– Tiếp theo kỳ 1 & 2
15/- Xuất Xứ Bài Em Đi Chùa Hương
– Ca khúc “Em Đi Chùa Hương”: thơ Nguyễn Nhược Pháp , trình bày Tâm Đoan
Thi phẩm Chùa Hương ra đời trong hoàn cảnh rất kỳ thú. Hội Chùa Hương năm 1934, ông cùng nhà văn Nguyễn Vỹ và hai người bạn nữ sinh Hà thành đi trẩy hội. Đến rừng mơ, hai văn nhân gặp một bà mẹ cùng cô gái độ tuổi trăng Rằm vừa bước lên những bậc đá vừa niệm Phật “Nam Mô cứu khổ Quan Thế Âm Bồ Tát”.
Vẻ đẹp thánh thiện mang nét chân quê của cô gái đã hớp hồn hai chàng thi sĩ khiến họ trân trân nhìn quên cả hai bạn gái cùng đi. Nguyễn Nhược Pháp lại gần hỏi. “Tại sao trông thấy chúng tôi cô lại không niệm Phật nữa?”. Cô gái bối rối, thẹn thùng như muốn khóc. Hai người bạn gái gọi hai chàng thi sĩ để đi tiếp nhưng họ đã bị hớp hồn, tai đâu còn nghe thấy. Giận dỗi, họ bỏ đi.
Lúc bừng tỉnh, hai văn nhân không thấy các cô đâu vội len thốc len tháo, lách qua những dòng người đang trẩy hội nhưng tìm đâu cho thấy. Mệt và ngán ngẩm, hai thi sĩ quay lại tìm cô gái chân quê thì cả hai mẹ con cũng đã lẫn vào dòng người.
Đêm đó, Nguyễn Nhược Pháp không sao chợp mắt được. Hình ảnh cô gái chân quê đi Chùa Hương khiến ông xúc động viết lên những vần thơ có sắc màu tươi vui, hình ảnh ngộ nghĩnh, cả hồn người lẫn vẻ đẹp của ngày xưa hiện lên trên từng câu, từng chữ.
Cô Gái Chùa Hương khi in vào tập Ngày Xưa thì hai chữ Cô gái bị bỏ đi, chỉ còn Chùa Hương. Bài thơ trước đây đã được nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ nhạc song không được phổ biến rộng rãi. Phải tới gần 60 năm sau, nghệ sĩ Trung Đức qua lần đi Hương Sơn cảm tác đã phổ nhạc bài thơ, thêm bớt lời để thành bài hát Hôm Qua Em Đi Chùa Hương. Ngay từ lần phát sóng đầu tiên, Hôm Qua Em Đi Chùa Hương đã được đông đảo thính giả ưa thích và nhanh chóng được phổ biến rộng rãi.
16/- Xuất Xứ Bài Nắng Chiều
– Ca khúc “Nắng Chiều”: nhạc Lê Trọng Nguyễn, trình bày Hùng Cường
https://youtu.be/NJWFOAttp3Q
Năm 1950, anh Lê Trọng Nguyễn trở về ẩn náu tại quê nhà. Và năm 1953, anh sáng tác bản “Nắng Chiều”. Trong một cuộc phỏng vấn, Lê Trọng Nguyễn đã nói: “Tôi viết bản đó ở Huế, thời gian sau khi bỏ vùng kháng chiến về thành… Tâm sự tôi trong bài Nắng Chiều nó như thế này, kể anh nghe cho vui.
Sau cuộc đảo chính của Nhật vào đêm 9 tháng 3 năm 45, có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tạm trú ở Hội An, mà tôi cũng ở Hội An lúc đó. Gia đình đó có một người con gái. Tôi yêu người con gái ấy!”. Nắng Chiều ra đời trong một lần hứng tác của Lê Trọng Nguyễn trên cầu Vĩnh Điện khi chiều xuống ở bến sông Thu Bồn.
Hiệp Ðịnh Geneva ký kết xong, năm 1954 Lê Trọng Nguyễn ra Huế và Ðà Nẵng làm việc cho cơ sở thương mại ngoài đó. Cũng chính nơi đây, anh có dịp quen và làm bạn cho đến chót cuộc đời nghệ sĩ sáng tác của anh, với những Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Kim Tước, Nguyễn Hiền v.v.. Và ca khúc Nắng Chiều được xuất bản trong lúc này.
Người thâu tiếng hát đầu tiên bản Nắng Chiều vào dĩa nhựa là ca sĩ Minh Trang. Giữa năm 1955, người em gái duy nhất của anh Lê Trọng Nguyễn là Lê Thị Ba qua đời, anh quá đau buồn và đem bản Nắng Chiều ra ký giao kèo tái bản để có một món tiền tác quyền khiêm nhường đưa về quê cùng mẹ lo liệu cho em gái và chuẩn bị nuôi nấng cháu.
Năm 1957, Lê Trọng Nguyễn vào Sài Gòn. Ðúng dịp đoàn ca nhạc Nhật Bản sang thăm, ban nhạc Toho Geino có nhờ người chọn ra 12 bản nhạc Việt Nam đang nổi tiếng thời đó để chuẩn bị tập dượt và trình diễn tại Sài Gòn lẫn Nhật Bản, trong đó có bản “Nắng Chiều” và bản này đã được cô ca sĩ nhật Midori Satsuki hát.
Năm 1960 Ki Lo Ha, một ca sĩ người Hoa, cô yêu mến bản Nắng Chiều nên viết sang lời Hoa ngữ và phổ biến bản này sang Ðài Loan và Hồng Kông. Nhờ mấy may mắn đó mà Nắng Chiều cứ thế được biết tới tại ngoại quốc… Những ngày gần đây, Vũ Trung Hiền, Phạm Anh Dũng và tôi cùng nhau làm việc cho cuốn CD Collection #2.
Nẩy ra ý định thu được bản Nắng Chiều hát bằng tiếng Nhật, chúng tôi cố gắng vào Net để tìm tung tích bà Midori Satsuki, một người đã nổi danh hơn bốn mươi năm nay và vẫn còn hoạt động trên Ðài Truyền Hình Ðông Kinh. Và kết quả liên lạc được với nơi sản xuất CD ca nhạc bên Nhật nữa. Bà Midori Satsuki trực tiếp gọi phôn nói chuyện với tôi.
Và sau đó được sự giúp đỡ của hai anh Ðỗ Thông Minh và Phan Hiên, bà Midori xác nhận vẫn còn nhớ bản Nắng Chiều. Ðối với tôi, Nắng Chiều được hát bằng Hoa ngữ và Nhật ngữ từ 40 năm nay như một kỷ niệm đẹp bền của tình thân hữu văn hóa Á Châu.
Nhưng đặc biệt bản Nắng Chiều bằng lời Việt mới có ý nghĩa hơn cả: Nó đã được viết ra từ trên nửa thế kỷ qua mà nay chúng ta nghe lại vẫn thấy sống động, bùi ngùi cảm động. Tôi muốn nói đến nét trẻ trung trường tồn của ca khúc Nắng Chiều trong nền âm nhạc Việt Nam – Á Châu.
Bài hát viết theo điệu Rumba, giai điệu rộn rã phối hợp giữa ngũ cung và thất cung, lời ca đầy hình ảnh, màu sắc, nhưng nội dung phảng phất nét buồn. Phần lời nói lên tâm trạng hoài tiếc của một người khi thăm lại cảnh xưa. Trông thiên nhiên, cảnh vật vẫn hồn hậu sống động, lòng ấy bồi hồi nhớ lại một hình bóng đẹp tươi, nay đã không còn:
17/- Xuất Xứ Bài Mộng Dưới Hoa
– Ca khúc “Mộng Dưới Hoa”: thơ Đinh Hùng – nhạc Phạm Đình Chương, trình bày Vũ Khanh
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã đóng góp nhiều tác phẩm thật đẹp, như những hạt kim cương lóng lánh, vào kho tàng âm nhạc Việt Nam – đây tôi không có tham vọng trình bày về sự nghiệp sáng tác phong phú và giá trị của ông, mà chỉ xin ghi lại một giai thoại nhỏ đã được chính ông kể trong một lần tôi chở ông trên xe khi đi thăm ca sĩ Hoài Trung đang nằm trong một bệnh viện ở Pasadena vào năm 1990.
Khi tôi hỏi về trường hợp sáng tác bản Mộng Dưới Hoa thì ông cho hay là khoảng năm 1957 gì đó, ông đọc tập thơ Đường Vào Tình Sử của Đinh Hùng, thấy bài Tự Tình Dưới Hoa hay hay, có nhiều hình ảnh đẹp, lời thơ có vẻ cổ điển ước lệ với mỹ nhân, với trăng sao, mây nước, suối rừng, mơ mộng... v. v... ông bèn âm ư nho nhỏ trong miệng, rồi bật ra thành những nốt nhạc đầu tiên, và ông đã ghi lại trên giấy. Khi phần nhạc đã hoàn chỉnh thì chỉ có một số lời thơ được giữ nguyên văn, ngoài ra chính ông và thi sĩ Đinh Hùng đã gọt giũa lại rất nhiều.
Đến phần điệp khúc, thì cấu trúc của bài nhạc lại thay đổi, không thể dùng 7 chữ được vì chỉ có 6 nốt, nên ông đã yêu cầu Đinh Hùng đặt lời mới cho đoạn đó. Dĩ nhiên công việc này không quá khó khăn với nhà thơ và cũng có phần đóng góp của chính Phạm Đình Chương. Từ đó, 2 đoạn điệp khúc 6 chữ đã được lồng vào giữa bài hát, một cách rất khéo léo, tự nhiên và nhất quán, nghĩa là vẫn giữ được không khí rất lãng mạn và cổ điển của bài thơ.
18/- Xuất Xứ Bài Cát Bụi
– Ca khúc “Cát Bụi”: nhạc Trịnh Công Sơn, trình bày Khánh Ly
https://youtu.be/Fn3-rLRXD98
Vào một buổi chiều ngày tháng không còn nhớ, tôi một mình đến rạp Casino xem phim ”Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm” tập 6. Đây là bộ phim nhiều tập, đã xem tập này thì không thể không chờ xem tập khác. Nói chung là tập nào cũng hấp dẫn. Trong 6 tập có đoạn hiệp sĩ mù xuất kiếm giải cứu cho một nàng Kiều xinh đẹp.
Cứ mỗi tuyệt chiêu xuất ra là nghe có một tiếng nói bình giả ca ngợi. Đường kiếm như có thêm sức mạnh mỗi lúc một uyển chuyển huy hoàng hơn. Sau khi cứu được nàng Kiều, hiệp sĩ mù quay về phía tiếng nói vái tay chào hỏi. Hoá ra bên vệ đường dưới gốc cây to có một người mù khác đang ngồi xếp bàn, trên hai chân có cây đàn bọc trong bao vải gác ngang.
Người nghệ sĩ mù có nhã ý chơi một bản đàn tặng hiệp sĩ mù. Hai người bèn kéo nhau vào một khu rừng gần đấy. Hình như rừng vào thu nên các cành đều trơ lá, chỉ thấy một đám lá vàng đỏ trải dài trên mặt đất. Hai người ngồi tựa vào hai gốc cây đối diện nhau. Tiếng đàn cất lên như một lời than thở ngậm ngùi về đất trời, về kiếp người. Tiếng đàn nửa chừng bỗng đứt dây. Người nghệ sĩ mù nói: có kẻ bất thiện đang nghe lén. Quả đúng như vậy, có một tên gian đang rình rập hiệp sĩ mù. Thế là hai người lặng lẽ chia tay.
Hết phim, tôi tản bộ ngang trên đường phố. Không hiểu sao cái đoạn phim ngắn ngủi ấy khiến tôi buồn buồn. Chiều tôi về nhà, sau khi ăn, tôi ngồi đọc lại cuốn “Zorba le Grec”. Đến đoạn Zorba than thở: “Chim đa đa ơi thôi đừng hót nữa, tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, tôi bỗng gập sách lại và không đọc nữa. Có một cái gì đó thật trùng hợp trong cùng một buổi chiều.
Một nỗi buồn hay một điều gì đó gần với sự rời xa ly biệt đang cựa mình thức dậy trong tôi. Tôi lại ra đường tìm một góc quán quen thuộc ngồi. Trên đường trở về nhà, trong đầu bỗng vang lên một tiếng hát. Tôi lập đi lập lại nhiều lần trong đầu, hát thành tiếng khe khẽ. Đến khi về nhà ghi lại thì bài hát đã gần như hoàn chỉnh. Sáng hôm sau mang hát cho một số bạn bè nghe, hầu như ai cũng thích. Đó là câu chuyện sự ra đời của bài “Cát Bụi”
Mỗi bài hát đều bắt nguồn từ một duyên cớ nào đó. Có khi từ một câu chuyện không đâu.
Bây giờ thì người hiệp sĩ mù kia đã chết rồi. Khoảng hai năm nay. Người viết Zorba đã qua đời dĩ nhiên con chim đa đa kia cũng đã chết. Và nếu Zorba là một con người có thật được Nikos Kazantzakits tỉểu thuyết hoá thì nay ông cũng mất rồi.
“Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi…” Thời gian đã nghiền nát tất cả thành cát bụi hết rồi… (Trịnh Công Sơn – Tạp chí thế giới Âm nhạc, số 1- 1998)
19/- Xuất Xứ Bài Chuyện Tình Mộng Thường
– Ca khúc “Chuyện Tình Mộng Thường”: nhạc Trần Thiện Thanh, trình bày Nhật Trường: https://youtu.be/118EHuevLf0
Câu chuyện về Thiếu Úy Hoàng Châu và cô giáo Mộng Thường yêu nhau được ba năm mà gần nhau chỉ ngắn ngủi trong những ngày phép vội vàng của người lính chiến. Lúc đó Mộng Thường dạy học ở một trường thủ đô, còn Hoàng Châu nơi bốn vùng chiến thuật quen dấu giầy.
Chiến chinh, cách xa là chiếc lăng kính lọc trong màu thủy chung cho mối tình lứa đôi. Dấu phấn trắng, mầu bảng đen học trò, không cản được tâm hồn cô giáo Mộng Thường thả rong ra ngoài lớp học, để tưởng tượng người yêu đang dầm sương dãi nắng giữa làn tên mũi đạn. Hình ảnh khói thuốc súng, giao thông hào, những đêm nhìn hỏa châu rơi, không làm cho Hoàng Châu tránh được bồi hồi vọng tưởng đến người yêu ở phương trời xa thẳm.
Tình yêu của hai người chỉ được nấu chín từ những giấc mộng êm đềm nửa đêm về sáng hay nằm gối tay trên mơ giữa thực tế nghìn trùng xa cách. Những cánh thư đi về. Những hẹn hò sum hợp với màu hồng pháo cưới vẫn là hoài vọng chân tình của đôi lứa. Một đám hỏi đơn sơ, bình dị như cuộc sống chân sình, tay phấn của trai tiền tuyến, gái hậu phương trong những ngày phép vội vã.
Chàng trai gió sương hẹn cô giáo mùa Xuân năm tới sẽ đốt pháo rước dâu. Sau ngày vui đám hỏi, Hoàng Châu trở ra mặt trận, vùng địa cầu giới tuyến. Lúc đó mức độ tàn khốc của chiến trường càng ngày càng gia tăng mãnh liệt. Hoàng Châu hiên ngang dũng cảm chiến đấu bất chấp mọi hiểm nguy, chàng được thượng cấp báo tin khen thưởng thăng cấp “Trung Úy” tại mặt trận.
Tin vui về với Mộng Thường, nàng càng hãnh diện với người chồng sắp cưới anh hùng, đến nỗi ngẩn ngơ trong một chiều dạy học. Đám học trò sững sờ thấy cô giáo dễ thương để rơi viên phấn trắng vỡ đôi trên nền gạch thanh bình. Và để chia sẻ niềm hân hoan với hôn phu, nàng sắp xếp giờ dạy, xin phép đến mặt trận để dự lễ thăng cấp của Hoàng Châu.
Và trên chuyến xe đò định mệnh, chưa kịp tới với người yêu, một quả mìn ác độc giăng cài, nổ tung, cắt đứt đành đoạn tình đôi lứa. Đứt ruột, đau đớn trước bi thảm kịch này, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh kể thành nhạc khúc “Tình Thiên Thu”.
20/- Xuất Xứ Bài Thói Đời
– Ca khúc “Thói Đời”: nhạc Trúc Phương, trình bày Chế Linh:
Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, ”bèo giạt hoa trôi”… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no… Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được… đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả.
Tôi nghĩ ra được một cách... là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ… Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta.. thế là mình lấy 1 đồng về…. như là tiền thế chân… Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng… Mà nói anh thương… khổ lắm…
Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi, tôi đành phải trải chiếu gần chỗ “thằng cha đi tiểu vỉa hè”, thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát… mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn… Tôi nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết sau này..
21/- Xuất Xứ Bài Ảo Ảnh
– Ca khúc “Ảo Ảnh”: nhạc Y Vân, trình bày Elvis Phương:
Sau hai năm lập gia đình, ở một buổi trình tấu nhạc nơi đài phát thanh Saigon vừa tan, khoảng năm 1965, (lúc bấy giờ Y Vân là nhạc trưởng của một ban nhạc lớn: ban nhạc Y Vân, cùng với Thanh Thoại, Tuyết Mai, Mai Hương làm nền trình diễn) trên đường về, Y Vân được một chú bé “Stop” xe anh lại và mời vào một quán café bên đường. Nơi này có một thiếu nữ nhan sắc đang ngồi chờ sẵn, chú bé giới thiệu người thiếu nữ này tên Huyền – sinh viên ban Việt Hán Đại Học Văn Khoa Saigon.
Huyền có đôi mắt buồn não nề, trên bâu áo có chít một mảnh tang đen. Y Vân cố moi lại trong ký ức một thân quen nào đó từ người thiếu nữ đối với anh, nhưng vẫn không tìm ra một liên hệ nào. Bằng xã giao bình thường, người Nhạc Trưởng bèn buông lời chia buồn một cách bâng quơ, vịn vào cớ mảnh tang đen đính trên áo người thiếu nữ.
Huyền cười thảm não: “Em đâu có ai là người thân quen qua đời, mảnh tang này là dành cho mối tình em đó”. Sau lời minh biện như vậy, Y Vân bị đưa vào thế ngượng ngùng. Anh đã manh nha về một bí ẩn nào đó, thôi thúc người thiếu nữ này muốn diện kiến anh. Nhưng nỗi sầu man mác ẩn chứa trên khuôn mặt gấm hoa ấy, khiến cho Y Vân ái ngại không dám hỏi thăm thêm. Chàng viện cớ bận rộn và xin cáo từ. Trước khi từ giã Huyền và chú bé, Y Vân xin địa chỉ hai người để còn dịp gặp lại lần khác.
Hai ngày sau đó, Y Vân tìm đến nhà Huyền trong một khu nghèo nàn có chiếc cầu cao vắt ngang ao rau muống đường Trương Minh Giảng. Lòng rối bởi một chuyện không đâu, người nhạc sĩ Y Vân bỏ những bước chầm chậm, đếm mòn ưu tư gập ghềnh theo nhịp gỗ. Sau tiếng gõ cửa đầu tiên, Y Vân được chú bé em Huyền ra mở cửa.
Căn nhà vách gỗ đơn sơ cũng đìu hiu như chủ, giống như bốn câu thơ của Lưu Khâm:
Huyền không có mặt ở nhà. Cậu bé kể: “Chúng tôi là con một ông Hội Đồng ở tỉnh Long An. Hai chị em được gia đình gởi lên Saigon trọ học. Chị Huyền yêu anh không biết từ lúc nào, cho nên sách vở biếng lười. Trong tập vở học trò, chỉ chép toàn nhạc anh – thay vì tiền gia đình gửi lên cung cấp cho chị hoàn tất ban Cử Nhân Văn Khoa, chị Huyền phung phí vào một lớp học nhạc Tây Ban Cầm cho đến khi chị đàn được, suốt ngày chỉ đệm và hát nhạc anh. Hát một mình đơn lẻ. Mấy năm liên tục, chị không đậu thêm được một chứng chỉ nào.
Ba mẹ nhiều lần từ tỉnh lên thăm, thấy con gái tiều tụy, biếng ăn lười học, nên đã đưa hai chị em trở về quê nhà cấm cố, và bắt ép gả chồng cho chị – một Sĩ Quan Hải Quân, hình như người ấy có tên là L.T.Đ, ông ấy đẹp trai, có chức phận, con nhà giàu, nhưng chị Huyền vẫn một mực chối từ.
Bẽ mặt với phía đàng trai mà không hiểu được tấm lòng người con gái đã gửi trọn về mối tình anh. Ba mẹ buông lời từ đứa con không vâng lời ấy. Chị Huyền chặt dạ ôm ấp mối tình ảo ảnh của anh, nên trốn bỏ gia đình trở lại Saigon, nơi mà chị đã dại khờ mở cửa con tim tuổi thanh xuân yêu một chiều người nhạc sĩ Y Vân. Chị một mình tìm kế mưu sinh để chờ dịp gặp anh, hy vọng hai con tim cùng hòa nhịp.
Đến khi biết rõ ra anh đã có vợ, chị Huyền đớn đau như chiếc cây gục ngã giữa bão tình. Kể từ đó, chị chít tang đen trên bâu áo. Giã từ người yêu không tưởng, chôn chết nỗi si mê dại khờ. Tội nghiệp chị Huyền, tưởng với mảnh vải đen có thể làm nhát dao chặt đứt mối tơ tưởng tình yêu.
Nhưng không, tình chết trên mảnh vải sô, mà lại sống hoài nơi lòng chị ấy. Chị muốn gặp anh để nói điều này. Và chị đã không dám nói, làm con ốc mượn hồn, yêu thương chôn chặt mối hận tình…”
Nghe đến đây, Y Vân gục đầu xuống bàn. Anh nào có biết oan nghiệt ấy đã đến từ anh cho người con gái yêu thương không dám nói. Anh ra về như chạy. Hình như có bóng ai đang rượt đuổi đòi hỏi một ân tình. Nhạc phẩm “Ảo Ảnh” ra đời sau buổi ra về với trọn đêm thức trắng. Trí tưởng tượng của anh đi trên niềm hối hận. Ảo ảnh cuộc đời, ảo ảnh tình yêu đã có thực nơi những tâm hồn lãng mạn: Yêu mặn nồng, đắng cay, tha thiết. Gió ở trên non, gió cuốn mây trôi, cho dù bầu trời vẫn xanh thờ ơ không mảy may hay biết:
Yêu cho biết bao đêm dài Cho quen với nồng cay Yêu cho thấy bao lâu dài Chỉ còn vài trang giấy Giòng mực xanh còn đấy Hứa cho nhiều dù bao lời nói Đã phai tàn thành mây thành khói Cũng xem như không mà thôi Những ân tình em đong bằng nước mắt Khóc cho đầy hai chữ tình yêu Phấn hương nồng anh xem tựa tấm áo Đã thay màu ân ái từ lâu
Những neo thuyền yêu thương dễ đứt Khiến bao chiều trên bến tịch liêu Vắng con tàu sân ga thường héo hắt Thiếu anh lòng em thấy quạnh hiu Xưa đêm vắng đưa nhau về Nay đơn bóng đường khuya Khi vui thấy trăng không mờ Lòng buồn nên trăng úa Kìa phồn hoa còn đó Những con đường buồn vui lộng gió Những ân tình chìm trong lòng phố Cũng theo hư không mà đi…
(Xem tiếp kỳ cuối)
Yên Huỳnh tổng hợp chuyển tiếp
Nguồn: cafevannghe.wordpress.com