Nhà thơ Trần Dzạ Lữ (còn ký Trần Yên Hồ) tên thật Trần Văn Duận, sanh năm 1949, khởi làm thơ từ thập niên 1960 và đã có thơ đăng trên các tạp chí Văn, Văn Học, Thời Tập, Khởi Hành, v.v. Các tác phẩm Hát Dạo Bên Trời (NXB Trẻ, 1995) và Gọi Tình Bên Sông (1997) được xuất bản sau hơn 30 năm góp mặt với làng thơ. Mở đầu tập Hát Dạo Bên Trời, nhà thơ đã ghi: "được thai nghén trên 30 năm nay đứa con đầu ra đời và hiện đang đứng Hát Dạo Bên Trời ...".
Từng được đọc thơ ông từ trước 1975 và mới đây sau khi đọc Hát Dạo Bên Trời (1995), chúng tôi xin ghi lại một số nhận xét (phần thơ trích từ tập HDBT và một số tạp chí trước 1975 cũng như trên mạng). Đọc thơ Trần Dzạ Lữ với những người từng theo dõi văn chương, cũng là một cách hồi tưởng, sống lại những năm 1960, 1970 là một thời nghệ thuật đáng nhớ của những con người từng sống ở miền Nam tự do.
*****
Trước hết, thế giới thi ca của Trần Dzạ Lữ là cả một khung trời tình yêu, bắt đầu với thơ tình một thời học trò. Ở đây là những mối tình hoa mộng, lời hoa mà lòng gấm, lời đan thanh mà lòng đã nhiều đam mê. Không gian học đường đã đóng khung những bước chân chim non, những gót son thấp thoáng nơi sân trường và tản đi nhiều phương khi tan trường về. Tình thuở môi hồng được viết thành thơ:
Những hẹn hò khi tình đã chín, những nuối tiếc vì tuổi học trò đơn sơ không tính toán, để phải "bây giờ thu bên đời lận đận":
Người tình ấy từng da diết, rồi cũng có lúc chia phôi, tình chỉ còn trong nỗi nhớ:
Tiếc nuối trên những dấu chân xưa, nơi "phố chợ đó cũng hoang đường cổ tích":
Tiếc hơn nữa mỗi khi mùa Xuân lại đến rộn ràng, hoa quỳ vàng đã choán hết ký ức:
Thị trấn hoa vàng của mộng đầu tình non xanh tuổi mười bảy. Hoa quỳ vàng nhắc nhở người yêu bé nhỏ:
Bài thơ sau được dùng lại làm chủ đề cho cả thi tập Gọi Tình Bên Sông xuất bản năm 1997.
Rồi cũng có "ngày vẫy biệt khu rừng mơ tuổi nhỏ / ta xuống đời, biết chắc đã xa em ..." (tr. 29) để đi vào đời, "anh đi lẳng lặng bóng cò / chỉ mang theo lá thư hò hẹn xưa" (tr. 30).
Lẳng lặng một bóng, nhưng đã là nòi tình thì tình vẫn đeo đuổi mãi, nhưng sau này thì theo thời thượng vi tính:
********
Tình ở Trần Dzạ Lữ rốt cùng là tình Huế, tình với Huế, của Huế, của Huế hôm nay hoặc của quá vãng, trong tâm tưởng, hoặc Huế của trống vắng thần khí. Huế nơi nhà thơ sinh trưởng nhưng sống ở đó ngắn hơn Sài Gòn và những chân trời lận đận của chiến tranh và thời hậu chiến bi ai. Nhớ nhất đôi mắt Huế, mắt của đam mê mời gọi một thời và xa xôi thì nhung nhớ thành ám ảnh đời:
"Đôi mắt em thăm thẳm mộng bên trời" phải chăng là đôi mắt huyền của Tôn Nữ của một không gian thi thoại lá ngọc cành vàng?
Tôn Nữ được nhà thơ nhiều lần nhắc đến, như kỷ niệm đầu đời hay đã như nỗi nhớ khôn nguôi hoặc mùi hương hằng tưởng nhớ. Tôn Nữ được trang trọng viết hoa, trở thành một cụm từ dễ thương chỉ người đẹp miền sông Hương núi Ngự, ở các bài khác như: Gửi Người Áo Tím, Đêm Mưa Nghe Tiếng Đàn Bầu, Cảnh Tượng Tháng Giêng, Ngày Tàn Cuộc, Mùa Hạ Về Thành Nội, v.v.:
Tôn Nữ hay người nữ tên bắt đầu bằng chữ H. ? H là 'Huế'?
Người tình Thành Nội tha thiết trở lại trong Bài thơ thứ hai cho người tình sâu cố xứ:
Lòng đá cũng phải mềm thì lòng trai sao thoát được lưới tình?
H. phải chăng là Huyền hay Cúc Hoa, ... và nàng áo tím?
Lưới tình bủa vây nhà thơ, ngày kia, người đẹp Cúc Hoa bên cửa giáo đường Gia Kiệm đã làm lòng nhà thơ nhói đau, vì con tim chợt hồi tưởng mối tình tưởng đã xa nhưng hãy hiện diện dù đã mười lăm năm:
Huế ở Trần Dzạ Lữ là Huế của tâm hồn, Huế ở âm vang con chữ hơn là ngôn ngữ Huế sử dụng như với Hoàng Xuân Sơn, một nhà thơ khác của đất Thần Kinh. Với Trần Dzạ Lữ, Huế là những mối tình đam mê đầu đời và da diết, là không gian của những nơi tình tứ như Đồi Vọng Cảnh:
Tình của nơi Thành Nội những mùa hoa phượng nở, khi mất rồi có tìm về thì cảnh đó cũng đã phai bóng người xưa: "Bây chừ hoa phượng nở / Rưng rưng chiều nội thành / Ta về phơi thương nhớ / Bên đường kỷ niệm xanh”... (1995. Mùa Hạ về Thành Nội, HDBT tr. 82).
Huế là nơi chốn của những kỷ niệm đầu đời thuở mới lớn, nơi đã chứng kiến những mối tình non dại. Những bài của Trần Dzạ Lữ về Huế là những bàn tình ca trung thật nhất, vì Huế cũng là nơi sinh trưởng nhưng người con xứ Huế thân yêu đã phải đi xa lang bạt theo dòng đời. Những giây phút chạnh lòng, nhà thơ nhớ về quê xưa và nếu có những dịp may, con đường xưa lối cũ dĩ nhiên làm con tim người trở về rộn ràng, hàng cây, con đò, ... và người con gái tên Huyền:
*************
Mặt khác, 'Hát Dạo Bên Trời' có thể xem như chủ đề của tập thơ của hơn 30 năm trời lận đận phận người trong thời ly loạn, chiến tranh. Nhà thơ từng triết lý rằng:
Hát dạo trong cuộc đời, rồi ca 'cô lữ' những bản nhạc đời:
Người lữ khách đó theo dòng đời trôi nổi. Đà Nẵng cũng là nơi của tình yêu, của môi má, của người thân, nay trở về như 'lữ khách', nơi phải tất bật 'theo cơm áo' nhân sinh:
Cũng đành, như phận người, ở một đất nước như Việt Nam từng đã được hơn một nhà văn đề cập đến. Một buông xuôi bi thảm như thân phận nhược tiểu không tiếng nói:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, có những lần về phép trở lại thành phố, người Sĩ Quan Truyền Tin Trần Dzạ Lữ lại phải lên đường bỏ người yêu ở lại nơi thị tứ hậu phương, nơi cũng đã nhuốm mùi lửa đạn chiến tranh:
Tâm sự đôi lúc đành gửi bạn tri âm, như Cung Tích Biền, rằng phận chúng ta đã vậy, bước phiêu bồng đã mỏi, thì sao không như Đỗ Phủ một thời Đường thi? Vì:
Tôi sinh sau đẻ muộn / sao tâm sự giống ông
tình mây bay gió cuốn / đau từng câu thơ Đường
Đã đi khắp xứ sở / từng đụng nỗi hàm oan
đời sống và trang kinh / chưa bao giờ là một!
(...) Thà say như Lý Bạch / thà cuồng như Trí Thâm
tỉnh như tôi và ông / chỉ thêm mầm bệnh tật!
Nhưng mình mau nước mắt / mặn nồng với cố hương
lẽ nào ta ngoảnh mặt / trước bức bách đời thường?
1990
(Gửi Đỗ Phủ, HDBT tr. 61-62)
Hết tâm sự đến nỗi nhung nhớ những người bạn thơ, bạn văn một thời chữ nghĩa khác, những Huy Tưởng, Nguyễn Mộng Giác, Vũ Hữu Định, ... và cả những chốn vui bạn hữu như Quán cà phê Làng Văn. Vì buồn nhớ nào hơn những khi một mình "Gối đầu lên hiu quạnh / Ngước nhìn mắt sao khuya / Tự dưng hồn lay động / Có phải người xưa về ? " (Có phải, HDBT tr. 70).
Nhà thơ bỏ thế giới thi ca cao quí để đối đầu với thực tế cuộc đời. Ở chợ đời, nhà thơ phải bươn chải với đủ thứ 'nghề', phải vịn lấy để sống còn với đời:
Mười năm ở chợ không tri kỷ
Ta đứng thu thân một nỗi buồn
Sáng bảnh mắt ra, ngồi độc ẩm
Chiều về tra vấn lấy lương tâm
(...) Ở chợ đông, sao hồn cứ lạnh
Đốt thuốc hoài không ấm nửa chiều?
Thiên hạ đùn nhau đi kiếm sống
Nhân ái? Tang-thương-ngẫu-lục nhiều
Ta bán rau xanh, ngày mệt lử
Đêm còn ngồi đọc sách thánh hiền
Cố quên cơm áo - vòng danh lợi
Sao đời nỡ hối thúc bên lưng?
(...) Mười năm ở chợ không tri kỷ
Gác chuyện văn chương thấy chẳng đành
Nên ta độc thoại - Ta đây nhỉ?
Thương nhớ xa xăm một bóng hình.
1989
(Ở chợ, HDBT tr. 47-48)
Sau biến cố tháng Tư 1975, nhà thơ lao động nhọc nhằn quá mà vẫn không nhìn thấy tương lai cũng như không đủ cho hôm nay. Cuộc sống đa đoan đưa người thơ phiêu lưu đến những nơi hiểm hốc, trở ra miền Trung đi tìm trầm tìm sống, lòng nao nao nhớ về Nam nơi người thân sinh sống:
Trong đám đi tìm trầm / Chốn thâm sơn cùng cốc
Có người là nông dân / Bỏ cày lên mạn ngược
Có kẻ ở thị thành / Bẻ bút làm hảo hớn
Cũng có 'Anh-hùng-tận' / Vác rựa lên sườn non
(...) Lại có người xưng thánh / Có kẻ là ma vương
Tất cả đều thượng sơn / Cô hồn chung một lũ
Ngày rừng chan mưa lũ / Râu tóc ướt phiêu bồng...
Nói chung, đám tìm trầm / Vì đói cơm rách áo
Người yêu coi như không / Vợ con là gió thoảng
Chiều nay, qua Ba Lòng / Vì đâu mà thương nhớ
Đâu phải giò phong lan / Tim tím chiều quyến rũ
Cũng không phải chùn chân / Trước núi rừng muông thú
Nhưng tất cả "binh đoàn" / Đều rưng rưng nước mắt
Lúc leo qua con dốc / Có tên là Mạ ơi
Dốc còn cao mong đợi / Tình còn sầu chơi vơi
Riêng ta, thì em ơi / Nhớ miền Nam tha thiết
Sài Gòn em có biết / Nỗi đau của mưa rừng
Không ngãi cũng tìm trầm / Áo cơm đang nặng nợ.
1985
(Qua dốc Mạ Ơi ở Ba Lòng HDBT tr. 43-44).
Xa 'cố xứ', tình cảnh lưu lạc 'đêm mưa nghe tiếng đàn bầu' sao lòng không não nuột thương đau?
(...) Mưa, mù đường chiêm bao / Đàn bầu rung rung nhớ
Mở ngực đời cô lữ / Chỉ là vết tình đau
(...) Tiếng mưa lẫn tiếng đàn / Nhớ ai ngoài nội cũ
Bao năm rồi mẹ hử / Con chưa lần về thăm!
(...) Đêm nay, nghe đàn bầu / Réo rắt, về gác lửng
Chợt hồn ta quay dựng / Quê người? Quê xưa đâu? ...
1989
(HDBT tr 49-50).
Trong những cơn khốn cùng, nhà thơ càng trân quý tình nghĩa tào khang của người vợ. Hình ảnh trở nên đẹp dù trong tăm tối của ngõ cụt:
Ơi ngày ấy đắm cơn mê
Săm soi gương lược ta về với nhau
Ngờ đâu tuổi mộng bay mau
Hai vai lại nặng mối sầu áo cơm
... So dây đàn Thúy âm thầm
Mười lăm năm ấy đoạn trường là bao
Ơi ngày ấy đã chiêm bao
Thôi em ráng bước qua cầu cùng anh ...
1990
(Nói với vợ hiền, HDBT tr. 56)
"Anh trăn trở ngóng, em mường tượng mong", làm người tình rồi vợ, người nữ đã xẻ chia vui buồn cuộc đời. Hoàn cảnh khó nhăn, ngay cả ngày cưới em nhà thơ cũng không về được, đành làm thơ xin lỗi gửi người em gái quê nhà 'chơn chất' "Hãy âm thầm lo toan cuộc sống / Cho chính mình, ấy là đã thương anh" (HDBT tr. 65). Buồn, thất vọng, bất lực trước tàn nhẫn của cuộc đời, là những lúc nhà thơ đã nghĩ đến người xa xưa của một cõi hư vô nào!
*
Nhìn chung, nhiều bài thơ Trần Dzạ Lữ là những vần thơ hay, về Huế, về tình yêu, về cuộc lo toan sau 1975. Ông làm đủ loại thơ nhưng lục bát của ông có những nét rất riêng - những vần thơ của cuối thập niên 1960:
Tay tôi vuốt mặt theo ngày
Chim bay về nhánh sầu cây âm thầm
Hồn xưa vừa chín ăn năn
Em đi biển động đã trăm nỗi buồn
Tôi về dáng thú buồn hơn
Trong hang mưa lạnh lưng khom sợi chiều.
1970
(Sợi chiều tà, HDBT tr. 17).
Hai hàng nến thắp áp quan
Người đi nhỏ giọt linh hồn mai sau
Nụ cười sẽ tắt ngàn thâu
Vầng trăng, xiêm áo trên đầu hư vô ...
1966
(Bài hư vô, HDBT, tr. 11)
Chiến tranh đã hiện diện trong thơ Trần Dzạ Lữ một cách bình thường, thủ phận, như không lựa chọn; bài Thầm hỏi trên tạp chí Văn (SG) số 138 (1969) là một điển hình:
Sao đêm chưa là đêm mở hội
Cho người về vui từng bước chân chim
Cho người quên tuổi-vàng-chinh-chiến
Đã ba năm dong ruổi trên ngàn
Sao đêm chưa là đêm mở hội
Cho mẹ già quên nỗi tủi chờ con
Cho thiếu phụ quên đời đá-đợi
Đã bao năm cắn lệ thương chồng
(...) Sao đêm chưa là đêm mở hội
Cho tôi về bên ánh lửa đêm đông
Hong thương nhớ những năm dài quạnh quẽ
Bên mẹ già em gái hết buồn trông.
Lời thơ hiền lành, kể cả khi buồn tức tột cùng, lời hằn học nhẹ nhàng như thoáng qua, như khi 'trò chuyện với gác lửng' trong khi vợ "Vì áo cơm mà em ra chợ / Một hồn buồn giữa cõi rau xanh / Ngày văng tục trên miệng người láu cá/ Mà em thì líu lưỡi bởi không quen ..." (HDBT tr. 45-46).
Ở Trần Dzạ Lữ, những hình ảnh Tôn Nữ, Hoa quỳ, Tháng Giêng, Thành Nội, Thành phố Hoa Vàng, ... có mặt thường xuyên; đó là thành tố của một thế giới thơ lãng mạn, đam mê, mặc dù nhà thơ phải sống "giữa một biển đời giàu chất quỉ, lắm dạng ma, luôn huyên náo, huyền động, nồng cay trong từng lời mật ngọt ..." - nói như nhà văn Cung Tích Biền trong lời Tựa cho tập Hát Dạo Bên Trời (tr. 8). Rồi những chữ dùng của riêng nhà thơ: cuộc về, giấc ngủ ca dao, đắp chiếu thương đau, chở mộng qua sông, mùa tôi dựng tóc lạnh màu thanh niên (Cảnh tượng tháng Giêng), v.v.
Như đã dẫn nhập, đọc thơ Trần Dzạ Lữ đối với những người từng theo dõi văn-chương, cũng là một cách hồi tưởng, sống lại: hồi tưởng một thời đại tức thời-gian. Xưa nay yếu tố thời-gian vốn được các nhà phân tích văn chương xem trọng, trong khi không-gian thường được xem như cái khung, cái vỏ vây quanh các định mệnh, nhân tố. Thực ra yếu tố không-gian cũng khá quan trọng trong thế giới nghệ thuật nhất là thi ca; không-gian liên hệ mật thiết với thực tại, cái sống, làm nền và nội dung cho nghệ thuật. Huế, Thành Nội, Thành phố Hoa Vàng mà cả Sài-Gòn, Đà Nẵng, Đà-Lạt, Ba Lòng, ... đã là những thành tố quan trọng trong sự nghiệp thơ của Trần Dzạ Lữ; đọc thơ ông tức đọc không-gian Huế (và những nơi chốn khác). Văn bản ấy được người đọc khám phá như đã được miêu tả, bao gồm, nhắm đến, mơ tưởng đến, ... Tùy tài năng tác giả mà ấn-bản thơ trở nên khác nào là một bản địa hình táo bạo. Huế mà mọi người đã biết hoặc sẽ biết trong thực tại hoặc với các nhà thơ Nam Trân, Hàn Mặc Tử, ... chưa hẳn đã là không-gian Huế của nhà thơ họ Trần. Thời-gian bao trùm, dĩ nhiên, nhưng phải bám vào một địa lý, nơi chốn, để có thể hiện diện, thành hình ảnh. Các địa danh đó khiến cho tình ý, tâm sự tác giả đã-đầy nhưng như vẫn-trống, đó là đặc tính đọc-được của không-gian trong nghệ thuật, nhất là thi-ca.