Tình yêu thám hiểm những bí mật của con người. Không ở đâu người ta có thể hạnh phúc hơn hay tuyệt vọng hơn, hèn yếu hơn hay cao cả hơn, như trong tình yêu.
Kìa những ngày thơ rụng đỏ chân tường
Thơ Trần Dạ Từ là tình yêu thời mới lớn, say đắm vụng về, và tình yêu của người đứng tuổi, trải qua hoạn nạn, tù đầy. Đó là tiếng thơ giàu vần điệu, không có nhiều khai phá về ngôn ngữ; tuy vậy khả năng đào sâu của tác giả vào các đề tài tưởng như đã rất cũ, từ đó mở ra những ngã rẽ cảm xúc làm người đọc bất ngờ. Trong thơ Trần Dạ Từ có một nỗi buồn rầu, phiền muộn, như khái niệm blue của người Mỹ, mặc dù thế, thơ ấy không tuyệt vọng, than thở, bi lụy. Ngôn ngữ bám rễ vào đời sống thành thị, dân nghèo, tầng lớp cơ cực. Sự dằn vặt, lối nghĩ ngợi, phân vân, là tiêu biểu cho những người trẻ tuổi trong một xã hội tự do và lo âu, chứa mầm loạn lạc từ bên trong hoặc bên ngoài. Thơ ông như lời độc thoại có kịch tính, lời nói không hướng tới người đọc mà hướng tới một nhân vật nào khác, có mặt trong bài thơ hoặc ngoài bài thơ, đứng đâu đó trước mặt chúng ta. Ngôn ngữ ấy tìm cách ghi lại ký ức, phản ánh đời sống cùng thời, đời sống trí thức không chịu thỏa hiệp.
Thơ ca dạy ta cách vượt qua biên giới giữa bóng tối và ngày mới, giữa căm phẫn và thương xót, cách đi qua sự trống rỗng vô nghĩa của tồn tại, truy tìm những thực tại mới hay ý nghĩa của những thực tại ấy. Thơ Trần Dạ Từ, mặt khác, ca ngợi tình yêu, niềm vui vỡ òa lồng ngực của tuổi trẻ; có bài được phổ thành ca khúc nổi tiếng. Trong giai đoạn sớm, tính chất yêu đời và hồn nhiên của ông vẫn nổi bật hơn cả.
Được nén lại trong kích thước năm chữ, nhiều khổ thơ, "Mùa Ngô Cũ" là một trong những bài thơ trong sáng, dễ đọc. Trần Dạ Từ cũng có nhiều bài thơ tình khác, cùng thời, đôi khi ngôn ngữ khá cũ kỹ, rõ ràng do ông chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của thơ tiền chiến. Khi vượt qua được ảnh hưởng ấy, ông có những bài thành công hơn hẳn.
Rất sớm, tình yêu từ thời niên thiếu đã pha đậm tình dục, mạnh mẽ, cảm xúc, gần như điên rồ, trong bài thơ lục bát ngắn:
Thể xác ấy không chỉ ao ước tình nhân mà còn muốn ôm lấy cả đất trời, cùng bao thèm muốn khác. Da thịt tự cười, vì muốn xé toang giới hạn của chúng. Như thế là ông đã dùng cỏ cây để mô tả một thứ tình yêu ướt đẫm thể xác trước hay cùng thời với Bùi Giáng: cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao.
Tuy đã làm chủ các loại thơ vần điệu, nhưng thực ra chỉ ở thể tự do, thơ Trần Dạ Từ mới hoàn toàn sảng khoái, phóng túng, rào rạt.
Anh sẽ về, câu chuyện mùa thanh trà
Bài hát ấy nhắc anh thời có em (Thơ Tình Năm Tám)
Trần Dạ Từ làm thơ từ thời trẻ, khoảng những năm 1950, nhưng bút hiệu ấy chỉ xuất hiện cùng với những bài thơ tình đầu tiên từ năm 1957 trên bán nguyệt san Gió Mới do Nguyên Sa chủ bút, và từ năm 1958 trên tạp chí Sáng Tạo, Mai Thảo chủ biên. Sinh tại miền Bắc, Trần Dạ Từ là nhà thơ miền Nam thời chiến tranh hai mươi năm. Nửa đầu của những năm sáu mươi, thời kỳ miền Nam biến động, với chiến tranh lan rộng, cũng là lúc thơ ông thực sự đổi khác. Đó là thơ tuổi của hai mươi chấn động và nhập cuộc, không chỉ trên trang giấy mà còn trong đám đông. Những bài thời kỳ này tới sau nhưng được tập hợp in thành sách trước, trong tập "Tỏ Tình Trong Đêm", xuất bản 1965. Sách sau đó bị tịch thu vì tính chất phản chiến (1). Thơ của tuổi trẻ chiến tranh và bụi bặm thành phố.
Lời hát ru an lành từ nguồn cội nay bị đẩy sâu vào tình huống hoang tàn tang tóc của cuộc chiến:
Người đi qua đời tôi
Chúng ta có những ngày như vậy, mùa hè ríu rít chim chóc, mùa đông ảm đạm chết người, mùa thu lịm tắt, cỏ cây không hồi phục. Thơ tình Trần Dạ Từ như căn nhà, bếp lửa, cánh cửa sổ, ở đó bạn từng ngồi xuống giữa những người khác, trước mặt một người khác. Những bài thơ ngắn nén chặt, bạn không thể buông ra giữa chừng, như một thể thống nhất, giữa sự vật, thời gian đi qua nhanh như cắt khiến lịch sử không kịp hiện hữu. Khi thì như đứa trẻ lớn lên trên đường phố, dan díu, hóa thân.
Tường vôi trắng là hồn
Dù về sau tác giả làm thơ tự do nhiều hơn, lục bát Trần Dạ Từ vẫn là một dòng tươi tắn, mới lạ, tài hoa. Tình yêu như niềm vui thú: niềm vui của tình yêu là có thật, lớn lao, khó cắt nghĩa, bàng hoàng; nhận thức về nó đẹp như ảo giác. Trong các loại tình như tình mẫu tử, tình yêu bí nhiệm đối với đấng tối cao, tình huynh đệ, tình nhân loại, thì tình yêu nam nữ biến ảo nhất, bất ngờ, ngọt ngào, chua xót nhất, để lại dấu ấn lớn lao bậc nhất trong đời sống cá nhân.
Tiếng cười đâu đó giòn tan
Tình yêu như một công việc: sống là công việc khó khăn, sống trong tình yêu càng khó khăn. Những thử thách của chiến tranh, tù đầy, nghèo đói, các hoàn cảnh phi nhân tính, guồng máy bạo lực xấu xa, và các cá nhân độc ác quanh ta, thuộc đủ mọi lập trường, lúc nào cũng hiện diện. Thơ tình vừa ca ngợi tình yêu vừa chuẩn bị cho người đọc nỗi âu lo của các nhân vật, sự hoang mang, số phận đen tối của họ. Những người yêu nhau phải kết hợp để vượt qua nghịch cảnh, nhưng họ cũng phải vượt qua yếu đuối của chính họ, tan rã của chính họ.
Lần đầu ta ghé môi hôn
Đây là bài thơ tình nổi tiếng của Trần Dạ Từ, và, tôi nghĩ, một trong những bài lục bát hay nhất của mọi thời đại. Hình ảnh và giọng điệu di chuyển giữa lối kể chuyện và ca khúc; một câu chuyện thông thường, không có gì đặc biệt. Chỉ là mối tình đầu. Và tình đầu nào cũng tan vỡ, và khi nhớ lại bạn không thể nào hiểu tại sao nó tan vỡ. Tình đầu bao giờ cũng đẹp vì được bạn nhớ lại và vì nó đẹp thật. Một mối tình đẹp như thế phải được đặt trong bối cảnh thơ mộng hợp với lứa tuổi mới lớn. Cái tài tình của Trần Dạ Từ là ở đây: khung cảnh. Một khung cảnh giản dị, thuần phác. Có thể có người cho rằng đó là khung cảnh thuần túy nghệ thuật, không có thực. Điều thú vị là tất cả những cảnh được mô tả, trưa vàng, cỏ biếc, tiếng ve, đều là cảnh thông thường, dễ gặp trong một mùa hè nhiệt đới, không phải cảnh mai lan cúc trúc như trong thơ Đường, cũng không phải cảnh đượm màu giấc mơ:
Vùng cúc bên ngoài đọng dưới sương (Xuân Diệu)
Cũng không cách điệu như trong lục bát tiền chiến:
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng
Thơ Trần Dạ Từ, vào những năm khởi đầu của miền Nam, cố gắng vượt khỏi ảnh hưởng của thơ lãng mạn, chạm tới khuynh hướng hiện đại, nghiêng về tả thực, về một khuynh hướng ngôn ngữ giản dị và trực tiếp, khách quan. Trong toàn bài thơ, chỉ có một hình ảnh có vẻ không thật, nhưng lại được tác giả chỉ ra rõ ràng:
Trên môi ta, vạn đóa hồng
Đó là cách nói tượng trưng, hơn là hình ảnh của bài thơ. Câu thơ ấy thực ra không có gì đặc biệt, nhưng dễ được người đọc chấp nhận vì nó chủ ý nói về một tâm sự chứ không mô tả. Cái hay của toàn bài là sự mô tả sống động, mặc dù giản dị, các hình ảnh được lặp đi lặp lại, mở đầu và kết thúc cân đối, ngắn gọn mà miên man, vì gợi lên nhiều hoài niệm, khơi đúng mạch tình cảm nhiều người. Đó là cách đọc liên văn bản. Anh chỉ cần biết, đối với anh, tình yêu là mới, cái cầm tay là mới, môi hôn là mới.
Lần đầu ta ghé môi hôn
Vô thức tình yêu.
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Như vậy xúc cảm là mới nếu sự kết hợp hình ảnh là mới. Mới và chân thành. Dựa vào một nhạc điệu quen thuộc, lục bát Trần Dạ Từ sử dụng hình ảnh không xa lạ nhưng trong một kết hợp lạ, ít nhất là đến thời điểm ấy, và sự trở lại của nó ở đoạn cuối, vừa là sự kết thúc đẹp vừa là sự mở lớn chiều kích xúc cảm, nâng chúng lên. Sự đau khổ mà số phận mang lại còn chưa đến, những tình nhân hãy còn ngây thơ. Thế giới với ta là một. Chúng ta yêu nhau, trời đất yêu nhau. Chúng ta muốn hòa bình. Muốn bên nhau đời đời.
Hôn em trời đất một lòng chứa chan
Trời đất một lòng với chúng ta. Trời đất dung chứa chúng ta và được làm đầy lên bởi tình yêu của chúng ta. Nhưng rồi cũng như tất cả những mối tình đầu khác, tình yêu chỉ tự ý thức về mình khi nó không còn hiện hữu, như linh hồn nhìn ngắm lại cuộc hiện sinh của mình sau khi đã bay ngoài cõi.
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tự do của một đất nước cũng tự ý thức về mình như thế, một khi không còn nữa. Và hạnh phúc cũng thế. Tuổi thơ càng thế.
Nhưng thiên nhiên vẫn ở đó, tan nát rồi bền bỉ, bối cảnh tình yêu vẫn còn. Sức mạnh của ký ức mang chúng ta trở lại, giữa đất trời, trong đúng thứ phối hợp màu sắc như hội họa.
Trưa vàng, cỏ biếc, vườn xanh
Đây là sự sắp xếp lại câu lục trên kia:
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Chính sự tráo đổi các cặp chữ, trưa từ trước ra sau, vườn từ sau ra trước, gây ra ấn tượng xáo trộn thời gian, chuyển ngược kim đồng hồ. Chính nhờ sự chuyển dịch vừa tự nhiên vừa nhân tạo ấy mà thi sĩ gặp được người cũ của mình.
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa
Đỏ như vết thương.
Một bài thơ tình nở bừng bừng như phượng mà vẫn dịu dàng khiêm tốn. Đó là sự quan sát bị phân rã trong thời đại tối tăm, một tình nhân đứng đó giữa đổi thay thời thế, bơ vơ tìm dấu tình đầu như nguồn cội. Cảm giác được thấy lại lần đầu tiên sự bừng nở và lụi tàn của mùa hạnh phúc. Có sự giao thoa giữa giấc mơ và hiện thực, giữa quá khứ và hiện tại, sự tự vấn giữa sôi nổi thèm khát và hoài niệm. Trong vài trường hợp khác, có bước nhảy vọt giữa ý nghĩa này và ý nghĩa khác, hoặc giữa ý nghĩa và vô nghĩa:
Người đi qua đời tôi
Người đi qua đời tôi
Tình yêu của Trần Dạ Từ già hơn tuổi của mình, triết lý, suy nghiệm.
Người đi qua đời tôi
Đó là tình yêu bị đánh cắp. Cơn bão bên kia thành phố sắp tới. Thời gian không thuộc về chúng ta. Cuộc chiến tranh không thuộc về chúng ta. Mọi thứ ngoài tầm kiểm soát của tuổi trẻ, của thi sĩ. Ngay cả trong những bài thơ tình như bài này, âm điệu thì du dương, vì vậy đã được phổ nhạc, ngôn ngữ của ông vẫn cứ sắc bén. Sau khi thi sĩ nói xong, mọi người đều thấy đó là ngôn ngữ bình dân, dễ dàng, gần như ai nói cũng được, nhưng trước ông, không ai nói thế.
Không ai nói:
Người đi qua đời tôi
Không ai nói:
Mây mù lên mấy vai
Chưa ai từng nói:
Không nhớ gì sao người
Ngôn ngữ đằm thắm mà cứng cỏi, dồn nén mà bồi hồi. Sự thân mật trong thơ Trần Dạ Từ là đặc biệt. Sự thân mật: đó là khoảng cách giữa tác giả và người đọc, giữa người đọc và nhân vật văn chương. Mặc dù thoạt nhìn, thơ ông kín đáo độc thoại, không có giao tế, kịch, một ngôn ngữ thầm thì, nhưng đó là trò chuyện giữa hai người dưới ngọn đèn mờ tỏ, kể lại chuyện tình dưới đêm trăng, vết thương trong bùn lầy nước đọng, tội ác trong rừng, các biên giới mà thơ trữ tình muốn chạm tới. Giọng nói của người kể chuyện nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng, chi tiết, tỉnh thức, soi sáng, tự ý thức về mình, của một cá nhân vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ. Dù đôi khi tác giả chỉ nói về một sự vật thoáng qua, một kỷ niệm nhỏ.
Thủa làm thơ yêu em
Chiều sương dầy bốn phía
Thủa làm thơ yêu em
Anh đi rồi lại đến
Mười bảy năm chợt thức
Thương nhớ xảy ra trong khoảng cách. Khoảng cách càng lớn, trong không gian hay thời gian, thương nhớ càng tăng lên. Như vậy tình yêu trong Trần Dạ Từ là thương nhớ, nghĩ về, sống lại. Tình yêu ấy được sinh trở lại bởi khoảng cách, hoài niệm. Hoài niệm là đặt bạn vào vị trí ngoại biên và đối tượng được hoài niệm di chuyển về trung tâm. Thủ pháp nhân cách hóa được Trần Dạ Từ sử dụng thường xuyên, trở thành một trong những phương pháp chính yếu. Ngôn ngữ thơ là sự bắc cầu giữa vẻ đẹp và hiện thực mới, giữa vẻ đẹp và sự thất bại, giữa niềm đau có thật của tình y êu và mất mát có thật của chiến tranh. Một trong những lợi thế của phong cách trầm tư, độc thoại, với cấu trúc rộng mở, buông lỏng, như trong bài thơ Thuở Làm Thơ Yêu Em là các câu thơ nối vào nhau một cách liên tục nhưng không quá chặt chẽ, các hình ảnh có thể đảo ngược, thậm chí trật tự thời gian cũng có thể xáo trộn, nhưng câu chuyện ấy vẫn là câu chuyện được kể lại, tuy rời rạc, chắp nối mà vẫn chỉ có thể là của một người, và của người ấy mà thôi. Đó là nhờ giọng điệu âu yếm và lo âu. Lo âu nhưng không sợ hãi. Thật ra đó là một hình thức suy nghĩ về tương lai, sự tiên đoán về những sự kiện sắp xảy ra, nhu cầu định hướng trong một thực tại hỗn loạn của tình yêu và ly tán, của tội ác chống con người trong chiến tranh và sau chiến tranh, của sự nhầm lẫn giữa sự thật và gian dối. Tình yêu đầy âu yếm và xao xuyến là của một người hoàn toàn lành mạnh đi giữa những hoàn cảnh khắc nghiệt.
Năm suốt những con đường mưa giông
Bên kia âu lo là chờ đợi. Bên kia chờ đợi là hy vọng. Là giấc mơ hòa bình, và khi đã có hòa bình là giấc mơ tự do, vì đó là một nền hòa bình trong tù đầy. Thơ mô tả đời sống thực, hối hả xáo trộn, biến ảo khôn lường, nhịp đập của đời sống, sự vui thú, chán chường mệt mỏi. Cảm giác ngột ngạt nóng nảy của thời đại kinh hoàng, bóng ma chiến tranh ngày một tới gần, vừa đi qua, bạn vừa nhìn thấy nó. Sự nổi loạn ngấm ngầm, sự lạc đường. Khi ngôn ngữ thơ mô tả một tâm trạng lo lắng, một vết thương tình yêu, sức mạnh của chúng bộc lộ. Thơ Trần Dạ Từ viết ở thể hiện tại, mô tả sự vật trong vị trí di chuyển, đầy sức sống, hơi thở. Cái nhìn của nhà thơ bao giờ cũng là cái nhìn trở lại, nhận thức và nhận thức lần nữa, tình yêu là tình yêu lớn lên, gần như trưởng thành ngay ở tuổi nhỏ, điều ấy có liên quan gì đến cuộc đời riêng của tác giả hay không, những kinh nghiệm riêng tư, có lẽ không ai biết. Mặc dù ngôn ngữ thơ ông trong sáng, không phải bài nào đoạn thơ nào cũng được thế, không phải vì chúng khó hiểu mà vì chúng gợi lên những góc khuất, riêng tư đến nỗi mọi diễn dịch tùy thuộc ở người đọc.
Tuổi trẻ đi qua một lần, một lần thôi
Một bài thơ trở nên khó hiểu khi nó quay lưng với người đọc. Hoặc vì sự quay lưng ấy là cần thiết cho người đọc hoặc vì cần thiết cho chính nó. Những bài thơ thế sự của Trần Dạ Từ chua chát, buồn rầu, là những câu mô tả ngắn gọn, một nghệ thuật làm thơ hiện đang bị bỏ quên. Mỗi chi tiết của bài thơ đều hướng về phía kết thúc hoặc nhằm tạo dựng một không khí, như thể bài thơ là ngôi nhà. Tập thơ "Tỏ Tình Trong Đêm", giữa những cuộc đảo chính, một xã hội phân rã, trước ngọn lửa chiến tranh dâng cao, là một lời "tỏ tình" kiểu khác. Của một tình yêu già trước tuổi.
Suy nghiệm triết lý đầy chất thơ. Sự trao đổi vị trí giữa nhà thơ và sự vật, cảnh vật bên ngoài hóa thành tâm cảnh và ngược lại, tôi biến thành em và em biến thành tôi.
Cho tôi xin nửa bóng trăng ngoài
Trong giai đoạn sau của miền Nam, chúng ta thấy sự mất cân bằng trong ngôn ngữ thơ thời ấy. Trần Dạ Từ nhắc đến mặt trời, mùa hè, mùa nắng, bông phượng, con đường, hè phố, chân tường, sự lấp lánh, và chúng không phải là những vật trang sức mà chính là linh hồn của thế giới mà ông đi qua, đẹp nhưng sẽ mất. Những hình ảnh ấy được sắp xếp sao cho chúng làm nổi bật lên nhân dáng khốn khổ của tác giả hay của bạn bè, cùng giai đoạn. Thơ ông là ánh sáng và bóng tối, ánh sáng của quá khứ và bóng tối của tương lai. Nỗi trầm tư trong thơ ông không phải là triết lý siêu hình mà là phản ứng tất nhiên của người trí thức trước một thời đại, là sự tra vấn của nhà thơ đối với lương tâm mình. Đó là sự chuyển hóa các tình huống khách quan thành điều kiện tâm lý, là sự lý giải trật tự của đời sống, bằng bước đi của cá nhân. Lịch sử dân tộc là tập hợp tổng thể các tính cách cá nhân. Là cuộc huynh đệ thương tàn, sự phá hủy của những giá trị dân tộc.
Tặng cho em cuộc chiến hung tàn
Nhiều năm sau, sau cuộc đổi đời của dân tộc, từ trong tù đầy, Trần Dạ Từ viết nhiều bài thơ mới, như "Hòn Đá Làm Ra Lửa" (3). Thật ra đây không phải là lần đầu tiên Trần Dạ Từ phải đi tù và làm thơ trong tù. Thời 1963, Đệ Nhất Cộng Hoà, ông đi tù trong vài tháng, còn sau 1975, hơn mười hai năm. Trong năm 1963 ác liệt, ông viết những câu thơ dũng cảm, làm rung động lòng người:
Nửa đêm nàng bị bịt mắt dẫn về đó
Tình yêu là cách nhìn ra bên ngoài, là cách sống giữa thiên nhiên, nhưng trong thơ ông, đó cũng là nhìn vào bên trong, sự trở lại, đầy dũng cảm. Tình yêu là trở lại. Làm thế nào để một người có thể vượt qua thời gian, đi tìm tuổi thanh xuân? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong, sống lại chính đời sống của mình, kéo dài đời sống ấy. Trước cái đẹp, trước hoài niệm, trước nỗi buồn, con người trở nên khiêm tốn. Con người khiêm tốn hơn trong tình yêu thương. Thì ra khiêm tốn chỉ sinh ra từ sự kính trọng đối với người khác, và sự kính trọng đối với người khác sinh ra trong một bầu khí quyển tự do. Sự gắn bó của tâm hồn vào những mất mát làm tăng thương tổn và cùng thời làm tăng cái đẹp, sự dũng cảm.
Ném lên. Ném lên. Ném lên nữa
Tấm lòng. Ôi Việt Nam (Tấm Lòng Phan Rang) (4)
Tình đồng bào.
"Hòn Đá Làm Ra Lửa" là một bài thơ dài hơn, có thể gọi là trường thi hay trường ca. Một bài thơ nhân chứng, một bài thơ tình, kiểu khác. Mạnh mẽ, đau xót, nhưng trầm tĩnh. Giọng điệu của tác giả thay đổi, khi lạnh lùng khách quan, khi nghĩ ngợi, khi hài hước châm biếm, khi ân cần thương cảm. Cấu trúc của bài thơ là cấu trúc mở, gồm những mặt phẳng liên tiếp cắt ngang. Lịch sử các nhà thơ không thể tách rời khỏi lịch sử của những thứ sau đây: một xã hội tự do, một đất nước chiến tranh, sự sụp đổ, sự đàn áp. Dù vô tình hay với ý thức rõ rệt, các nhà thơ thuộc thế hệ Trần Dạ Từ tích hợp thể thơ trữ tình cá nhân, bắt nguồn từ truyền thống lãng mạn tiền chiến nhưng táo bạo đi xa hơn, tách ra, đôi khi như sự nổi loạn, đôi khi chỉ là sự tiếp tục dấn bước, với một ngôn ngữ trực tiếp, dũng cảm, rách xé, rời rạc, phẫn nộ, lo âu, có tính chất phê phán, đặc trưng cho một thời đại tan vỡ.
Hòn đá cổ sơ đen đúa của ta
Trong mắt. Trong cổ. Trong ngực em
Tình yêu là tự do vượt khỏi ràng buộc nghi lễ, truyền thống. Hơn thế nữa, vượt khỏi những khổ đau bí mật và những bất hạnh bị chính ta đè nén do định kiến và quy ước. Tình yêu không phải là mục đích tự thân mà là hành trình, và chính trong hành trình ấy mà tình yêu nảy nở, trở nên bền vững.
Có thể chúng ta sẽ sống sót. Sẽ trở về
Em hay người nữ trong thơ Trần Dạ Từ là chủ đề đặc biệt. Trong những bài thơ viết về sau, người nữ là vợ, là mẹ, là người đàn bà tri âm tri kỷ của tác giả. Tình yêu là hôn nhân. Hôn nhân là sự mất mát, bất hạnh, chia lìa, nhưng cũng là niềm tin, cứu rỗi, là cái còn lại sau cùng của ý chí tự do. Như vậy hôn nhân là thiêng liêng, tình yêu là nơi nương tựa. Nhưng người nữ ấy cũng trôi giạt, long đong như bao số phận khác, vì vậy đó còn là lo âu. Thơ ông là thơ về nỗi lo âu, triền miên, ám ảnh.
Tôi không biết giờ này em ra sao
Trần Dạ Từ sử dụng một từ vựng không lớn trong các bài thơ tình, nhưng khi chuyển sang làm thơ thế sự, đặc biệt những bài viết trong tù, ông sử dụng nhiều hơn các chữ ít dùng trước đó, trần trụi, đời thường, thậm chí gai góc dữ dội. Đen đúa, sần sùi, không đáng một xu, quạ không thèm mổ, kiến không thèm bu, em đã nhe răng, ăn nhằm gì, rôm rả, nước miếng ứa, chẳng hề hấn gì là những chữ chúng ta gặp trong thơ ông giai đoạn sau. Chính sự cần thiết của việc bày tỏ, giao tiếp, của sự mở một cánh cửa mà có việc sử dụng một ngôn ngữ đời thường đến thế, dân gian, mãnh liệt, hài hước và khinh mạn, có sự bất cần và phản kháng đến thế. Các nhà thơ tài năng sử dụng ngôn ngữ trần tục khi cần thiết. Hơn thế, ngoài những nghĩa thông thường có thể tìm thấy trong từ điển, chữ trong thơ Trần Dạ Từ có ý nghĩa riêng, tạo cảm xúc riêng, hồi ức riêng, những tham chiếu khác nhau ở người đọc khác nhau. Dù vậy, chữ của ông không mang lại cảm giác mơ hồ, phân vân (ambiguity) như một số nhà thơ khó đọc khác. Thơ ông dễ hiểu, khá giản dị, gần như trong sáng, trong nhiều đoạn, nhiều bài. Nhiều chữ trong thơ có thể giãn nở, nới rộng để bao gồm nghĩa khác cho những văn cảnh khác. Giọng điệu có tính tuyên bố, biểu hiện, trực tiếp, nhưng vẫn không thô ráp, đó là nhờ sự tinh tế.
Tôi sẽ sửng sốt nhìn. Sẽ thật thà mô tả
Thơ hy vọng giữ lại giây phút của lịch sử, đóng đinh các số phận lên bức tường ký ức, làm cho người chết sống lại, làm cho trí tưởng tượng trở thành phương tiện duy nhất của con người vượt khỏi hoàn cảnh phi nhân. Sự thương tiếc mà thơ ca mang lại mở ra mối tương thông giữa nhà thơ và thế giới bên ngoài, kéo dài sự sống sót của một nền văn hóa qua khỏi ngọn lửa bạo động, chống lại hủy diệt, thắp một ngọn đèn nhỏ bên cửa sổ, cuối đường. Xã hội miền Nam, dưới một chế độ nay đã hoàn toàn biến mất, ngày ấy trong chiến tranh, đầy những khiếm khuyết, những âm mưu, những lầm lỗi, vẫn là một nền dân chủ đang hoàn thiện, vẫn là một xã hội có tính chất dân sự cao nhất cho đến nay, chưa hề được đánh giá một cách công bằng, thì nay đã được thơ ca nhìn nhận lại.
Thơ ấy là một loại thơ nhân chứng được viết trong hoàn cảnh bi đát, cá nhân, trực tiếp, với góc nhìn cận cảnh, với ngôn ngữ giản dị và mỉa mai, tự tin và ngậm ngùi, trong một ý thức sáng rõ mà dịu dàng. Nếu so sánh thơ viết sau này với những bài thơ trước đó, Trần Dạ Từ là một trong những người viết thực sự thay đổi bút pháp. Nếu Thanh Tâm Tuyền từ sở trường thơ tự do trở lại với thơ cổ điển có vần, chẳng hạn, thì Trần Dạ Từ thay đổi theo hướng ngược lại, những bài thơ trong tù một số lớn được viết dưới thể tự do, hoặc có vần nhưng âm điệu phóng khoáng. Sự va đập dữ dội của hiện thực, sự tan vỡ của những niềm hi vọng vào một tương lai tự do, sự đàn áp, săn đuổi, để lại dấu ấn rất sâu trong thơ Trần Dạ Từ. Khác với nền thơ có phần hư vô, chán nản, ít chịu trách nhiệm trước đây ở miền Nam, thơ ông sau này là tiếng nói dõng dạc, kẻ đứng thật trên đôi chân của mình trước giông bão. Trong tiếng gào thét của xã hội mới, giọng nói nhỏ nhẹ, quyết liệt nhưng hóm hỉnh của ông vang lên như sự từ chối thua cuộc, sự thản nhiên bất khuất, trong một ngôn ngữ dửng dưng mà xúc động, nén lại.
Chúng ta có chung một thời đại
Trong chiến tranh, chúng ta mơ hòa bình; trong cảnh tù đầy, chúng ta sẽ mơ tự do. Nhưng trong cả chiến tranh và hòa bình, trong cả tù đầy và tự do, người nghệ sĩ đều phải nghĩ đến nhân phẩm.
Không thứ cờ quạt nào vấy nhơ nổi bầu trời
“À. Anh ấy nằm đây
"Hòn đá làm ra lửa" vừa là câu chuyện kể, có mở đầu và kết thúc, có những diễn tiến phù hợp với tiểu sử tác giả, vừa là sự phản kháng đối với các ảo tưởng, nhưng đó cũng là một bài thơ trữ tình. Mối quan tâm của nó là sự hành hạ đối với con người, các chủ nghĩa mê tín, sự vượt qua chúng, không những bằng lòng dũng cảm mà còn bằng tình yêu, không những bằng sự phản kháng mà còn bằng lòng tin. Tôi nghĩ rằng lòng tin là ý tưởng cốt lõi của toàn bộ tác phẩm này. Lòng tin vào điều gì? Vào nhân cách, vào giá trị nhân loại, lòng tin vào một nửa đất nước tự do, thật ra là giấc mơ cao nhất của tất cả người Việt, dù họ ý thức được điều đó hay không, đã bị đánh bại trong chiến tranh, vào một xã hội được hướng dẫn bởi công lý, vào lý tưởng hay sự tìm kiếm lý tưởng của thế hệ mình. Bài thơ nói về tình yêu, lòng chung thủy, tính dũng cảm, sự điềm tĩnh với chút bùi ngùi, và sự thèm khát đoàn tụ, của kẻ phải đi qua những ngày đen tối. Cấu trúc của bài thơ là một cấu trúc khó định hình, vì dựa vào các hình ảnh và ý tưởng đầy cảm hứng, chúng là dịp để bày tỏ các quan niệm về đời sống và về chính trị, nhưng chúng hiện hữu trước hết như những hình ảnh và ngôn ngữ thơ ca.
Có thể sẽ không còn. Cũng chẳng mất đi đâu
Khác với các nhà thơ hậu Auschwitz của châu Âu như Samuel Beckett, các nhà thơ Việt Nam thời kỳ sau này có nhiều niềm tin hơn vào khả năng bày tỏ và giao tiếp của thơ ca. Rõ ràng là trong một bối cảnh kinh hoàng không kém, hỗn loạn không kém, vì nhiều lý do, các nhà thơ ấy tin rằng họ có thể vượt qua thời đại khó khăn mà không gục ngã, bằng sự can đảm của người tin vào các giá trị mà họ bảo vệ. Tôi cho rằng chính niềm tin ấy trực tiếp dẫn họ đến niềm tin vào ngôn ngữ, hiện tượng ít tra vấn đối với nó.
Cánh cửa bứt khỏi cổng. Nhà bứt khỏi người
Đó là hoàn cảnh bên ngoài chống lại ngôn ngữ. Đó là sự truy vấn hiện thực, một hiện thực không bình thường. Mặc dù hình như Trần Dạ Từ chỉ nói về những điều ông biết, sống với chúng, đã nghiền ngẫm chúng, như tình yêu thời trẻ và năm tháng tù đày, sự thật của chúng không phải là không có gì để bàn cãi nữa. Sự hoang dã của điều kiện sống trong nhà tù và điều kiện xã hội bên ngoài, đặc biệt những năm bảy mươi tám mươi thế kỷ trước, là chống lại văn hóa dân tộc. Niềm hy vọng của tác giả trong bài thơ "Hòn đá làm ra lửa" có phải là một ảo tưởng không? Có phải những năm tháng tù đày sẽ chấm dứt và tự do sẽ xuất hiện. Có phải sự đoàn tụ của hai người yêu nhau sẽ làm nên một ngày mới, có phải sự kết hợp giữa hai hòn đá sẽ làm ra lửa. Có phải đó là niềm lạc quan không thực tế? Ngày nay nhìn lại sau chừng ấy năm, người đọc có thể nghĩ thế, và họ có thể đúng. Nhưng vào khoảnh khắc ấy của lịch sử, niềm hy vọng ấy không phải chỉ là hy vọng. Đó là khả năng sống sót của một nạn nhân, nhờ thế người tù ấy có thể bước qua mặt đất bùn lầy, giúp họ ngẩng đầu lên trong buổi sáng tháng Giêng.
Tôi biết bạn bè chúng ta, kẻ thù chúng ta