User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

nguyenvy1

Đầu những năm 1960, ba tôi rất mê đọc sách báo và các tạp chí văn học nghệ thuật nên vẫn thường hay đặt báo tháng một số nhật báo và tạp chí. Về nhật báo thì thường là Ngôn Luận. Tia Sáng … và tạp chí thì có ba thứ mà tôi được đọc ké từ thời còn nhỏ là Phổ thông, Thời nay và Văn…

Về tạp chí Phổ thông có nhiều chuyên mục hay, hấp dẫn và đặc biệt trong đó có đăng nhiều kỳ câu chuyện về “Tuấn, Chàng Trai Nước Việt” mà tác giả chính là Nguyễn Vỹ kiêm chủ bút của tờ tạp chí này.

Thời ấy còn quá nhỏ để tôi có thể cảm nhận những cái sâu sắc, những cái hay… của những tờ báo, tạp chí… đã từng đọc, chủ yếu đọc vì ngoài phương tiện thông tin truyền thông lúc đó là báo chí, đài phát thanh, sách truyện... thì cũng chẳng có nhiều như ngày nay.

Ba tôi rất mê Nguyễn Vỹ và những bài báo, truyện của ông vì ngoài tài năng của một văn thi sĩ, ông ấy còn là người… đồng hương – Quảng Ngãi nữa!

Những tác phẩm của Nguyễn Vỹ không chỉ thuần túy là văn chương văn nghệ mà qua tác phẩm của ông, đã phản ánh được một giai đọan của lịch sử nước nhà thời cận đại và chính ông là một trong những chứng nhân của thời đại mà ông đã từng sống…

Nguyễn Vỹ sinh năm 1910, trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước ở làng Tân Phong (Tân Hội), huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Nguyễn Vỹ là một người đa tài, suốt đời sống bằng nghề văn và báo chí. Ông ký nhiều bút danh: Tân Phong, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền, Tâm Trí... Từ những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, Nguyễn Vỹ đã xuất hiện trên văn đàn, tham gia viết trên tạp chí Văn Học, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Hà Nội Báo, Phụ Nữ... ở Hà Nội. Và, là một cây bút chính luận sắc sảo trên các tờ báo thời bấy giờ như: Le Sygne, L'ami du peuple, La patrie Annamite...

Thừa hưởng truyền thống yêu nước của gia đình, dòng họ, Nguyễn Vỹ đã thể hiện tư tưởng chống Pháp, chống phong kiến và chống cả Nhật Bản trong những bài báo của mình. Chính vì vậy, năm 1937, ông bị nhà cầm quyền bắt giam 6 tháng tù ở Hà Nội vì một bài báo chống Pháp. Năm 1940, ông lại bị Nhật Bản bắt cầm tù ở Phú Yên. Năm 1945 mới được tự do. Từ năm 1946, ông sống ở Sài Gòn. Nguyễn Vỹ đã sáng lập và điều hành nhiều tờ báo: Dân Ta, Bông Lúa, Tạp Chí Phổ Thông, Tuần Báo Thiếu Nhi Thằng Bờm...

Nguyễn Vỹ bị tai nạn giao thông tại Long An, qua đời vào ngày 4/2/1971. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm với nhiều thể tài phong phú, đa dạng, phải nói là đồ sộ: Về thơ có: Tập Thơ Đầu – Premières Poésies (1934, thơ Việt – Pháp), Hoang Vu (1962). Truyện ngắn: Vinh Và Nhục Của Nguyễn Văn Nguyên (1936). Tiểu thuyết gồm có: Đứa Con Hoang (1938), Người Yêu Của Hoàng Thượng (1938), Thi Sĩ Kỳ Phong (1938), Chiếc Bóng (1941), Dây Bí Rợ (1957), Chiếc Áo Cưới Màu Hồng (1957), Hai Thiêng Liêng (1957), Mồ Hôi Nước Mắt (1965). Chính luận viết bằng tiếng Pháp: Kẻ Thù Là Nhật Bản (1938), Cái Họa Nhật Bản (1938), Tấn Kịch Việt – Pháp (1947). Biên khảo: Những Người Đàn Bà Lừng Danh Trong Lịch Sử (1970). Chứng tích thời đại: Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (1970), Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (1970).

Nguyễn Vỹ là nhà thơ, nhà văn và là nhà báo lão thành trong làng báo miền Nam. Ông được người đời công nhận là một nhà báo dám nói lên sự thật. Về văn, Nguyễn Vỹ chuyên viết tiểu thuyết xã hội. Cùng với tiểu thuyết và các thể loại khác, Nguyễn Vỹ trước sau vẫn là một nhà thơ. Ông thật sự nổi tiếng về thơ. Từ năm 1941, mặc dù có những nhận định có phần khắt khe về Nguyễn Vỹ, nhưng cả Hoài Thanh – Hoài Chân và Vũ Ngọc Phan đều phải công nhận: "Nguyễn Vỹ là người có tài về thơ".

Nhiều thế hệ yêu thích bài "Sương Rơi""Gởi Trường Tửu" của Nguyễn Vỹ. Hai bài thơ trên Nguyễn Vỹ viết với phong cách khác nhau. Ông đã tạo ra nhạc điệu riêng trong "Sương Rơi". Với bài "Gởi Trường Tửu", theo thể thất ngôn trường thiên, Nguyễn Vỹ viết trong cơn say với tâm trạng bi phẫn, u uất. Lời thơ thống thiết, nói lên nỗi khổ của văn thi sỹ và những người làm báo trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp cai trị.

Nguyễn Vỹ là người đề xướng trường phái thơ Bạch Nga trên tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Năm ở Hà Nội trong thập niên 30 của thế kỷ 20. Nguyễn Vỹ đã viết những câu thơ 2 chữ và 12 chữ (Có người gọi là câu thơ 12 chân). Sau này trên Tạp Chí Phổ Thông xuất bản ở Sài Gòn, Nguyễn Vỹ tiếp tục đề xướng trường phái thơ Bạch Nga và thể thơ hình đối xứng. Bài thơ mang dạng hình học, các hình ảnh ngộ nghĩnh, đầy mới lạ (Thơ hình đối xứng là lấy câu giữa của bài thơ làm trục đối xứng của những câu thơ theo thứ tự đầu và cuối của toàn bài thơ. Những bài thơ, nhìn toàn bài sau khi viết hoặc in trên giấy giống như những bức họa, hoặc có hình lục lăng, tứ giác, hình thoi...). Trường phái mới lạ này đã thoát ly khỏi những quy tắc thể thơ cổ truyền.

Trước khi bị tai nạn giao thông qua đời đúng một năm, Nguyễn Vỹ viết bài thơ "Quảng Ngãi, Quê Hương Tôi". Lời thơ tha thiết, ý thơ hùng hồn, Nguyễn Vỹ đã khắc họa được những nét đặc trưng tiêu biểu về đất và người quê hương núi Ấn sông Trà:

"... Quảng Ngãi – quê hương tôi
Nhiệm mầu guồng xe nước
Tha thướt chập chùng
Lên men đồng lúa mướt
Lả lướt mênh mông
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Thương thương làn mây trôi
Mơn cảnh đồi Thiên Ấn
Vương vương sầu tơ nắng
Núi Bút vùng phương khôi
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dòng sông rạo rực
Lưng Rồng uốn khúc
Rực rỡ ánh dương ngời
Trùng trùng gấm vóc
Huyết lệ sử dân Hời
Từ Chiêm Thành khai quốc
Dâng về ngôi Đại Việt
Trọn ân tình Chúa, Tôi
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dân tình bất ly
Dân trí bất nhược
Dân đức bất suy
Dân tâm bất khuất
Khí thiêng nung đúc
Văn chương kiệt phách hào hoa
Bất chấp cường quyền, uy vũ ..."

Cùng với sự nghiệp thơ, có một tác phẩm của Nguyễn Vỹ được nhiều người yêu thích và đánh giá cao, đó là tác phẩm "Tuấn, Chàng Trai Nước Việt". Tác phẩm này trước khi in thành sách trọn bộ 2 tập được đăng tải từng kỳ trên Tạp Chí Phổ Thông đã thu hút được đông đảo người đọc. Hình minh họa trong tác phẩm là một người thanh niên khôi ngô, tuấn tú, mặc chiếc áo dài cổ truyền, đầu đội mũ cối rộng vành đã trở thành thân thuộc với người đọc thời bấy giờ. Theo Nguyễn Vỹ thì tác phẩm "Tuấn, Chàng Trai Nước Việt" không phải là tiểu thuyết, không phải là hồi ký, cũng không phải là tự truyện. Nguyễn Vỹ đã viết về những con người, những sự kiện chân thật với tư cách là nhân chứng khách quan của thời đại. Chính vì vậy, ông gọi tác phẩm của mình là "chứng tích thời đại". Ông viết về xã hội Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 20 đến năm 1945, viết về chân dung cuộc sống của một thế hệ cùng thời với ông, mà ông đã gọi là "thế hệ Tuấn – chàng trai nước Việt". Nguyễn Vỹ đã ghi chép một cách đầy sáng tạo các sự kiện; phải nói là ngồn ngộn sự kiện, đầy hấp dẫn, phong phú và đầy chân thật trong "Tuấn, Chàng Trai Nước Việt". Ông trở thành người kể chuyện tài hoa, hấp dẫn. Từ chuyện ăn mặc, thời trang, tóc tai, học hành, thi cử, chuyện làng xã, chính trị... Từ đời sống sinh hoạt của một vùng đất, của một đất nước chuyên sống bằng nông nghiệp lạc hậu, tiếp xúc với những phương tiện hiện đại, cơ giới, máy móc tự động của phương Tây; đến tình cảm và suy nghĩ của một thế hệ đối với đất nước và dân tộc.

Trong tác phẩm "Tuấn, Chàng Trai Nước Việt", Nguyễn Vỹ viết tất cả 45 chương dài ngắn khác nhau và lấy nhân vật “Tuấn” làm trung tâm để miêu tả những sự kiện mà “nhân vật Tuấn” này đang sống và đến giai đoạn năm 1945 khi đất nước chứng kiến những sự kiện lịch sử làm thay đổi cả bản chất của một xã hội Việt Nam trước đó.

Trong phần “Lời Tựa” cho tác phẩm này, Nguyễn Vỹ đã viết:

“Bạn đọc thân mến!

Bộ sách này không phải một tiểu thuyết.

Cũng không phải là một ký ức cá nhân.

Tuấn là một nhân vật điển hình, tiêu biểu những chàng trai Việt Nam sinh trưởng trên Đất Nước từ đầu thế kỷ. Chàng lớn lên giữa một bối cảnh lịch sử và xã hội cổ kính đang bắt đầu biến chuyển dần dần theo định mệnh do sự xâm nhập của người Pháp hoàn toàn xa lạ từ Tây phương đến đô hộ xứ ta. Họ đã đương nhiên để lại những dấu tích sâu đậm của một văn minh mới, và tạo ra một vận mệnh mới cho Dân Tộc Việt Nam.

Với tư cách một nhân chứng vô tư của Thời Đại, Tuấn thuật lại rất khách quan và chân thật, không màu mè chải chuốt, tất cả những biển đổi phi thường ấy, về lịch sử, xã hội, phong hóa, tập tục, kinh tế, trong đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân Việt Nam từ 1900 đến nay. Một đời sống dồi dào sinh lực, đầy thử thách và kinh nghiệm.

Những người Việt sinh trưởng vào đầu thế kỷ có thể chứng nhận rằng những sự kiện, thấy, nghe, sống, những phong trào, nhân vật, biến cố lớn hay nhỏ, ghi lại trong tác phẩm này đều hoàn toàn xác thực. Ở đây, không có chỗ cho tưởng tượng, cũng như cho chủ quan, thành kiến.

Những thế hệ hôm nay và hậu lai sẽ tìm nơi đây những yếu tố để suy nghiệm về Lịch Sử dân ta.”

Đọc tác phẩm này của Nguyễn Vỹ, chúng ta thấy rõ hoàn cảnh, cuộc sống của Việt Nam từ trong thời kỳ phong kiến, thuộc địa đến thời kỳ bùng nổ dân chủ, giành độc lập. Chúng ta hiểu rõ tình hình kinh tế, văn hóa xã hội, cũng như những tập quán xã hội của nước ta trong thời kỳ đầu thế kỷ 20. Tác phẩm "Tuấn, Chàng Trai Nước Việt" đã trở thành nguồn tư liệu quý giá giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu, biên soạn, trích dẫn những phong tục tập quán, những sinh hoạt trong đời sống, những chuyển biến lịch sử của đất nước Việt Nam trong thời kỳ đầu của thế kỷ 20.

Đọc tác phẩm "Tuấn, Chàng Trai Nước Việt", những người lớn tuổi thường hoài niệm về một giai đoạn lịch sử của nước nhà cũng như các bạn trẻ ngày nay hình dung xã hội Việt Nam của chúng ta cách nay cả thế kỷ được phản ánh như thế nào, từ đó chúng ta so sánh với giai đoạn mà chúng ta đang sống hiện nay để có những suy ngẫm cho riêng mình…

Hoài Nguyễn - 25/12/2015

 

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com