
Viết Về Tập Thơ “Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình” Của Nguyễn Dương Quang
Ngày cuối trước khi rời Đà Lạt, buổi sáng 26/12/2021 tôi và vài người bạn văn theo chân con trai nhà thơ Nguyễn Dương Quang lên căn gác nhỏ của phía trước khách sạn Bông Hồng nơi làm phòng thờ của anh đốt cho anh nén nhang tưởng niệm sau mấy ngày ngao du phố núi thưởng thức một mùa giáng sinh của xứ sở sương mù. Đây là lần thứ hai tôi ghé căn gác nhỏ nầy để thắp hương cho anh sau ngày anh mất. Chuyến đi Đà Lạt cũng rất bất ngờ và ngẫu hứng: Buổi sáng 23 còn ngồi ở Sài Gòn nhâm nhi cà phê cùng vợ chồng họa sĩ Nguyễn Sông Ba và mấy người bạn chợt có ai đó đề nghị làm chuyến dã ngoại lên Đà Lạt thưởng thức mùa Giáng Sinh năm nay trên đó xem thế nào, vậy mà tất cả mọi người đều hưởng ứng và chúng tôi có mặt ở Đà Lạt vào lúc nửa đêm về sáng của ngày hôm sau.
Lần đầu tiên tôi gặp nhà thơ Nguyễn Dương Quang ở Sài Gòn, khi tập san Quán Văn ra mắt số 70 vào tháng 12-2019 chủ đề D’ran – Miền sương khói viết về thơ anh. Tôi cũng như nhiều bạn văn khác bắt tay chúc mừng anh nhưng không nói gì nhiều vì thật sự chưa biết lắm về anh, nhưng thấy anh vui cười cởi mở cũng cảm nhận được anh là con người khá gần gũi. Trong suốt buổi ra mắt tôi thấy anh luôn vui nhất là khi anh cầm đàn và hát mấy ca khúc do anh sáng tác, tôi lại nhớ buổi sáng ngày 25 khi lên D’ran ghé thăm gia đình một người quen của họa sĩ Nguyễn Sông Ba để nhờ xin phép vào tham quan thủy điện Đa Nhim, người chồng khi nhắc đến anh Nguyễn Dương Quang mắt bỗng sáng lên và kể rất nhiều kỷ niệm về anh khi mỗi lần nhà thơ trở lại D’ran đều ghé lại đây, sau mỗi cuộc nhậu rôm rả là Nguyễn Dương Quang bắt đầu ôm đàn hát nghêu ngao cả buổi tối cho đến tận khuya. Điều nầy chứng tỏ bạn bè thân quen rất quí anh, một con người của thi ca và âm nhạc.
Nhà thơ Nguyễn Dương Quang sinh năm 1944 tại D’ran, Đà Lạt, Tuyên Đức, mất ngày 29/4/2020 sau một cơn bệnh nặng. Anh làm thơ từ rất sớm nhưng không nhiều và ít khi gởi đăng báo. Theo nhà thơ Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Dương Quang chưa chính thức xuất bản tập thơ nào cho riêng anh nhưng anh đọc rất nhiều thơ của các tác giả khác, sưu tầm những bài anh thích, và in thành tuyển tập, trong đó phần lớn chi phí in ấn là do anh bỏ tiền túi. Đây là điểm rất đặc biệt của Nguyễn Dương Quang. Đọc đoạn viết nầy của Phạm Cao Hoàng tôi chợt nẩy lên một cái cười thi vị: Số là trong tập thơ in chung “Rằng Từ Ngẫu Nhĩ” của 3 tác giả Nguyễn Dương Quang, Cao Thoại Châu, Trần Ngọc Hưởng có một bài viết của chị Cao Thị Hồng, hiền nội anh có đoạn: “…Bỏ rẫy vườn, làm khách sạn, anh đỡ hơn nhiều, lo hợp đồng, sổ sách, siêng năng hơn. Anh ta làm thơ, viết nhạc. Thiếu, anh chôm tiền nhà in thơ riêng, thơ chung tác giả tứ xứ. Anh thường tụ họp bạn bè thơ, nhạc “đàn ca sáo thổi”, may không nhậu nhẹt, lăng nhăng rắc rối.”
Con người Nguyễn Dương Quang là thế đó. Từ 1999 đến nay, Nguyễn Dương Quang đã sưu tầm và xuất bản 4 tuyển tập thơ của nhiều tác giả:
1. Biển Của Một Thời (1999)
2. Sương Mù Một Thuở (2000)
3. Mây Khói Quê Nhà (2012)
4- Rằng Từ Ngẫu Nhĩ (2019)
Riêng anh chỉ xuất bản một tập thơ duy nhất: Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình (NXB Văn Học 2013, NXB Thư Quán Bản Thảo – Hoa Kỳ tái bản năm 2015). Nói theo Vũ Thanh Sơn, khi đọc tập thơ “Rằng Từ Ngẫu Nhĩ”: “…Nguyễn Dương Quang sáng tác không nhiều. Ngoài những bài thơ làm sau 1975 còn có một số bài sáng tác từ khi tác giả còn khoác áo lính, 21 bài thơ ấy là những nỗi niềm trải dài theo năm tháng đã kết thành hoa trái của một đời người lắm đa đoan và cũng nhiều say đắm.” (Một vài cảm nghĩ khi đọc thơ Nguyễn Dương Quang)
Cũng như bao thanh niên miền Nam thời chiến, Nguyễn Dương Quang nhập ngũ và là sĩ quan trong quân lực VNCH. Sau 1975, cũng như nhiều sĩ quan khác trong quân đội của “bên thua cuộc”, Nguyễn Dương Quang đi “học tập cải tạo”. Mãn tù, anh về Đà Lạt làm vườn và chở xác cá (phần còn lại sau khi làm mắm) từ Phan Rí về Đà Lạt bán lại cho người làm vườn. Ai đó đã từng nói gặp anh bên chiếc xe tải chở xác cá, trông anh thật lãng tử giang hồ. Sau những chuyến xe chở xác cá, cái còn lại với Nguyễn Dương Quang vẫn là thơ, nhạc, và bạn bè. Đầu năm 2020, tạp chí Quán Văn ra số đặc biệt về anh: Chân dung văn học Nguyễn Dương Quang.
*
Cầm trên tay tập thơ “Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình” tôi không nén được cảm xúc của mình vì nhiều lẽ: Thứ nhất đây là tập thơ in riêng duy nhất của anh khi còn ngao du qua cõi tạm. Thứ hai tập thơ ngắn chỉ có 108 trang và khoảng 50 bài thơ cho một khoảng thời gian sáng tác rất dài (từ 1962-2014) mà ngay từ đầu tập thơ anh khiêm nhường tự đánh giá: “những chuyện rời trong đời”
Tôi thích nhất những bài thơ anh viết thời đi học và thời đi lính mặc dù chiếm số lượng rất ít trong tập thơ vì nó rất trong sáng và chân thật quá. Thơ tình của anh thời đi học trong trẻo dễ thương chưa vướng bận bụi mù của cuộc chiến tranh đang chờ đón phía trước như tất cả thanh niên thế hệ anh:
Em đi phất uyển vườn hoa ngự
dáng liễu in dài trải lối xa
anh tưởng lầm mình là thi sĩ
một chút mơ theo gót ngọc ngà.
(Dáng Ngọc-1962)
Tình yêu thơm như triệu đóa hoa hồng, mênh mông như ngàn cánh hạc. Hỏi những ai đang yêu không ngụp lặn trong cái cõi Tình như cỏ hoa lộc biếc kia chứ:
Nhan sắc vô ngôn bờ vũ trụ
Anh rơi quỹ đạo, níu hương người
triệu đóa hoa hồng, ngàn cánh hạc
cũng bay về một cõi Tình ơi!
(Khi Em Đến-1964)
Có lẽ người ta biết nhiều đến Nguyễn Dương Quang bằng những bài thơ thời chiến tranh hơn. Hơi thở của đạn bom bắt đầu liếm dần vào hồn thơ một thời trong trẻo của anh. Anh không chọn lựa chiến tranh nhưng thân phận con người không thể thoát khỏi guồng máy đó nên anh phải chấp nhận như một định mệnh trước sự quay cuồng của cơn lốc lịch sử. Ta hãy nghe tâm sự của Phạm Cao Hoàng khi viết về nhà thơ Nguyễn Dương Quang: “Tôi gặp Nguyễn Dương Quang lần đầu vào năm 1969. Một đồng nghiệp của tôi, Thái Văn Thạnh, có nhà ở Duồng, sắp xếp cho tôi một chỗ ở trong nhà anh. Trong căn nhà này, tình cờ tôi lại gặp một người cũng mê thơ, mê nhạc: Nguyễn Dương Quang. Nguyễn Dương Quang, gốc Đà Lạt, là sĩ quan quân đội đang đóng quân ở gần đó, và gia đình Thạnh cũng giúp anh có một chỗ ăn ở giống như tôi để anh có nơi chốn đi về. Chúng tôi trở thành bạn và có nhiều kỷ niệm ở Duồng. Nguyễn Dương Quang là mẫu người cương trực, thẳng thắn, nhanh nhẹn, tháo vát, sống đàng hoàng, và đặc biệt, chơi với bạn rất tốt. Thời gian này, chiến tranh vẫn khốc liệt, sống và chết nhiều khi chỉ cách nhau trong tích tắc. Tâm trạng chung của chúng tôi là chán ghét chiến tranh, buồn bã vì chiến tranh, và đau khổ vì chiến tranh. Từ Duồng, Nguyễn Dương Quang đã viết bài thơ hay nhất của anh, được nhiều người yêu thích, và được giới phê bình văn học đánh giá cao: “Đêm Cuối Năm Viết Cho Má” (Phạm Cao Hoàng, Duồng Một Thời Biển Mặn)
Đêm nay con ngồi một nơi rất xa má
Đếm tuổi con bằng nước mắt mẹ đong
Trong đêm thoảng giọng hiền má gọi
Con vừa nghe, muốn khóc, rất bâng khuâng
…
Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?
Một điều chúng ta dễ nhận ra thơ của những nhà thơ mặc áo lính miền Nam chưa bao giờ nói lên sự căm thù đối phương bằng những câu thơ đầy máu lửa, phần lớn nói lên sự chán ghét chiến tranh. Chiến tranh đối với họ chỉ là con ác thú quái gở chuyên ăn thịt người. Họ không tự nguyện chọn lựa chiến tranh mà bắt buộc tham gia một cách miễn cưỡng nên thơ chỉ là tiếng thở dài u uất, bế tắc: “Có kẻ dạy ta về chủ nghĩa/ta nghe mà có hiểu gì đâu/chỉ biết xót xa rừng tít biển/lòng đau như mìn chặt chân cầu”
Nỗi buồn như ngấm sâu vào da thịt:
Ta ngồi trong mưa, người trong mưa
trên hai mái đầu trời thật thấp
người lạ lắm không bao giờ hẹn trước
ta rồi cũng quen cảnh đợi chờ
…
Lúc nào ta cũng nghĩ một ngày
bỏ súng về ôm những gốc cây
tìm hốt hết thịt xương đồng loại
ôm thật đầy trên những cánh tay
(Trong Đêm Mưa Tiền Đồn)
“Dưới chân đồi Pá, đêm thật im vắng chờ đợi phút giây chết chóc xảy đến, người lính tôi hoàn toàn tự do trút những ý nghĩ chân thật của mình về cuộc chiến lên vỏ bao thuốc lá chờ sáng mai chép lại gởi bạn bè văn thơ đọc”. Đó là đoạn tự sự của nhà thơ khi viết bài “Đêm Kích Dưới Chân Đồi Pá – 1970”
Dù đợi người qua trên lối chết
lạ sao tôi thấy rất bâng khuâng
có rất nhiều điều thật khó nói
đêm sơ giao sẽ chỉ một lần
…
Cỏ ơi, có thấy ai trên đồi
vẫn thường vác hận thù đi xuống?
mà sao ta thấy cỏ không vui
cỏ lạnh lùng hơn là sương mỏng.
Nguyễn Dương Quang còn nhắc hai kỷ niệm vui về bài thơ nầy: “1- Một hôm, Huỳnh Hữu Võ đưa cho tôi tờ Khởi Hành số 29, bảo mở ra xem. Tôi thật bất ngờ khi thấy bài thơ Đêm Kích Dưới Chân Đồi Pá được in ở góc trên một trang bên phải, đặc biệt có tranh minh họa của họa sĩ Nguyễn Hải Chí vẽ một thiếu nữ có mái tóc dài bồng bềnh thật dễ thương. Tôi hỏi “Ông gởi phải không?” Huỳnh Hữu Võ không đáp, chỉ cười… Tôi nhảy múa hò reo. Chiều đó tôi đãi ra trò bạn văn nghệ, vừa lai rai, vừa đọc, ngâm thơ, đàn ca sáo thổi. 2- Ít lâu sau, một hôm tôi theo Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Như Mây, Lê Nguyên Ngữ đến dự buổi đọc thơ do Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Thuận Hải tổ chức (lúc nầy Thuận Hải chưa tách thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận). Tôi nhìn quanh trong hội trường thấy lưa thưa vài “ngụy”, một số ít bộ đội, còn lại đa số là cán bộ chắc cũng xuất thân từ bộ đội. Khi được giới thiệu đọc thơ, tôi quyết định “thử phổi” cả hội trường và cả tôi bằng bài Đêm Kích Dưới Chân Đồi Pá, không ngờ lại “thành công tốt đẹp”, bình an vô sự, những tiếng khen nhân văn, nhân bản râm ran.”
Sau cuộc đổi đời 1975, khi cải tạo về, anh nhận ra thực tế cuộc sống có những điều mà sách vở, chủ nghĩa gì đó không hề dạy ta được điều gì mà phải học từ cuộc sống, hoàn cảnh thực tế của mỗi con người, từ đó anh đã tập làm quen với thói đời đen trắng nhưng không để tâm hồn mình gục ngã trước hoàn cảnh khó khăn nghiệt ngã:
Ta đã sống những ngày như đùa
Với trần gian mù mờ vinh nhục
Vô ích như lời thơ tiếng hát
Chuyện đời ai luận lẽ thắng thua
Một chút bông đùa cho số phận nhưng nó cũng nói lên được hoàn cảnh chung của những người lính miền Nam phải đối diện với hoàn cảnh mình phải cam chịu, phải chăng chính nhờ thế giúp anh đã vượt qua được nghịch cảnh?
Cải tạo về, lên non phát rẫy
Vợ lo phe phẩy, ta tiều phu
Độc lập tự do hạnh phúc nhất
Vừa làm chủ vừa làm bí thư
(Ngày Về)
Để từ đó nghêu ngao với chiếu thơ chén rượu, với mộng tưởng mông lung, ngồi nghe tiếng suối róc rách mà ôm đàn hát cùng mây gió trăng thanh: (Thế gian chết hết chỉ còn đêm/và một mình ta với cây đàn/rượu lẫn sương trào lăn chiếu đá/trăng mờ nghiêng ngả phía đầu non)
Đêm xưa… đêm xưa… thương Đặng Dung
đêm xưa… đêm xưa Đường minh Hoàng
a ha! Đời ta thanh gươm cùn
về đâu… về đâu… đâu hồng nhan?
(Đêm Cam Ly Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình)
Hay trong một bài thơ khác:
Nàng trăng đẹp quá lại gần đây
đất bỏ trời buông nhé! đêm nay
thế gian biết có còn ai thức
hồn ta sân vắng quá trăng ơi
Gió mây mây gió hãy ngừng bay
chở mộng lòng ta ghé bến nầy
rượu hết đàn im mây gió sẽ
bay mãi ngàn năm, ta vẫn đây
(Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình-2012)
Khi người ta già, gặp lại người xưa cũng chỉ còn là những phút giây hoài niệm, những kỷ niệm cứ thế ùa về. Trong nhiều bài thơ khác Nguyễn Dương Quang đã bộc lộ một tình cảm dạt dào như thế:
Tấm hình người bạn gái
theo suốt thời chiến tranh
cuối cùng không giữ được
buồn biết bao! Cũng đành…
Mai người thành chim biển
tôi quay lại núi cao
nhìn mắt nhau cười thấy
năm mấy năm là bao!
(Ghi Nhanh Nhân Ngày Gặp Lại Ở Nha Trang-2012)
Và đây nữa:
Tóc buồn rũ mái âm u
tháng ngày băng giá, lời ru bọt bèo
đời thôi, quên nhớ đã nhiều
còn thương vạt nắng bên đèo chiều nao.
(Còn Thương Vạt Nắng Bên Đèo -2006)
Tình cảm của Nguyễn Dương Quang đối với bạn bè thật chân tình và thân thiết, cũng chính vì thế khi họ viết về anh tình cảm cũng gần gũi trân trọng như thế. Họa sĩ Đinh Cường mỗi lần về Đà Lạt đều ghé thăm anh và nhớ mãi những phút giây nhìn anh chìm đắm với cây đàn:
Lần lên tháng mười một hoa quỳ nở đầy
ôi con dốc Prenn. bao nhiêu lần lên xuống
cứ từ Sài Gòn lên đến đèo Prenn là lạnh là vui
vui như Nguyễn Dương Quang ôm đàn và hát…
(Nhớ Đêm Chia Tay Ở Khách Sạn Bông Hồng-2014)
Trong mắt nhà nhà văn Phạm Văn Nhàn anh là: “Một người lính biết ôm đàn ca hát, mỗi khi gặp anh em trong những buổi sinh hoạt văn nghệ văn học tỉnh nhà khi Nguyễn Dương Quang không bận hành quân”. Còn cô giáo Hoàng Kim Oanh dựa vào một bài thơ phổ nhạc của anh nói thơ anh là “Khúc rong ca của kẻ lãng du”. Nhà thơ Nguyễn Thị Liên Tâm có cái nhìn khác về anh thông qua sở thích của người nghệ sĩ: “Thơ ca, âm nhạc giúp cho con người dễ xích lại gần nhau hơn. Nguyễn Dương Quang đã đến với bằng hữu cũng từ con đường thơ và sau này là âm nhạc. Một giọng thơ hào sảng, rất đời và rất sâu nặng ân tình.” Nhà văn Trần Hoài Thư khi nghe tin anh mất bộc lộ cảm xúc chân thật nhất về anh: “Nhớ anh, xa xôi ngàn trùng, chỉ còn để lòng ràn rụa. Dù quen tên nhưng chưa một lần thấy mặt. Vậy mà tưởng chừng đã quá quen thân. Nhớ anh, biết rằng, rồi cuối cùng, ai cũng phải về một cõi, vậy mà tại sao, cảm thấy quá buồn.”
*
Tập thơ “Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình” là tập thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Dương Quang, ngoài một số bài thơ ít ỏi viết về thời đi học, thời làm lính trong chiến tranh, đa số các bài thơ còn lại của anh viết sau ngày đất nước thống nhất, thơ anh mang “…phảng phất một nỗi buồn mang mang thiên cổ về kiếp người, về quê hương, về sự bất lực trước thời gian vô tình.”(Vũ Thanh Sơn), “…Thơ đến với Nguyễn Dương Quang rất tự nhiên như một hơi thở. Mà tự nó nói lên đước cái tâm thiện của người lính trận.”(Phạm Văn Nhàn). Tôi chợt nhớ mấy câu thơ anh viết trong bài tản văn Nửa Đêm Chợt Nhớ Bài Thơ Cũ: “Tuổi già ngồi nhớ vu vơ/xa xưa…một cõi đời Thơ chiến trường”, bây giờ cái nỗi nhớ vu vơ ấy cùng đời thơ chiến trường kia không còn làm bận lòng nhà thơ nữa. Anh đã được trở về chốn cũ của xứ sở sương mù, không còn lang thang trong những đêm dài của cõi tạm đầy nhiễu nhương. Anh ngao du ôm đàn hát một mình, hát cùng gió núi mây ngàn, thong dong tự tại và sẽ tiếp tục làm thơ viết nhạc ở một nơi nào đó mà tình người không còn lấy đi của chúng ta những giọt nước mắt sầu bi nữa nhà thơ Nguyễn Dương Quang nhé.
Khi rời Khách sạn Bông Hồng tôi còn kịp nhận ra những cánh hồng nhiều màu sắc còn đẫm sương đêm đang bắt đầu lung linh trong nắng sớm. Tạm biệt Đà Lạt, chia tay anh nhé, anh Nguyễn Dương Quang, anh đã yên nằm trên vùng đất quê nhà của anh – D’ran, cái thị trấn thơ mộng đã nuôi dưỡng một thời thơ ấu của anh, nơi có dấu chân bạn bè thuở trước, nơi có Đinh Cường vẽ những bức tranh sương khói, nơi Trịnh Công Sơn những buổi đi về gởi thư cho người con gái có tên Dao Ánh để rồi mấy mươi năm sau xuất hiện một tác phẩm tuyệt vời làm thổn thức bao trái tim những kẻ yêu nhau…
Tôi yêu Dran hơn yêu tôi, Dran làm sao biết được!
tôi là giọt sương Dean sớm, giọt sươn Dran chiều
tôi yêu ai hơn yêu tôi, ai làm sao biết được!
ngày ai chưa biết làm duyên, tôi vừa biết yêu
(Dran, Ngày Về)
tôi bỗng chợt nhớ một bài thơ khác của anh viết về phố núi:
Đà Lạt mùa xuân những nụ hồng
Nắng vàng tơ lụa, cỏ xanh nhung
Thực, ảo như người mình yêu dấu
Nhà em chìm bên kia đồi thông.
…
Đà Lạt chiều xuân buồn nhè nhẹ
Như chàng thi sĩ đợi hoàng hôn
Ta trải hồn chơ bên dốc nhỏ
Nghe thoáng làn hương gót chân quen.
Sài Gòn, bên bờ Kênh Tẻ,
Nguyễn An Bình
Tham khảo:
1- Duồng, Một Thời Biển Mặn của Phạm Cao Hoàng.
2- Tính Nhân Bản Trong Văn Chương Thời Chiến Qua Thơ Nguyễn Dương Quang của Trần Hoài Thư.
3- Nguyễn Dương Quang Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình của Phạm Văn Nhàn.
4- Tập San Quán Văn số 70: D’ran Miền Sương Khói.
5- Nửa Đêm Chợt Nhớ Bài Thơ Cũ của Nguyễn Dương Quang.
Nguồn: https://t-van.net/nguyen-an-binh-nguyen-duong-quang-nguoi-om-dan-hat-mot-minh-giua-dran-suong-khoi/