh, nước họ có theo chỉ thị của Trung Quốc không? Trong khi đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng vì quyền lợi mà quên đi trách nhiệm quốc gia, không nghĩ đến dân tộc, luôn luôn nghĩ cách đề phòng người Hoa mà không thấy đây là "cộng đồng chất Việt". Người Hoa đến Việt Nam trong gần 300 năm nay, không chỉ riêng ở Việt Nam mà cả toàn thế giới, họ là những người đi tỵ nạn vì chế độ hà khắc của triều đình Mãn Thanh kỳ thị chủng tộc. Cũng như ngày nay người Việt chúng ta ở khắp 5 châu cũng vì chế độ cộng sản, 2 dân tộc Việt Hoa khắp trên thế giới này đều là người tỵ nạn chính trị, đều là những người bị chính quyền ngược đãi, riêng về người Hoa họ muốn đào thải cái chính quyền chuyên chế độc tài từ trước đến nay, người Việt thì chỉ muốn đánh đổ chế độ cộng sản và oán ghét người Hoa, vì nghỉ rằng người Hoa chiếm lấy hoàn toàn nên kinh tế Việt Nam, và cho đây là "sự xâm lược đồng hóa dân tộc Việt Nam". Đây là một quan niệm yếm thế hẹp hòi. Đến ngày nay đã gần 40 năm tỵ nạn chính trị tại các nước tự do mà người Việt không thấy rõ vấn đề khó xử cho những người Hoa đã sống từ 3 thế kỷ nay trên đất Việt, họ có cùng cái "chất Việt" trong con người họ, họ có khi nào bạo lực với người Việt không?
Thử nhìn lại lịch sử. Tổ tiên người Việt là Lạc Long Quân Sùng Lãm thể hiện rõ "chất Việt (75/100 Việt + 25/100 Tàu)", và trong thời ngàn năm Bắc thuộc có vị anh hùng nào mang cái họ vừa kể ở trên đâu? Các Ngài đã lãnh đạo toàn dân, người cùng "chất Việt", chống lại toán quân Tàu xâm lược. Như nhìn vào lịch sử, ta thấy thời kỳ độc lập của Việt Nam bắt đầu từ Ngô Quyền, nhưng khi nói đến các triều đại thì các thầy dạy Sử thường mở đâu với câu: "Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn.." mà quên mất đi Ngô Quyền và những người kề trước Ông như Khúc Thừa Dụ (906-907), Dương Diên Nghệ đã mở đường cuộc cách mạng chống Tàu hơn 30 năm liên tục, trước đó nữa có Lý Bôn và thuộc tướng Triệu Quang Phục không phải đã hơn 40 năm giữa nước Việt Nam chống Tàu sao? Họ có phải là người Việt thuần túy như các anh suy nghĩ đâu, họ chống vì áp bức của bọn quan lại cầm quyền. Với quan điểm này người Việt ngày nay cần phải biết, muốn xây dựng Việt Nam, cần phải xây dựng một chính quyền chân chính trong sạch không tham nhũng, không nhận hối lộ, không lộng quyền hà khắc với nhân dân, những người tham gia chính quyền phải được minh bạch tài sản khi tham gia chính quyền cũng như rời khỏi chính quyền, như thế "Tự Do và Độc Lập" tự nhiên sẽ đến trên đất nước Việt Nam.
Trong sử Việt nếu ta để ý ta sẽ thấy chỉ có Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Nhân Tông, Lê Lợi và gần thời chúng ta nhất là Ngô Đình Diệm là được kính phục, vì những vị vua này trị quốc đúng cách một "Minh quân", còn các vị vua khác như Lê Hoàn thời Tiền Lê, Lý Công Uẩn nhà Lý, Trần Cảnh nhà Trần thì không được huy hoàng gì mấy, đặc biệt thời nhà Trần với cuộc thảm sát của Trần Thủ Độ làm kinh hoàng cho cả dòng họ Lý, Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh thống nhất Việt Nam, tự xưng Bắc Bình Vương, chiếm đi vị trí nhà vua của anh mình là Nguyễn Nhạc, và mưu tìm giết hại dòng họ Trịnh, Nguyễn Ánh sau khi thống nhất giang sơn thì căm thù Nguyễn Huệ và truy lùng bà con thân thích dòng họ Hồ Thơm, có phải những người có hành động này cho rằng: "Họ Lý, Hồ, Trịnh không phải là chính tông họ của người Việt Nam", vậy họ của người Việt Nam gồm những họ nào? Chỉ riêng họ Lê, Trần, Nguyễn ư, hoặc những người phải hy sinh cho đất nước Việt Nam mới là người Việt, nếu nghĩ thế thì quá hẹp hòi và sẽ làm chậm tiến xây dựng đất nước và không trách nhiệm đối với dân tộc.
Trong thời Việt Nam Cộng Hòa, nhóm Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm đã giết ngài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Tổng Thống Ngô Đình Nhu, trong khi đó Ngô Đình Diệm lại là Cha đỡ đầu của Tôn Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, lịch sử trớ trêu thế có sử nào ghi lại, tạo cho "người Việt" trong cảnh mù mờ chỉ biết mình là "anh hùng chống ngoại xâm" mà quên đi cái tính thuần lương của "người Việt" trong thời Lạc Long Quân. Những điều này đều bởi cái tính "lơ là" của hầu hết người Việt.
Để nhận lại lịch sử rõ ràng hơn chúng ta bắt đầu:
Sử Việt Nam
Trong lịch sử người Việt ai cũng biết họ Hồng Bàng là họ của vua Hùng Vương, chuyện đó không sai, dòng họ này bắt đầu từ thời nào? Đó là điều mà tất cả người Việt đều cần biết, theo quyển Việt Nam Sử Lược của ông Trần Trọng Kim viết, vua Hùng Vương bắt đầu từ thời con của Sùng Lãm và Bà Âu Cơ, theo sử ghi chép, vua truyền theo tục phụ đạo (lấy họ cha) trên thực tế là cha truyền con nối, nhưng sự thực không phải là họ Sùng mà là họ Đế của Bà Âu Cơ, Lạc Long Quân không muốn thấy tình trạng này tiếp diễn trong tương lai, nên Ông đặt luật: "Người làm vua gọi là Hùng Vương, mang họ Hồng Bàng, truyền nhau được 18 đời, và tôi tạm gọi đây là luật Hồng Bàng, vì đây bắt đầu thể chế cho nước Văn Lang.
Sử chép vua Đế Minh Nam du lấy nàng tiên sinh ra Lộc Tục, sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và Lộc Tục làm vua phương Nam, từ điểm này ta nhận thấy, vua phương Bắc theo phụ hệ, vua phương Nam theo mẫu hệ, vì Đế Nghi theo họ cha, Lộc Tục theo họ mẹ, Lộc Tục cưới vợ sinh con là Sùng Lãm, họ Sùng là họ của mẹ, Sùng Lãm cưới Âu Cơ (con của Đế Lai), vậy con của họ phải là họ Đế. Xét theo gia phả dòng họ Đế, chúng ta thấy Bà Âu Cơ gọi Sùng Lãm bằng chú. Xét theo mẫu hệ phương Nam, Sùng Lãm và Âu Cơ khác họ nên việc lấy nhau là chuyện thường tình (cũng như ngày nay, hầu hết các nước Á Châu như Việt Tàu Trung Đông đều cho rằng anh em bạn dì (Theo phụ hệ vì đây là họ bên ngoại. Theo mẫu hệ thì Sùng Lãm và Âu Cơ thuộc về họ bên ngoại nên ưng nhau là chuyện bình thường, vì 2 người đều khác họ), bởi Trần Trọng Kim nhìn Sùng Lãm và Âu Cơ theo quan niệm phụ hệ của phương Bắc thì không hợp lý, nhìn theo mẫu hệ của phương Nam, hai người đều khác họ, mặc dù họ là cháu của Đế Minh (Sùng Lãm gọi Đế Minh là "ông ngoại" theo mẫu hệ, còn Âu Cơ gọi Đế Minh là cố nội, theo phụ hệ), nên Trần Trọng Kim hỏi đây có phạm đến luân thường đạo lý không? Chứng tỏ Trần Trọng Kim chưa phân rõ tập tục giữa "phụ hệ và mẫu hệ". Vì thời đó dân Việt theo mẫu hệ, con sinh ra đều mang họ mẹ, còn trong triều đình truyền ngôi vua chỉ truyền cho người nam, nếu cứ theo tập tục dân gian thì các triều đại sau luôn luôn đổi họ, bởi thế khi Sùng Lãm lên ngôi vua, Ông mới có luật "Người làm vua gọi là Hùng Vương mang họ Hồng Bàng", nên mới có họ Hồng Bàng bắt đầu từ thời vua Hùng Vương thứ nhất và duy nhất để chỉ rõ "Hồng Bàng" là họ của nhà vua, có nghĩa là anh em cùng nhà vua cũng không được mang họ Hồng Bàng mà vẫn phải mang họ mẹ, như vậy họ Hồng Bàng chỉ có 18 vị vua Hùng Vương được mang họ "Hồng Bàng" mà thôi.
Đây là một quan điểm chính trị tuyệt đỉnh mà Lạc Long Quân Sùng Lãm đặt ra trong xã hội theo mẫu hệ, nhầm ổn định chế độ quân chủ thời đó, ta có thể hãnh diện Sùng Lãm là Ông Tổ của ngành "Luật Việt Nam", những người trí thức Việt Nam có nhìn thấy tư tưởng của Ông Tổ của mình không, mà lúc nào cũng tự ti mặc cảm mình cần phải học theo tư tưởng Trung Hoa, có biết Lạc Long Quân là một tưởng vĩ đại nhất không? Vì tính thuần lương của Sùng Lãm, nên khi lên ngôi vua Ông chỉ lấy vương hiệu là Lạc Long Quân, ông không dùng đến từ "Đế hoặc Vương" như các thế lực triều khác, nên nước Văn Lang có thời thịnh vượng, vì không có chiến tranh, dân gian sống thời thật thái bình, với quan điểm của thời vua Nghiêu vua Thuấn và Chu Văn Vương (vua đầu tiên thời Tây Chu) bên Tàu.
Trong thời Chu Văn Vương, Sùng Lãm có lần đi sứ qua Tây Chu triều kiến Chu Công (Chu Văn Vương), nên nhận biết tình hình Tây Chu, Chu Văn Vương có 100 người con, nên khi về nước vào lúc thay vua cha Lộc Tục Kinh Dương Vương lên làm vua, Sùng Lãm lấy vương hiệu là Lạc Long Quân, cưới con gái Đế Lai là Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra 100 người con, đây như một chuyện cổ tích hoang đường không có thật, nhưng về mặt chính trị nhận xét, chúng ta thấy là chuyện có thật, vì 100 người con này gồm cả những người con nuôi, như chuyện vua Chu Văn Vương bên Tây Chu.
Như một thông điệp cho 15 bộ lạc nước Văn Lang biết: "Lạc Long Quân trị nước như Chu Văn Vương, đây là một hình thức chính trị của Lạc Long Quân, Ông không tuyên bố nhưng hành động của Ông cả nước Văn Lang đều nhận rõ và tin rằng: "đạo đức của Lạc Long Quân chẳng khác gì Chu Văn Vương". Đồng thời cũng trong luật Hồng Bàng khiến Bà Âu Cơ không vui, nên xảy ra chuyện Bà Âu Cơ dẫn 50 con lên núi (núi ở đây là núi vùng Bách Việt, thuộc tỉnh Vân Nam Quảng Tây Quảng Đông Trung Hoa bây giờ) và Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển (biển ở đây là vùng Lạc Việt, tức vùng châu thổ Bắc Việt ngày nay) lập nước Văn Lang. Điều này nói lên cho dòng họ Đế biết, nước Văn Lang có một triều đại biệt lập không phụ thuộc vào Bắc phương. Đồng thời cũng để cho chúng ta thấy sự thông minh của Sùng Lãm, Tổ của 18 vị Hùng Vương, trị nước có phép tắc lấy chữ "Bình" làm căn bản cho cả dân tộc Việt. Nhưng người Việt không vượt khỏi sự thông minh của Lạc Long Quân mà vẫn còn tù túng trong quan niệm về dân tộc, vì chưa nhận rõ dân tộc Việt thành hình từ đâu? Đây là sự thất bại của người Việt, chứ không phải là sự kiêu hùng của dân tộc, chung quy chỉ có sự khắc phục tạm thời để rồi chính tự dân tộc mình giày xéo lẫn nhau qua nhiều thế hệ, rồi tạo sự dễ dàng cho ngoại bang xâm lấn, sự thực này trí thức Việt Nam có nhận ra không? Bởi thế khi đọc qua sử tôi mạo muội lên tiếng "Nước Văn Lang lập quốc từ năm Nhâm Tuất 1079tcn đến năm Quý Mão 258tcn (1079tcn-258tcn là 821 năm cho 18 đời vua Hùng Vương, mỗi Ông trị vị khoảng 45 năm) để phủ nhận quan niệm của ông Trần Trọng Kim là năm Nhâm Tuất 2879tcn đến năm Quý Mão 258tcn (2879tcn-258tcn là 2621 năm, mỗi Ông trị vị 145 năm, quá hoang đường), vì dựa vào quyển sử chính Trần Trọng Kim viết: "Việt Thường có 9 lần đến triều cống Chu Thành Vương (1115tcn-1079tcn), điều này nói rõ thêm nước Văn Lang lập quốc cùng thời Tây Chu bên Tàu. Quan niệm và tập tục Văn Lang thời Lạc Long Quân tựa như Chu Võ Vương (con của Chu Văn Vương), vị vua diệt vua Trụ nhà Thương chính thức lập lên Tây Chu, vua coi dân như cha mẹ, dân trọng vua như bậc thánh hiền. Đời vua Hùng Vương là triều đại lâu dài nhất của dân tộc Việt Nam, trị quốc với quan niệm nhơn hòa, thực hiện tam bình "Thanh bình, Hòa bình và Thái bình", khác với quan niệm thống trị của người Hán trong học thuyết "Trung hiếu" và "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" (vì trong gia đình thường bao che con cái, chính lý do này tạo cảnh cường hào ác bá, trong xã hội đạo trung hiếu là đầu mối tạo tạo nên những giai cấp chuyên chế, độc tài, bởi thế nước Trung Quốc ngày nay vẫn là một đế quốc độc tôn trong thời buổi tôn trọng Tự do, Dân chủ, Dân quyền ngày nay).
Sơ lược lịch sử Việt Nam
Họ Hồng Bàng (2879tcn-258tcn, theo sử ký Trần Trọng Kim). Đế Minh cháu 3 đời vua Thần Nông đến núi Ngũ Lĩnh (Hà Nam) gặp tiên sinh con Lộc Tục, Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và Lộc Tục làm vua phương Nam, Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu là Xích Quỹ, nước Xích Quỹ Bắc giáp hồ Động Đình, Nam giáp Hồ Tồn (Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục, Nam giáp biển Nam Hải, Kinh Dương Vương là thủy tổ Bách Việt, lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh Sùng Lãm. Sùng Lãm lên ngôi xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới con gái Đế Lai tên là Âu Cơ sinh ra một lần 100 đứa con, sau khi các con lớn lên, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ "Ta là giống rồng nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó, bèn từ biệt nhau, Âu Cơ dẫn 50 con lên núi, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển", lập lên nước Văn Lang, gồm 15 bộ lạc:
1- Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
2- Vũ Ninh (Bắc Ninh).
3- Phúc Lộc (Sơn Tây).
4- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị).
5- Chu Diên (Sơn Tây).
6- Ninh Hải (Quảng Yên).
7- Dương Tuyền (Hải Dương).
8- Lục Hải (Lạng Sơn).
9- Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng).
10- Bình Văn (?).
11- Cửu Châu (Thanh Hóa).
12- Cửu Đức (Hà Tĩnh).
13- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang).
14- Văn Lang (Bạch Hạt tỉnh Vĩnh Yên).
15- Hoài Hoan (Nghệ An).
Vua đóng đô ở Phong Châu, đặt luật lệ triều chánh, con trai gọi là "Quan Hùng", con gái gọi là "Mỵ Nương", tướng văn gọi là "Lạc Hầu", tướng võ gọi là "Lạc Tướng", truyền ngôi cho con trưởng lên làm vua gọi là Hùng Vương, truyền nhau được 18 đời vua đều gọi là Hùng Vương.
Trong 18 đời vua Hùng Vương có 2 sự tích được truyền tụng trong dân gian:
1- Thời Hùng Vương thứ 6 có tích bé thần đồng ở làng Phù Đổng cỡi ngựa sắt đánh dẹp yên giặc Ân rồi bay về trời, dân làng ghi nhớ công lập miễu thờ Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn ngài.
"Thời vua Trụ bên Tàu là nhà Thương còn gọi là Ân Thương (1751 tcn-1111tcn) có thể giặc Ân là giặc của triều đại này, nhưng nếu tính từ năm 2879tcn đến năm 1751tcn có tất cả là 1128 năm chung cho 5 đời Hùng Vương "vậy mỗi đời trị vị 225 năm, hoang đường hơn con số 145 năm cho mỗi vua Hùng Vương được ghi lại như Ông Trần Trọng Kim.
2- Thời Hùng Vương thứ 18 có tích "Sơn Tinh Thủy Tinh". Thủy Tinh vì đem sính lễ đến trễ nên không cưới được Mỵ Nương đem lòng thù hận, dùng phép thuật làm nước sông dâng lên, ý muốn làm ngập núi để đánh với Sơn Tinh, kỳ thực là thề quyết diệt Văn Lang. Sau này chính Thục Phán người Ba-Thục đánh bại vua Hùng Vương 18, chấm dứt triều đại Văn Lang.
An Dương Vương(258tcn-207tcn)
Vua Thục xin cưới hỏi Mỵ Nương không được bèn đem lòng thù hận vua Hùng Vương, quyết lòng trả thù Văn Lang, đến đời sau Thục Phán người Ba Thục, khi lên ngôi đem quân đến đánh Văn Lang, Hùng Vương 18 thua nhảy xuống giếng tự tử, Thục Phán lên ngôi xưng là An Dương Vương, trị vị 50 năm đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô tại Phong Khê, bắt dân xây thành Cổ Loa. Có Cao Lỗ chế được cái nỏ liễu bắn 1 phát ra 10 mũi tên, tạo thế quân rất mạnh, nhưng sau nhà vua bạc đãi Cao Lỗ, Cao Lỗ bỏ vua, vả lại Mỵ Châu (con An Dương Vương) có tư thông cùng Trọng Thủy (con Triệu Đà) nhân đó phá hư nỏ thần, tạo thế để Triệu Đà đem quân diệt Âu Lạc rồi lập lên nhà Triệu.
Nhà Triệu. (207tcn-111tcn)
1- Triệu Đà (207tcn-137tcn). Bên Tàu Tần Thủy Hoàng năm thứ 26 thống nhất TQ (221tcn). Năm thứ 33 (214tcn), chiếm lấy Dương Việt, dùng Nhâm Ngao làm Ký Quận Nam Hải, dùng Triệu Đà làm Lệnh Quận Long Xuyên, đến đời Tần Nhị Đế (Hồ Hợi) Nhâm Ngao mất, Triệu Đà lên thay. Sau khi nhà Tần bị Tây Hán diệt (206tcn), Triệu Đà chiếm Quế Lâm và Tượng Quận, năm 207tcn Triệu Đà tự xưng Nam Việt Vương. Năm 206tcn Lưu Bang diệt Tần, thống nhất Trung Hoa xưng Hán Cao Tổ (206tcn-195tcn), mãi đến năm 196tcn Lưu Bang sai Lục Giả sắc phong Triệu Đà làm Nam Việt Vương. Đến năm Mậu Ngọ 183tcn, Võ Hậu cầm quyền Hán triều, cho người đến khuyên dụ lần nữa, Triệu Đà mới chịu thần phục nhà Hán, Ông mất năm 137tcn, tương truyền ông sống 122 tuổi, truyền ngôi cháu đích tôn tên Hồ.
2- Triệu Văn Vương (137tcn-125tcn). Tên Hồ cháu Triệu Đà lên ngôi được 2 năm, vua Mân Việt (Phúc Kiến) đem quân sang đánh, Triệu Văn Vương cầu viện nhà Tây Hán, Hán Vũ Đế (140tcn- 86tcn) sai Vương Khôi và Hàn An Quốc sang đánh và giết vua Mân Việt, còn sai Trương Trợ dụ về chầu Hán đế bên Tàu, vua cho Thái Tử Anh Tề đi thay, Anh Tề sống tại Hán triều 10 năm, đến năm 125tcn Triệu Văn Vương mất, làm vua được 12 năm.
3- Triệu Minh Vương (124tcn-113tcn). Tên là Anh Tề vợ là Cù Thị có con là Hưng, trở về làm vua xưng Triệu Minh Vương, phong Cù Thị làm Hoàng Hậu, Hưng làm Thái Tử, làm vua được 11 năm.
4- Triệu Ai Vương (113tcn-112tcn). Tên là Hưng làm vua được 1 năm, Thái Hậu Cù Thị đã tư thông với An Quốc Thiếu Quý trước khi lấy Anh Tề, khuyên Triệu Ai Vương nên triều cống nhà Hán và qua Tàu chầu vua Hán, Thừa Tướng Lữ Gia can gián vua không nghe lời mà còn nghe theo Thái Hậu Cù Thị lập mưu giết Lữ Gia. Lữ Gia biết được làm loạn, Hán Vũ Đế (140tcn-86tcn) bên Tàu sai Hàn Thiên Thu đem 2. 000 quân sang đánh Lữ Gia, Lữ Gia cùng em trai và dân chúng giết Cù Thị và vua (tức Hưng con riêng Cù Thị và An Quốc Thiếu Quý) cùng sứ giả Tàu, lập con trưởng Triệu Minh Vương là Vệ Dương Hầu lên ngôi vua.
5- Triệu Dương Vương (112tcn-111tcn). Tên Kiến Đức (con của Triệu Minh Vương và vợ là người Nam Việt) cũng gọi Triệu Vệ Vương làm vua được 1 năm, Hán Vũ Đế sai Phục Ba tướng quân là Lộ Bác Đức lãnh bộ binh và Dương Bộc lãnh thủy binh đem 5 đạo quân đánh chiếm Nam Việt và đặt là Giao Chỉ bộ chia làm 9 quận, đặt quan cai trị như các châu huyện bênTàu. Trong sách sử Trung Hoa Dân Quốc (QDĐ/TH) ghi: "Nước Nam Việt gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc phần Việt Nam bây giờ". Hán Vũ Đế bình định Nam Việt, áp chế sách lược cai trị hà khắc, nên dân tình ở đây không ổn định. (Khi ta đọc đến Bà Triệu Thị Trinh khởi dậy đánh quân Đông Ngô, Bà nói với anh: "Tôi muốn cỡi gió đáp đường sóng biển, chém cá tràng kình ở Biển Đông", điều này cho thấy từ thời Hán Vũ Đế (Tây Hán) đến hết đời Đông Hán bị diệt bởi Tào Phi nhà Ngụy năm 220, nhà Hán vẫn chưa ổn định vùng đất Nam Việt (Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc phần Việt Nam). Cớ gì Trung Quốc ngày nay lại nói: "Biển Đông Nam thuộc về Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế? Lời nói của Bà Triệu Thị Trinh năm 248 cho chúng ta thấy: "Lãnh thổ Nam Việt bắc liền cả vùng Đông Nam Á, là vùng biển tự do đi lại của dân tộc Việt Nam, và ranh giới nhà Hán chưa qua khỏi Quảng Đông, Quảng Tây).
Từ đây dân tộc Việt bước vào thời kỳ nô lệ trên ngàn năm.
Thời kỳ Bắc thuộc.
A- Bắc thuộc lần thứ I. (111tcn-40cn).
Cuộc khởi nghĩa Trưng Trắc Trưng Nhị (40cn-43cn).
Trong thời Bắc thuộc, các quan lại đều là người Tàu, dân Việt chỉ làm nô lệ, sau khi Hán Vũ Đế mất (140tcn-86tcn), kế đến Hán Chiêu Đế, Hán Tuyên Đế, thế lực Tây Hán suy yếu dần, triều chánh đều nằm trong tay anh em Vương Thái Hậu, quyền hành đều nằm trong tay người cháu Vương Mãng, Vương Mãng soán ngôi diệt Tây Hán, đổi quốc hiệu là Tân, thường gọi là Tân Mãng (8cn-25cn). Tôn thất nhà Hán, Lưu Tú, dẹp yên Vương Mãng, lập lên Đông Hán đóng đô ở Lạc Dương (Tây Hán đóng đô ở Trường An), Lưu Tú lên ngôi, Đông Hán Quang Vũ Đế (25cn-58cn), tại VN Tô Định làm thái thú tàn ác hung bạo giết Thi Sách, chồng Trưng-Trắc, người huyện Châu-Điền con quan Lạc Tướng. Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị người Mê Linh làng Hạ Lôi huyện Yên Lãng tỉnh Phúc Yên, con gái quan Lạc Tướng (võ tướng thời Hùng Vương), nổi lên ở Phong Châu đánh giết Tô Định, các dân ở Cửu Chân và Nhật Nam hưởng ứng cùng khởi nghĩa chiếm được 65 thành ở ngoài phía Nam nhà Đông Hán, xưng vương năm 39cn đóng đô ở Mê Linh. Năm 40cn Hán triều sai Mã Viện đến đánh, năm 42cn Mã Viện tiến đánh Lãng Bạc 2 Bà thế cô cầm cự không nổi bèn rút về Cẩm Khê, năm 43cn Hai Bà cùng tuẫn tiết tại Hát Giang.
Hai Bà Trưng
Ngược dòng lịch sử của bốn ba.
Hai bà Trưng đứng lên khởi nghĩa.
Từ Phong Châu dựng cờ cứu nước.
Cửu Chân Nhật Nam cũng một lòng.
Giết Tô Định trả mối thù chồng.
Giúp dân tình dựng lại quốc gia.
Lấy Mê Linh làm nơi dựng nước.
Tự xưng mình vua nước Việt Nam.
Hai bà Trưng đứng lên khởi nghĩa.
Từ Phong Châu dựng cờ cứu nước.
Cửu Chân Nhật Nam cũng một lòng.
Giết Tô Định trả mối thù chồng.
Giúp dân tình dựng lại quốc gia.
Lấy Mê Linh làm nơi dựng nước.
Tự xưng mình vua nước Việt Nam.
Với khí thế dân tình lúc đó.
Sáu mươi lăm thành Bà chiếm được.
Bên Tây Hán tỏ ra lo lắng.
Sai Mã Viện thống lãnh ba quân.
Vì thế côi khó phương chống cự.
Nên rút về cố thủ Cẩm Khê.
Rồi chạy đến Hát Môn cầm cự.
Sau cùng tuẫn tiết tại Hát Giang.
Sáu mươi lăm thành Bà chiếm được.
Bên Tây Hán tỏ ra lo lắng.
Sai Mã Viện thống lãnh ba quân.
Vì thế côi khó phương chống cự.
Nên rút về cố thủ Cẩm Khê.
Rồi chạy đến Hát Môn cầm cự.
Sau cùng tuẫn tiết tại Hát Giang.
Tưởng công Bà dân ta ghi nhớ.
Hằng năm ngày Sáu tháng Hai âm.
Lễ tưởng niệm trang nhã linh đình.
Để tỏ ơn một lòng kính mếm.
Cũng nói lên tấm lòng yêu nước.
Giới nữ nhi khí phách hùng anh.
Truyền đến đời sau con cháu rõ.
Việt Nam ta có nữ anh tài.
Được Lời (LKC)
B- Bắc thuộc lần thứ II. (43cn-588cn)
1- Nhà Đông Hán. (25cn-220cn). Sau cuộc khởi nghĩa của 2 Bà Trưng, Giao Châu trở lại thời nô lệ như xưa, quan lại cai trị tàn ác và bạc đãi người bản xứ, mãi đến cuối thời Hán Linh Đế(168-189) mới có Lý Tiến lên làm thứ sử ở Giao Chỉ xin vua Đông Hán cho người bản xứ làm quan như người Hán, vua Hán đồng ý cho làm quan tại bản xứ mà thôi, sau lại có Lý Cẩm làm lính tục vệ hầu vua ở trong điện xin vua Hán cho người Giao Chỉ làm quan như dân Hán, từ đây người Việt được dự vào các chức quan lại trong nguồn máy cai trị của Đông Hán.
Sĩ Nhiếp (187-226) là quan Thái Thú ở Giao Chỉ từ năm 187, lúc này ở Giao Chỉ loạn lạc khắp nơi, dân tình không yên, Sĩ Nhiếp bình định được giặc ngoài, bên trong trị dân có phép và chăm sự dạy bảo dân lành, Sĩ Nhiếp cùng các anh em của ông chia nhau mà cai trị các châu khác, thời thế thật sự thái bình, lòng dân cảm phục, bởi thế trong sử có ghi: "Việt Nam có văn hóa bắt đầu từ thời Sĩ Nhiếp". Trong giai đoạn này, thời Hán Linh Đế giặc "Khăn vàng" nổi lên, loạn lạc khắp nơi, sau khi Hán Linh Đế chết, Đổng Trác lộng quyền nắm giữ binh quyền trong tay, tự lập lên Hiến Đế và chuyên chế triều chánh, sau này Đổng Trác bị giết, Tào Tháo lên thay, đem Hiến Đế chuyển về Hứa Huyện, rồi sau đó Hiến Đế bị Tào Phi (con Tào Tháo giết rồi tự xưng vương, đổi quốc hiệu là Ngụy Quốc. Đông Hán bị diệt năm 220cn. Từ đây bên Tàu thế lực phân chia: Bắc thuộc họ Tào gọi là Bắc Ngụy, Đông có Tôn Quyền thuộc Đông Ngô, cai quản dọc theo các tỉnh ven biển, Tây có Tây Thục thuộc dòng họ Lưu Bị.
Năm 226 (năm thứ 5 Tôn Quyền làm vua Đông Ngô) Sĩ Nhiếp mất, con ông là Sĩ Huy tự phong làm Thái Thú, sau Đông Ngô đến cai trị đưa Lục Dần làm Thái Thú Giao Châu thay Sĩ Huy.
2- Đời Tam Quốc. (220cn-265cn). Tôn Quyền nước Đông Ngô thống trị nước ta, dân tình khổ sở. Năm 248 sai Lục Dần làm Thứ Sử Giao Châu, có bà Triệu Thị Trinh người huyện Nông Cống ở cùng với anh là Triệu Quốc Đạt, trong nhà chị dâu độc ác ngòai thì quân Tàu hung dữ hà hiếp dân lành, bà tức giận giết chị dâu vào rừng tụ hợp nghĩa quân hơn ngàn người, lúc đó Bà chỉ 20 tuổi, bà khuyên anh cùng nổi dậy chốngTàu, người anh lại khuyên Bà không nên làm vậy, Bà có nói "Tôi muốn cỡi gió đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, chứ không bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp người ta". Năm 248 người dân không chịu được sự hung ác của quân Đông Ngô, nên Triệu Quốc Đạt mới nổi dậy chống Đông Ngô, Triệu Thị Trinh bèn đem quân ra giúp anh mình, lúc này quân dân tôn bà làm Nhụy Kiều Tướng Quân, bà làm Chủ Soái thống lãnh ba quân đánh với quân Tàu hơn 6 tháng, vì thế cô bà bị vây ở xã Bồ Điền, và tự tử chết tại đây. Về sau Nam Đế nhà Tiền Lý khen Bà là người trung nghĩa sai lập miếu thờ tại xã Phú Điền huyện Mỹ Hóa tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
Qua 2 cuộc khởi nghĩa của 2 Bà Trưng, Bà Triệu, cho ta thấy trong dân gian kính trọng người phụ nữ như thế nào, lúc nào cũng tôn lên làm Soái Tướng hoặc là vua, vì xã hội trong thời này vẫn còn duy trì phong tục "mẫu hệ", lòng người kính trọng người phụ nữ hơn.
3- Nhà Tấn. (265cn-420cn). Sau khi bình định được thế Tam quốc (Lưu Bị, Tôn Quyền và Tào Tháo, Tư Mã Chiêu, con Tư Mã Ý, lên làm vua lập lên nhà Tấn). Trong thời kỳ nay vì bên Tàu loạn lạc tình hình nhà Tấn không được ổn định giặc giả khắp nơi, bởi thế ở Giao Châu tùy vào các quan Thái Thú, đời sống dân gian vẫn bị hà hiếp khổ cực.
Thời đó nước Lâm Ấp (Chiêm Thành) thường hay quấy nhiễu Giao Châu, quan quyền chỉ lo việc chống ngoại xâm, năm 420 Đỗ Tuệ Đô cử binh bình định Lâm Ấp, nhưng đối với dân Giao Chỉ sự cai trị của nhà Tấn cũng như các thời Đông Hán Đông Ngô, quan lại tham ô hà hiếp dân lành, dân tình khổ sở loạn lạc khắp nơi. Lúc này bên Tàu được phân quyền cai trị bởi Nam-Bắc Triều.
4- Nam Bắc Triều. (420cn-588cn). Nhà Tấn thua, Nam-Bắc triều thay thế, năm 433 vua Lam Ấp Phạm Dương Mại viện lý do đem lễ vật sang tấn cống nhà Tống và xin cai trị Giao Châu, vua Tống không bằng lòng, bởi vậy quân Chiêm Thành thường đem quân sang cướp phá quấy nhiễu Giao Châu. Năm 479 nhà Tống mất, nhà Tề kế nghiệp trị vị được 22 năm thì nhà Lương lên thay, nhà Lương sai Tiêu Tự làm Thứ Sử Giao Châu, Tiêu Tự tàn ác hung bạo khiến đời dân khổ sở, thời này có ông Lý Bôn (Lý Bí) thấy bất bình nổi lên đánh nhà Lương.
* Lý Nam Đế (544-548). Lý Bôn người Tàu sống ở Giao Châu 7 đời nổi lên diệt Tiêu Tự, lãnh đạo dân quân địa phương chống lại nhà Lương, chỉnh sang mọi việc, tính cơ nghiệp lâu dài, năm 543 Lâm Ấp sang cướp phá, ông sai Phạm Tu vào đánh tại Cửu Đức (Hà Tĩnh), quân Lâm Ấp thua chạy. Năm 544 ông tự xưng là Nam Việt Đế lấy quốc hiệu là Vạn Xuân. Năm 545 nhà Lương đem quân sang đánh, Lý Bôn bỏ chạy về đất Phong Châu (Vĩnh Yên), cầm cự hơn 1 năm ông trao binh quyền cho Tả Tướng quân Triệu Quang Phục, ông trở về Khuất Liêu ở mãi đến năm 548 ông mất.
* Triệu Việt Vương (548-557). Triệu Quang Phục được tin Lý Bôn mất, lúc này bên Tàu nhà Lương đang loạn, Triệu Quang Phục thừa thế đánh đuổi quân Lương chiếm thành Long Biên, tự xưng Triệu Việt Vương, còn anh của Lý Bôn là Lý Thiên Bảo và người bạn cùng họ Lý Phật Tử bị quân Lương đánh bại chạy sang đất Lào đóng ở động Dã Năng xưng là Đào Lang Vương lấy quốc hiệu là Dã Năng.
Nhận định:
Tình cảnh này tựa như Hồ Chí Minh sống tại hang Pác Bó ở Lào, nước có loạn thì chạy ra nước ngoài chiêu tập cần vương, Như vua Bảo Đại, tình hình 1954 không yên thì Bảo Đại chạy qua Pháp để điều hành Quốc Gia Việt Nam. Như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Miền Nam chưa mất thì rời bỏ Việt Nam chạy ra nước ngoài lánh nạn, chẳng khác gì tên lính đào ngũ, riêng Ông Thiệu tôi đã trình bày, Ông là người đâm sau lưng chiến sĩ VNCH, là tên Việt cộng nằm vùng, Ông có ý định tiêu diệt SĐ-22BB và SĐ-23BB trong lần rút quân khỏi Tây Nguyên và mưu toan giết Tướng Ngô Quang Trưởng trong lần rút quân QĐI khỏi Vùng I Chiến thuật cuối tháng 3/1975, Ông tự điều động QĐIII thay thế nhân sự QĐII mới thua trận từ Vùng II Chiến thuật trở về để dàn xếp một cuộc ám sát Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó QĐIII, mở đường cho Việt cộng tấn công vào Sài Gòn, đồng thời gây hoang man cho Vùng III và Vùng IV Chiến thuật bởi sự giải tán Chính Phủ Trần Thiện Khiêm trong đầu tháng 4/1975, và sự ra đi của Thiệu-Khiêm-Quang trong ngày 25/4/1975 là một báo hiệu cho nhân dân Miền Nam Việt Nam rối loạn, làm điều kiện tốt để Việt cộng tấn công. Các ngài HCM, Bảo Đại, Thiệu là họ người Hoa ư.
Năm 555cn (năm thứ 7 Triệu Việt Vương) Lý Thiên Bảo mất, không có con binh quyền về tay Lý Phật Tử.
* Hậu Lý Nam Đế. (571-602). Sau 2 năm Lý Thiên Bảo mất. Năm 557 Lý Phật Tử đem binh đánh Triệu Việt Vương, đánh nhau mấy trận không phân thắng bại Lý Phật Tử cầu hòa, Triệu Quang Phục nghĩ tình họ Lý nên chịu hòa thuận lấy Bãi Quân Thần (làng Thượng Các huyện Từ Liêu) làm giới hạn, còn gả con gái cho Lý Phật Tử để thông gia với nhau, (Trong giai đoạn từ năm 557 đến năm 571, dân Việt chịu bởi 2 thế lực, Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử, nhưng dân vẫn sống trong hòa bình). Năm 571 Lý Phật Tử thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương, Triệu Quang Phục thua chạy đến sông Đại Nha (Nam Định) tự tử, sau này dân kính mến lập đền thờ Ông Triệu Quang Phục ở Đại Bồ huyện Đại An để nhớ ơn. Lý Phật Tử xưng vương, người đời gọi là Hậu Lý Nam Đế (571-602) đóng đô ở Phong Châu, sai Lý Đại Nguyên giữ Long Biên, sai Lý Phố Đĩnh giữ Ô Diên. Năm 602 bên Tàu nhà Tùy bình định Nam Bắc triều xong, đem quân qua đánh Nam Việt, Lý Phật Tử xin hàng và chịu thần phục như xưa. Từ đây, Giao Châu thêm 336 năm đô hộ của phương Bắc.
Nhận định.
* Như ta nhận thấy từ đời vua Hùng Vương, cuộc sống dân gian theo mẫu hệ, rồi từ thời An Dương Vương đến giòng họ Triệu Đà (257 tcn-111tcn) 146 năm theo phụ hệ, như vậy người Việt thật sự theo hệ nào trong đời sống dân gian? Đọc qua 2 thời kỳ Bắc thuộc đầu tiên ta thấy, lần thứ I Bắc thuộc người lãnh đạo đánh Tàu là 2 Bà Trưng (40-43), lần thứ II Bắc thuộc là bà Triệu Thị Chinh mà ta quen gọi là Bà Triệu đem binh ra giúp anh là Triệu Quốc Đạt lại được toàn quân tôn làm "Nhụy Kiều Tướng Quân" thống lãnh toàn quân đánh Tàu, điều đó cho ta thấy, thời đó (248) uy quyền của phụ nữ rất cao trong xã hội như trong gia đình Triệu Quốc Đạt có vợ hung tàn độc ác khiến Bà Triệu tức giận giết chị dâu rồi vào rừng mộ binh đánh Tàu, sự kiện này đủ nói lên trong đời sống dân gian người Việt thời này vẫn theo mẫu hệ. Vậy ta nên đặt câu hỏi trong thời Thục Phán và Triệu Đà có thực là người Việt không? Vì 2 triều đại này vẫn theo phụ hệ khác với đời sống của dân Lạc Việt.
* Trong thời Tiền Lý (544-602) tính ra ta có 58 năm độc lập, nhưng vì sự tranh quyền của 2 tên bất tài Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử (giặc đến đánh thì chạy, khi đất nước yên thì về dùng thủ đoạn tranh quyền), cuối cùng Lý Phật Tử phải xin hàng nhà Tùy để được an nhàn khi quân Tùy đem binh sang đánh Nam Việt, những người như Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử trong thời nào cũng có, làm sao ngăn chận được bọn này, lúc đó nước Việt Nam mới tránh được chiến tranh, dân mới thật sự có thái bình.
-C- Bắc thuộc lần thứ III. (603cn939cn).
1- Nhà Tùy (589-617). Vua Tùy biết được nước Lâm ẤP có nhiều vàng bạc, nên năm 605 vua Tùy sai Lưu Phương sang đánh, Lưu Phương bày mưu thắng đoàn quân hùng hậu có nhiều voi rừng của vua Lâm Ấp Phạm Phạm Chí tại sông Đồ Lê, Lưu Phương thắng trận và được nhiều vàng bạc châu báonhưng cuối cùng Lưu Phương cũng bị bạo bệnh mà chết trên đường rút binh về nước.
2- Nhà Đường (618-907)
Nhà Tùy bị diệt, Lý Nguyên thống nhất Trung Hoa lập lên nhà Đường, năm 621 sai Khâu Hòa làm Tổng Quản cai trị Giao Châu, chia nước ta thành 12 châu để cai trị, luật lệ khắt khe và nghiêm ngặt hơn các triều đại trước, bởi thế đời dân rất khổ cực vả lại giặc cướp nổi lên khắp nơi từ Lâm Ấp, Hoài Vương (1) Nam Chiếu (2) giặc bể (3) thường đem binh tới giết hai dân Việt, đời dân càng khổ thêm, cho nên dân ta thường bị các quan lại Tàu bắt làm nô lệ trong các đoàn quân đi dẹp loạn. Từ năm 864 nước Nam Chiếu thường qua Giao Châu cướp phá, quan lại địa phương không ngăn chận được, bắt đầu năm 860 Nam Chiếu đưa quân qua chiếm đất, nhà Đường có cho quân qua đánh nhưng khó thắng được quân Nam Chiếu, mãi đến năm 865 nhà Đường cử Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ và thống lãnh toàn quân, mới đánh lui quân Nam Chiếu (866) ra khỏi Giao Châu. Cao Biền là tướng tài nhà Đường làm Tiết Độ Sứ An Nam, ông giỏi về quân sự, có tài văn chương, tinh thông địa lý, ông chỉnh đốn mọi việc ở Tinh Hải (sau khi hàng phục được Nam Chiếu nhà Đường đổi An Nam là Tinh Hải), sửa đổi thuế khóa xây đồn đấp lũy ở biên thùy, khai phá ghềnh thác chỉnh trang thủy lợi, xây thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch, trị dân có phép, người dân rất kính nể, thường gọi ông là Cao Vương, năm 875 ông được triệu hồi về làm Tiết Độ Sứ ở Tây Xuyên và cháu của ông là Cao Tần làm Tiết Độ Sứ Tinh Hải.
Chú thích:
* (1) Lâm Ấp và Hoài Vương là nước Chiêm Thành sau này, thời Tùy Phạm Phạm Chi là vua Lâm Ấp, đến đời nhà Đường vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê, Phạm Đầu Lê mất, con là Phạm Trấn Lang lên thay cũng bị giết, dân trong nước lập con của bà cô (Phạm Trấn Lang có mẹ là họ Chư, nên em của mẹ thuộc dòng bên nội nên gọi là cô, đây là tập tục theo mẫu hệ, cho nên nguyên nhân Phạm Trấn Lang bị giết do bởi thế lực muốn dòng họ Chư lên nắm quyền triều chánh) là Chư Cát Địa lên làm vua, đổi quốc hiệu là Hoài Vương quốc, nước Hoài Vương đánh chiếm Châu Hoan và Châu Ai, năm 808 quân Đường đánh quân Hoài Vương lui về giữ phía Nam Quảng Nam Quảng Ngãi bây giờ, từ đây đổi là Chiêm Thành. Trong phần này ta thấy, con của em gái vợ Phạm Đầu Lê là Chư Cát Đạt, có nghĩa là mẹ và cô của Phạm Trấn Lang là họ Chư, (vì trong xã hội mẫu hệ Chiêm Thành, người làm vua vẫn mang họ cha), vì thế khi bà cô Phạm Trấn Lang lên tiếng đưa con là Chư Cát Địa lên làm vua thần dân đều ủng hộ và đổi quốc hiệu là nước Hoài Vương. Điều này Lạc Long Quân Sùng Lãm đã thấy rõ ngay từ đầu cái họa xã hội mẫu hệ khi người làm vua vẫn mang họ cha, nên đặt họ Hồng Bàng chỉ dành riêng vua Hùng Vương mà thôi, 821 năm cho một dòng họ làm vua mà đất nước không loạn lạc, chỉ duy nhất họ Hồng Bàng nước Văn Lang, là một Triều đại dài nhất trong các triều đại ở vùng Đông Á này.
* (2)Nam Chiếu: Các tộc Thái ở phía Bắc Việt Nam và Tây Bắc tỉnh Vân Nam Tàu gồm có 6 chiếu, chiếu có nghĩa là vua, Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đan, Thi Lãng, và Mông Xá, Mông Xá ở về phía Nam nên gọi là Nam Chiếu, Nam Chiếu thế rất mạnh chinh phục 5 chiếu khác và xin hàng phục nhà Đường, Nam Chiếu thường đem binh đi đánh Phổ Thồn (Tây Tạng) và Giao Châu. Sau này đổi tên là nước Đại Lý.
* (3) Giặc biển là nhóm người từ ngoài đảo Côn Lôn và đảo Đồ Bà thường vào Giao Châu đánh cướp dân làng.
*Mai Hắc Đế. (722)
Năm 722 ở Hoan Châu (Nghệ An) có Mai Thúc Loan nổi lên chống cự quan lại địa phương, chiếm được thành, xây thành đắp lũy, xưng là Mai Hắc Đế hợp với Lâm Ấp và Chân Lạp làm ngoại viện chống lại quân Đường. Vua Đường sai Dương Tư Húc và Quang Sở Khách sang đánh, vì thế cô nên bị thua mà chết, dân làng nhớ công ngài lập miếu thờ ở xã Hương Lãm huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An.
*Bố Cái Đại Vương. (791)
Năm 791 ở quận Đường Lâm (Sơn Tây) có quan đô hộ nhà Đường Cao Chính Bình tàn ác dân lành, bắt dân sưu cao thuế nặng lòng dân oán hận, ông Phùng Hưng nổi lên đánh bại Cao Chính Bình và chiếm được thành trì, chỉ vài tháng sau ông bị bịnh mà chết, con là Phùng An lên nối nghiệp cha. Tháng 7 cùng năm, nhà Đường cử binh sang đánh và dẹp yên. Dân gian tưởng nhớ công Phùng Hưng lập miễu thờ cúng gọi ông là Bố Cái Đại Vương. (bố nghĩa là cha, cái nghĩa là mẹ).
3- Đời Ngũ Quý (907-959)
Nhà Đường mất, bên Tàu chia ra Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu gọi là Ngũ Qúy hay Ngũ Đại, trong lúc này ở Giao Châu họ Khúc dấy nghiệp.
*Khúc Thừa Dụ (906-907)
Cuối đời Đường (906) các quan huyện vùng Giao Châu làm loạn, dân gian bất an, dân bèn đề cử Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ, ông là người phú hộ biết lo và giúp đỡ dân lành, vua nhà Đường cùng thuận phong ông làm đồng binh chương sư. Năm 907 nhà Đường mất nhà Lương lên thay, phong Lưu Ấn làn Nam Bình Vương kiêm tiết độ sứ Quảng Châu và Tinh Hải để cai trị Giao Châu, Lưu Ấn đóng phủ ở Phiên Ngung, trong năm này Khúc Thừa Dụ bị bệnh mất.
*Khúc Hạo (907-917)
Năm 907 Khúc Thừa Dụ mất con là Khúc Hạo lên thay, chỉnh đốn mọi việc và chỉnh sang việc thuế, cho con sang Quảng Châu làm thông hiếu nhưng cốt để thăm dò tình hình. Lưu Ấn ở Phiên Ngung được 4 năm thì mất, em là Lưu Cung (Lưu Nham) lên thay, năm 911 Lưu Cung tự xưng đế lấy quốc hiệu là Đại Việt, mãi đến năm 917 đổi là Nam Hán.
Trong đoạn này (911-917) ta thấy Lưu Cung có ý đồ thống trị dân Việt, nên lấy quốc hiệu là Đại Việt, nhưng mãi đến năm 917 Khúc Thừa Mỹ không phục Lưu Cung, nên Lưu Cung đổi Đại Việt thành Nam Hán, đây là lối chính trị người Hán thường áp dụng. (không cần đánh để khuất phục đối phương, cũng như Triệu Đà khi dẹp yên nhà Thục sát nhập 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây làm thành Nam Việt. Chúng ta phải nhớ nước Văn Lang đã phân ranh rõ ràng từ thời Sũng Lãm Lạc Long Quân, Vùng Bách Việt đã hoàn về cho dòng họ Đế, cho nên năm 911 thấy Lưu Cung xưng đế lấy quốc hiệu là Đại Việt rồi thành Nam Hán (917).
*Khúc Thừa Mỹ (917-923)
Năm 917 Khúc Hạo mất, con Khúc Thừa Mỹ lên thay, nhận biết được ý đồ Nam Hán, nên nhận chức tiết độ sứ nhà Lương mà không thần phục Nam Hán. Năm 923 Nam Hán sai Lý Khắc Chỉnh Lãnh Bộ Binh Lý Tiến lãnh thủy binh cùng tiến đánh Giao Châu và diệt Dòng họ Khúc (Dòng họ Khúc tuy không xưng vương, nhưng đã 17 năm (906-923) cùng dựng Văn Lang để tránh họa Lưu Cung dòng hóa dân tộc Việt từ Đại Việt thành Nam Hán, ý đồ này chỉ có Khúc Thừa Mỹ nhận ra, như vậy họ Khúc có phải là người Việt không?
Đây nói lên tính thông minh của Khúc Thừa Mỹ nào ai biết được.
Sử rằng chỉ có mấy câu.
Nào ai để ý biết đâu mà làm.
Ôi thôi sử qúa làm nhàm.
Người sau sao hiểu câu đàm sử gia.
*Dương Diên Nghệ và Kiều Công Tiễn (931-938)
Năm 931 Dương Diên Nghệ là tướng Khúc Hạo mộ binh đánh lại Lý Khắc Chỉnh và Lý Tiến, tự làm Tiết Độ Sứ Giao Châu, đánh được 6 năm Dương Diên Nghệ bị gia tướng là Kiều Công Tiễn giết và cướp lấy binh quyền, được tin cha vợ mất Ngô Quyền đem binh chinh phạt.
Trong giai đoạn này ta thấy Dương Diên Nghệ đã bắt đầu ly khai nhà Lương và tự lãnh đạo quân Giao Châu chống lại Nam Hán trong 6 năm liền. Đến đây chúng ta thấy có người nào họ Lê, Lý, Trần, Nguyễn nào đâu. Qua sử cho biết những người có quan niệm.
*Ngô Quyền phá quân Nam Hán (938-939)
Kiều Công Tiễn cầu Nam Hán giúp, quân Nam Hán chưa kịp đến Ngô Quyền đã bắt được Kiều Công Tiễn và giết. Vua Nam Hán sai con là Hoàng Thao lãnh thủy binh tấn công từ sông Bạch Đằng, Ngô Quyền dùng cọc gỗ lớn đầu bọc sắt cấm dưới lòng sông, chờ khi nước ròng Ngô Quyền tấn công, quân Nam Hán loạn vì thuyền tự nhiên bị chìm, Hoàng Thao bị loạn tên bắn chết trên sông Bạch Đằng.
Ngô Quyền Dựng Nước
Làm tướng quân giúp Dương Diên Nghệ.
Đánh Kiều Công Tiễn chạy bỏ cờ.
Nam Hán sai Hoàng Thao đến giúp.
Chờ nước ròng dụ địch tấn công.
Với cột gỗ trên đầu bọc sắt.
Dìm dưới sông gài bẫy quân thù.
Thuyền Hoàng Thao mắc mưu thụ địch.
Bị quân Quyền đánh chìm vô số.
Thao bị giết trên sông Bạch Đằng.
Thế là quân ta đà đại thắng.
Trong cái năm chín trăm ba chín.
Dân Việt ta giành lại chủ quyền.
Dựng lên nước Việt Nam độc lập.
Với Ngô Quyền rạng rỡ lừng danh
Đưa dân tộc đến chỗ vinh quang.
Không còn sống cuộc đời nô lệ.
Để đất nước thêm phấn rạng rỡ.
Dân tộc ta đời đời ghi nhớ.
Dân Việt ta giành lại chủ quyền.
Dựng lên nước Việt Nam độc lập.
Với Ngô Quyền rạng rỡ lừng danh
Đưa dân tộc đến chỗ vinh quang.
Không còn sống cuộc đời nô lệ.
Để đất nước thêm phấn rạng rỡ.
Dân tộc ta đời đời ghi nhớ.
Được Lời (LKC)
Thời đại độc lập
Nhà Ngô (939-965).
1- Tiền Ngô Vương (939-944).
Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán, bắt đầu nền độc lập cho dân tộc Việt, đóng đô ở Cổ Lao, năm 944 ông mất, được 47 tuổi, truyền ngôi lại cho con Ngô Xương Xí lên thay, nhưng cậu là Dương Tam Kha cướp ngôi lên làm vua xưng là Bình Vương. (945).
2- Dương Bình Vương (945-950)
Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu Ngô Xương Xí, Ngô Xương Xí biết được chạy đến Nam Sách (Hải-Dương) ẩn trốn tại nhà Phạm Lịnh Công, lúc này thổ hào các nơi cũng nổi lên khắp nơi chiếm vùng tự trị, Dương Tam Kha bắt em Ngô Xương Ngập (Ngô Vương Văn) làm con nuôi. Năm 950 ở Thái Bình (Tây Sơn) có loạn, Dương Tam Kha sai Ngô Vương Văn cùng 2 tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh đem quân đi dẹp loạn, đi đến Từ Liêm, Ngô Vương Văn cùng 2 tướng ngược trở về bắt Dương Tam Kha, nở tình cậu cháu Ngô Vương Văn không nể giết chỉ giáng xuống làm Trương Dương công.
3- Hậu Ngô Vương (950-965)
Năm 950 Ngô Vương Văn lên làm vua xưng là Nam Tân Vương cho người rước anh Ngô Xương Xí về cùng làm vua, Ngô Xương Xí xưng là Thiên Sách Vương, thời này gọi là Hậu Ngô Vương có 2 người cùng làm vua, nhưng chỉ vài năm sau Ngô Vương Văn đem quân đánh trận bị chết (loạn 12 Sứ Quân), chỉ còn Ngô Xương Xí làm vua 1 mình mãi đến năm 965 thì mất.
Qua đoạn sử này, chúng ta thấy dòng họ Dương lên ngôi vua, lý do vì được người chị (vợ Ngô Quyền) ủng hộ, nói lên trong thời đầu lập quốc, nước Việt ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của Xã hội mẫu hệ, bởi thế sinh ra loạn 12 sứ quân.
Thập Nhị Sứ Quân (945-967).
Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi vua của cháu (Ngô Xương Xí), khiến thổ hào nổi lên khắp nơi (945) tự dựng một vùng gọi là Sứ Quân, về sau Ngô Vương Văn khôi phục nghiệp cũ, các Sứ Quân vẫn không chịu thần phục, Ngô Xương Ngập phải lãnh binh chinh chiến liên tục bị chết tại chiến trường, Ngô Xương Xí làm vua một mình. Đất nước lúc này gồm có 12 Sứ Quân:
1- Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều, phủ Khoái Châu (Hưng Yên).
2- Đỗ Cảnh Đạt giữ Đỗ Động Giang, ở huyện Thanh Oai.
3- Trần Lãm tức Trần Công Minh giữ Bố Hải Khâu (Kỳ Bố Thái Bình).
4- Kiều Công Hãn tức Kiều Tam Chế giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5- Nguyễn Khoan tức Nguyễn Thái Bình giữ Tam Đài (phủ Vỉnh Tường).
6- Kiều Thuận tức Kiều Lịnh Công giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê Sơn Tây).
7- Ngô Nhật Khánh tức Ngô Lãm Công giữ Đường Lâm (Phúc Thọ Sơn Tây).
8- Lý Khoe tức Lý Lang Công giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
9- Nguyễn Thủ Thiệp tức Nguyễn Lịnh Công giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
10- Lữ Đường tức Lữ Tả Công giữ Tề Giang (Văn Giang Bắc Ninh).
11- Nguyễn Siêu tức Nguyễn Hữu Công giữ Tây Phù Liệt(Thanh Trì Hà Đông).
12- Phạm Bạch Hổ tức Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu (Hưng Yên).
Nhà Đinh (968-980)
*1- Đinh Thiên Hoàng(968-979)
Đinh Bộ Lĩnh là người Hoa Lư Động (Ninh Bình), con ông Đinh Công Trứ làm quan Thứ Sử dưới thời Dương Diên Nghệ và thời Ngô Quyền Vương, đến đầu Trần Minh Công (Trần Lãm), Trần Lãm tin dùng và giao giữ binh quyền, sau Trần Lãm mất, ông chiêu mộ thêm binh mã, hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, năm 951 thời Hậu Ngô Vương Văn có đem binh sang đánh với Đinh Bộ Lĩnh nhưng không thắng được, năm 965 Ngô Vương (Ngô Xương Xí) mất, Đinh Bộ Lĩnh hàng được Phạm Bạch Hồ (Phạm Phòng Át), phá được Đỗ Cảnh Thạc và các sứ quân khác đều thần phục, được tôn là Vạn Thắng Vương. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh Vạn Thắng Vương lên ngôi Đinh Thiên Hoàng quốc hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện lập chế triều nghi, định phẩm hàm các quan văn võ trong triều, phong Nguyễn Bắc làm định quốc công, Lê Hoàn làm thập đạo tướng quân, Đinh Liễn làm Nam Quốc Vương. Năm 970 đặt niên hiệu là Thái Bình nguyên niên, đặt năm ngôi Hoàng Hậu, trong lúc này bên Tàu Triệu Khuôn Dẫn đã lên làm vua lập lên nhà Tống (sau này gọi là Bắc Tống) đem quân xuống đánh Nam Hán, Đinh Thiên Hoàng muốn tránh việc chiến tranh bèn làm thông hiếu (thuận việc triều cống) với nhà Tống, bên trong tổ chức lại quân cơ phòng địch tấn công, tổ chức quân đội thành 10 đạo mỗi đạo 10 vạn quân, trên thực tế nhà Đinh chỉ có 10 vạn quân đều dưới sự thống lãnh của tướng quân Lê Hoàn. Đinh Thiên Hoàn bỏ trưởng lập ấu, cho con út Hang Lang làm thái tử, con trưởng Nam Quốc Vương Đinh Liễn bày mưu giết Hang Lang. Năm 979 Đinh Thiên Hoàng và Việt Quốc Vương bị Đỗ Tích giết chết, đình thần bắt được Đỗ Tích trị tội và tôn Vệ Vương Đinh Tuệ làm vua. (Tục truyền Đỗ Tích nằm chiêm bao thấy sao trên trời rơi vào miệng, tưởng mình có mạng làm vua nên Đỗ Tích chờ dịp Đinh Thiên Hoàng say rượu ngủ mê rồi ra tay giết vua và giết cả Việt Quốc Vương Đinh Liễn, nhưng khi ta đọc tiếp sự tình ở sau ta thấy rõ: đây là âm mưu của Lê Hoàn và bà Dương Thái Hậu, vì 2 người đã tư tình với nhau). Lúc xưa sử chép là thế, nhưng ngày nay chúng ta có nhận xét gì không? Một vì vua thông minh như Đinh Bộ Lĩnh cùng Đinh Liễn lại bị giết bởi tên Đỗ Tích vô danh này, trong khi đó Lê Hoàn là Đại Tướng quân nhà Đinh lại tư thông với Hoàng Hậu họ Dương, dòng họ có thế lực nhất từ thời Ngô Quyền, cũng bởi cái quyền của phụ nữ trong thời buổi này, xã hội mẫu hệ, nên Hoàng Hậu họ Dương trao quyền lãnh đạo quốc gia cho Lê Hoàn.
Kẻ dâm ô tục tằng có chước.
Bày mưu gian hãm hại Minh Quân.
Người đời đâu hiểu rõ chân tình.
Bởi sử viết theo lời Bạo Chúa.
*2- Phế Đế (979-980).
Đinh Thiên Hoàng mất Đinh Tuệ lên làm vua mới có 6 tuổi, mọi việc triều chánh đều ở trong tay Dương Thái Hậu và Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn, Lê Hoàn cùng Dương Hậu tư thông từ lâu, nhầm lúc bên Tàu nhà Tống đem quân sang đánh, quân Tống gần đến biên giới Lê Hoàn sai Phạm Cự Lương làm Đại Tướng đánh giặc Tống, trước khi xuất quân Phạm Cự Lương tôn Lê Hoàn lên làm Hoàng Đế để khích lệ lòng quân, cả đoàn quân đều tung hô ủng hộ, Dương Hậu bèn đem ấn tín áo mão của Đinh Thiên Hoàng trao cho Lê Hoàn, thế là Đại Cồ Việt mất, Đại Việt có triều đại mới, trong lịch sử ta gọi đây là Tiền Lê. Như vậy nhà Đinh làm vua được 12 năm.
Tình thế gấp kẻ khôn tạo thế.
Lấy thông minh che lấp gian tà.
Đời lẫn lộn thế cuộc gian manh.
Bưng bít mãi triền miên sử sách.
Nhận định
A- Trong 2 triều đại Ngô-Đinh, 2 ông vua đầu đều có vợ là họ Dương, trong thời vua Ngô, Dương Tam Kha em vợ của vua cướp ngôi vua của cháu mới gây nên loạn 12 Sứ Quân, trong thời vua Đinh Thiên Hoàng có vợ cũng họ Dương tư thông với Lê Hoàn, bày ra chuyện Đỗ Tích nằm mơ mình sẽ là vua rồi bày mưu sự giết vua, sau đó Lê Hoàn lên ngôi vua với danh chánh ngôn thuận là vua chân chính do toàn quân đưa lên.
Nhưng ngày nay với nhận xét của chúng ta đều thấy sự kiện này đều có liên quan đến người vợ họ Dương, cho ta thấy được trong thời đại này người phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng đến quan niệm của một xã hội mẫu hệ, và cũng chính từ "xã hội mẫu hệ" sang "xã hội phụ hệ", đấng chính trị "mày râu" đưa lên chiêu bài "ngàn năm nô lệ Tàu" để được sự ủng hộ toàn dân, rồi sau đó vẫn ung dung đón nhận tư tưởng Tàu để cai trị dân mình, chẳng qua là "nồi cũ chỉ dùng mới", "phép vua thua lệ làng" là hình thức phong kiến của người Tàu ngày xưa, đạo "trung hiếu" là tư tưởng gầy nên "chính quyền quân chủ độc tài". Sao chúng ta không nghĩ lại thời lập quốc của nước Văn Lang.
B- Họ Hồng Bàng là một thể chế chính trị được đặt ra bởi Sùng Lãm trong một xã hội theo mẫu hệ, vì trong xã hội mẫu hệ con sinh ra phải mang họ mẹ, người mẹ có nhiều ưu thế trong gia đình, trong xã hội mẫu hệ người nam rất quý trọng người nữ, nhưng trong lãnh đạo quốc gia vẫn thuộc về người nam, dân tộc Việt Nam ta có Kinh Dương Vương Lộc Tục, vua thứ nhì là Lạc Long Quân Sùng Lãm, nếu cứ thế mà tiếp tục thì ta sẽ có nhiều họ khác nhau trong các đời vua kế tiếp, như thế triều đại dễ bị sụp đổ bởi quyền của người mẹ, muốn củng cố cho triều đại lâu dài, nên Sùng Lãm mới đặt luật lệ (luật lệ không thành văn), "người làm vua gọi là Hùng Vương có họ là Hồng Bàng", còn tất cả anh em khác vẫn theo họ mẹ, điều đó cho ta thấy triều đình chỉ có 1 người duy nhất điều hành đó là vua Hùng Vương, chính con đầu của Sùng Lãm là vị vua Hùng Vương đầu tiên mang họ Hồng Bàng, như thế Sùng Lãm không trái với luật xã-hội thời đó (mẫu hệ), đồng thời củng cố thể chế chính trị trong các đời vua kế tiếp.
"Luật được tôn trọng xã hội mới yên ổn". Sùng Lãm đúng thật một luật gia đầu tiên của Việt Nam. Bởi thế ta có thể nói họ Hồng Bàng chỉ có 18 vị vua Hùng Vương mới mang họ này mà thôi.
C- Chuyện 100 người con của Sùng Lãm và Âu Cơ, vì thời này dân tộc ta vẫn chưa có văn hóa, mọi sự việc đều do truyền miệng truyền đến đời sau, khi vừa sanh 100 người con Sùng Lãm nói với Âu Cơ "Ta là rồng nàng là tiên, thủy hỏa không hợp nên phải chia nhau, nàng dẫn 50 con lên núi ta dẫn 50 con xuống biển" lời nói đó cho ta thấy rõ chữ "Hòa" (thủy hỏa không hợp), 50 người con theo mẹ lên núi 50 người con theo cha xuống biển, cho ta thấy rõ chữ "Bình", núi và biển nói về thiên nhiên cho ta thấy sự yên tĩnh và tự nhiên của vũ trụ, nói rõ chữ "Thái" và chữ "Thanh", nói lên sự đời không mờ đục, không ẩn ý, không gian dối, mọi việc đều tỏ rõ và chân thành. Đây là tư tưởng của Sùng Lãm, đem quan niệm "Tam bình" trực tiếp vào cuộc sống để tạo đời sống thái hòa trong dân gian. Hình ảnh con vua sống cùng với dân gian gợi lên hình ảnh các quan lảnh đạo đều là anh em một nhà, để tránh việc tranh giành quyền lợi mà đánh lộn với nhau. Quan niệm Tam bình thực sự đem lại Thanh Bình, Hòa Bình Và Thái Bình cho dân tộc Việt trong suốt 18 đời vua Hùng Vương, tổng cộng 821 năm (1079tcn-258tcn) vẫn là đời vua lâu dài nhất kể cả các triều đại bên Tàu, nhờ có kỷ cương và luật lệ.
Những dòng lịch sử này và lời nhận định là quan điểm cá nhân người viết, chuyện lịch sử là chuyện chung của tất cả mọi người, xin tất cả chung góp bàn tay cùng xây dựng cho đất nước Việt Nam.
Được Lời (Liên Khôi Chương) Ngày 28-06-2014