Mùa thu đã chiếm một vị trí độc đáo trong gia tài thơ văn của nhân loại. Mùa thu là niềm gợi hứng cho các thi văn sĩ tự cổ chí kim. Chúng ta chắc không ai quên được những vần thơ tuyệt tác về thu của… Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Tản Đà, Paul Verlaine, Guillaume Apollinaire v.v… Riêng trong kho tàng thơ văn cổ điển của Trung hoa, mùa thu buồn là một đề tài truyền thống rất được các văn thi sĩ ưa chuộng, và được dùng làm bối cảnh khi tác giả muốn phơi bày một tâm sự không vui.
Mùa thu hình như được định mệnh gắn liền với một cái gì buồn bã. Trong Hán tự, chữ sầu 愁 (buồn bã) gồm có chữ thu 秋 (mùa thu) ở trên và chữ tâm 心 (con tim) ở dưới, có thể suy diễn là con tim vào mùa thu làm sao mà vui được. Do đó, khi nói đến thu người ta mường tượng ngay đến cảnh trí tiêu điều, lá rơi hoa rụng, gió thổi thê lương, chim chóc kêu thê thiết, côn trùng khóc rỉ rả, người nhớ người, người nhớ cảnh, lòng sầu ảm đạm day dứt khôn nguôi. Và đó là những điều chúng ta gặp khi điểm qua các bài thơ, các bài tự, các bài phú của nền văn học cổ Trung hoa. Ở đây chúng tôi xin được giới hạn từ cổ đại đến hết nhà Tống, nhưng đặc biệt chỉ chú trọng nhất vào đời Đường (618-907) và Tống (960-1279).
Người đầu tiên tả mùa thu một cách tỉ mỉ và có hệ thống là Tống Ngọc 宋玉 (người nước Sở đời Chiến quốc, sống sau Khuất Nguyên 屈原). Ông là một tay cự phách về Sở từ và là người khai sáng ra thể Phú, một thể văn ở giữa văn xuôi và thơ, nói thẳng vào sự vật mà không so sánh quanh co gì cả (trực trần kỳ sự 直陳其事). Ông cũng có tâm sự bất đắc chí như Khuất Nguyên thành ra giọng văn ông thật bi thảm. Bài ông tả về thu là một đoạn ngắn ở trong tác phẩm Cửu Biện (九辨). Tuy ngắn nhưng được xem là một trong những đoạn văn tả về thu hay nhất của Trung hoa, đem lại cho người đọc một cái cảm giác bi ai tịch mịch:
“Bi tai thu chi vi khí dã, tiêu sắt hề thảo mộc dao lạc nhi biến suy.
Liệu lật hề nhược tại viễn hành, đăng sơn lâm thủy hề tống tương quỵ
Quyết liệu hề thiên cao nhi khí thanh, tịch liêu hề thu lạo nhi thủy thanh.
…
Yến phiên phiên kỳ từ quy hề, thiền tịch mịch nhi vô thanh,
Nhạn ung ung nhi nam du hề, côn kê trù chiết nhi bi minh.
Độc thân đán nhi bất mị hề, ai tất suất nhi tiêu chinh.
Thời vỉ vỉ nhi quá trung hề, kiển yêm lưu nhi vô thành.
…”
九 辩
悲 哉 !秋 之 為 氣 也。蕭 瑟 兮,草 木 摇 落 而 變 衰。
憭 栗 兮,若 在 遠 行。登 山 臨 水 兮,送 將 歸。
泬 寥 兮,天 高 而 氣 清;寂 寥 兮,收 潦 而 水 清。
…
燕 翩 翩 其 辭 歸 兮,蟬 寂 漠 而 無 聲。
雁 噰 噰 而 南 游 兮,鵾 雞 啁 哳 而 悲 鳴。
獨 申 旦 而 不 寐 兮,哀 蟋 蟀 之 宵 征。
時 亹 亹 而 過 中 兮,蹇 淹 留 而 無 成。
Tạm dịch ra tiếng Việt như sau:
“Khí vị mùa thu thật buồn thay! Cây cỏ úa, lá tàn rụng. Thê lương như khi đi xa, trèo núi lội sông mà đưa tiễn người về. Trời cao quang đãng, khí trong. Cô tịch thay, lụt đã rút mà nước trong.”
..
Chim én vùn vụt từ giã bay đi, ve sầu im lặng không lên tiếng, nhạn cùng nhau bay qua Nam, gà chim chíp kêu bi ai. Thức một mình tới sáng không chợp mắt, buồn thương con dế thui thủi trong đêm. Đã cố gắng hơn nửa đời người, lao đao trôi giạt mà không đạt được gì..”
Lồng trong đoạn tả cảnh này, Tống Ngọc đã thêm vào ít câu nói lên tình huống chua xót của mình, thân phận một kẻ lẻ loi không bạn bè, không quan tước, hoàn cảnh và tâm sự không khác gì Khuất Nguyên.
Đây là lần đầu tiên trong văn học Trung hoa có được một đoạn văn tả về thu một cách trực tiếp, đầy đủ chi tiết và mang một giọng buồn thảm như vậy. Rồi từ đó, trải qua mấy ngàn năm, mùa thu đã trở thành bối cảnh để cho các thi sĩ bày tỏ cảm xúc của mình, từ những nét chấm phá lãng mạn của Lý Bạch, nét tiêu sái của Vương Duy, đến nỗi buồn ai oán của Bạch Cư Dị, vẻ nghiêm túc của Thượng quan Nghi v.v. Tuy nhiên, phải đợi đến Âu dương Tu đời Tống, chúng ta mới có được một bài văn tả mùa thu một cách tỉ mỉ và quy mô. Âu dương Tu là một trong Đường Tống bát đại gia 唐宋八大家 (Hàn Dũ 韓愈, Liễu tôn Nguyên柳宗元 , Âu dương Tu 歐陽修, Tăng Củng 曾鞏, Vương An Thạch 王安石, Tô Tuân 蘇洵, Tô Thức 蘇軾 tức Tô Đông Pha 蘇東坡, Tô Triệt 蘇轍). Bài Thu thanh phú (秋聲賦) của ông được coi là một trong những bài tả mùa thu hay nhất của nhân loại. Ông đi vào mùa thu qua âm thanh, cái mà ông gọi là tiếng thu. Qua tiếng thu, ông nói đến hình dáng, khí vị, ý của mùa thu rồi nhân đó đề cập đến kiếp nhân sinh và than thở cho thân phận vất vả của con người. Bài Thu thanh phú gồm độ 500 chữ và có nội dung như sau:
Đêm khuya Âu dương Tu nằm đọc sách bỗng nghe một thứ tiếng động lạ từ hướng tây nam, bèn bảo đồng tử ra xem. Cậu bé xem xong bảo rằng không thấy gì cả, chỉ nghe tiếng phát ra từ lùm cây. Ông bèn bảo rằng đó là tiếng thu đấy. Rồi ông dùng một đoạn để nói về cảnh điêu lạc của mùa thu. Đoạn kế tiếp ông luận về thu dựa trên âm dương ngũ hành, lẽ thịnh suy của trời đất. Sau đó, ông lại liên tưởng đến kiếp người phải lao đao khổ ải. Khi ông than xong và quay lại thì đồng tử đã ngủ mất, chỉ còn có tiếng côn trùng rỉ rả góp thêm lời than thở với ông.
Qua bài này, chúng ta được biết một số chi tiết lý thú về mùa thu theo quan niệm Trung hoa thời xưa. Mùa thu là mùa của hình tội, vì theo luật lệ nhà Chu, đến mùa thu các quan mới đem tội nhân ra xử, cho rằng như thế thì hợp với đạo trời viện lẽ là mùa thu là mùa của điêu linh, chứa đầy sát khí. Mùa thu thuộc âm, cùng với mùa đông. Còn trong ngũ hành, thu thuộc kim. Kim là sắt, nguyên liệu để làm binh khí, thành ra thu cũng mang thêm ý nghĩa tàn sát. Thật là khác xa với các ý tưởng lãng mạn về thu của các thi sĩ cận đại. Trong ngũ âm (cung, thương, giốc, chủy, vũ), tiếng thương thuộc kim như mùa thu, thành ra tiếng thương là tiếng của mùa thu. Và chữ thương này cũng đồng âm với chữ thương có nghĩa là bi thương, do đó tiếng thu buồn bã là chuyện đương nhiên. Chúng ta thử đọc đoạn tả mùa thu:
“Cái phù thu chi vi trạng dã, kỳ sắc thảm đạm, yên phi vân liễm, kỳ dung thanh minh, thiên cao nhật tinh; kỳ khí lật liệt, biêm nhân cơ cốt; kỳ ý tiêu điều, sơn xuyên tịch mịch. Cố kỳ vi thanh dã, thê thê thiết thiết, hô hào phấn phát. Phong thảo lục nhục nhi tranh mậu, giai mộc thông long nhi khả duyệt, thảo phất chi nhi sắc biến, mộc tao chi nhi diệp thoát. Kỳ sở dĩ tồi bại linh lạc giả, nãi nhất khí chi dư liệt”.
„…蓋夫秋之為狀也:其色慘淡,煙霏雲斂;其容清明,天高日晶;其氣慄冽,砭人肌骨;其意蕭條,山川寂寥。故其為聲也,淒淒切切,呼號憤發。豐草綠縟而爭茂,佳木蔥籠而可悅;草拂之而色變,木遭之而葉脫;其所以摧敗零落者,乃其一氣之餘烈“
(Nghĩa : Ôi tình trạng mùa thu, sắc ảm đạm, khói bay ra, mây thu lại, vẻ trong sáng, bầu trời cao, mặt trời sáng; khí lạnh lẽo, châm chích thịt xương, ý tiêu điều, núi sông tịch mịch. Cho nên tiếng mùa thu thê thiết, ồn ào nổi dậy. Cỏ đang xanh rậm tranh nhau tươi tốt, cây đang xum xuê vui vẻ mà bị (khí thu) dính vào thì cỏ úa, cây rụng lá. Do đó cây cỏ tiêu điều hư hao là vì cái khí khốc hại của mùa thu).
Sau khi gán cho mùa thu cái vẻ hắc ám thê thảm trên, Âu dương Tu liên tưởng đến kiếp người:
“…Thảo mộc vô tình, hữu thời phiêu linh; nhân vi động vật, duy vật chi linh; bách ưu cảm kỳ tâm, vạn sự lao kỳ hình; hữu động hồ trung, tất dao kỳ tinh; nhi huống tư kỳ lực chi sở bất cập, ưu kỳ trí chi sở bất năng; nghi kỳ ác nhiên đan giả vi cảo mộc, y nhiên hắc giả vi tinh tinh.”
„… 草木無情,有時飄零。人為動物,惟物之靈。百憂感其心,萬事勞其形。有動于中,必搖其精。而況思其力之所不及,憂其智之所不能;宜其渥然丹者為槁木,黟然黑者為星星“。
(Nghĩa: Cây cỏ vô tình, có lúc phải điêu linh; người là động vật, linh hơn mọi vật; trăm lo làm động lòng, vạn sự làm khổ thân; hễ có động thì tinh thần phải lung lay; huống hồ còn nghĩ chuyện quá sức mình, lo chuyện quá tài trí của mình, thì mặt đang hồng hào biến thành cây khô, tóc đang đen biến thành trắng xóa âu cũng là chuyện đương nhiên.).
Trên đây là hai đoạn văn xuôi (thể Phú) miêu tả mùa thu, tuy hay nhưng không khỏi có vẻ khô khan vì hơi có tính cách nghị luận, phân tích. Trong phần kế tiếp, chúng ta sẽ được nhìn thu dưới một nhãn quan khác, lãng mạn hơn, nặng về xúc cảm hơn, của các thi sĩ. Chữ lãng mạn đây xin được hiểu theo nghĩa tương đối, vì chúng ta không thể nào bắt các nhà thơ Đường cổ điển có được những vần thơ trữ tình ướt át như Lưu trọng Lư, Xuân Diệu, Lamartine hay Paul Verlaine được. Mùa thu ở đây được dùng như là khung cảnh để nói lên tâm trạng của tác giả, nghĩa là tả cảnh để tả tình vậy. Những tình cảm ở đây vẫn có tính cách chừng mực, nhẹ nhàng và khuôn thước của lễ giáo.
Tuy được ưa chuộng, nhưng mùa thu không phải là mùa được các thi sĩ nhắc đến nhiều nhất. Mùa thu còn phải đứng sau mùa xuân. Trong khoảng 300 bài thơ được tuyển chọn trong Đường thi tam bách thủ, chỉ có 11 bài nhan đề có chữ thu, trong khi chữ xuân có đến 14 bài. Lý Bạch, thi tiên của Trung hoa, có rất nhiều bài nhắc đến mùa thu, nhưng cũng không nhiều bằng mùa xuân. Ngay cả Tô Thức (Tô Đông Pha) cũng có vẻ thiên vị mùa xuân, khi ông viết trong bài Pháp Huệ tự Hoành Thúy các (法惠寺横翠閣) như sau:
Nhân ngôn thu bi xuân cánh bi (Câu 10) 人 言 秋 悲 春 更 悲
(Nghĩa: Người ta bảo là thu buồn, nhưng mùa xuân lại buồn hơn).
Trong các thi sĩ cổ điển, Bạch Cư Dị 白居易và Đỗ Phủ 杜甫 là những người tương đối dùng mùa thu rất nhiều để làm hậu cảnh cho các bài thơ của họ. Dù thế nào đi chăng nữa, mùa thu cũng là mùa dễ tạo cho con người một cảm giác buồn bã, và do đó dễ làm cho tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân nảy sinh ra được những vần thơ trữ tình trác tuyệt. Nhiều khi không cần phải tả cảnh thu nhiều, chỉ cần nhắc đến tên mùa thu là đủ để tạo nên cái khung cảnh thích hợp cho một tuyệt phẩm. Chúng tôi muốn nhắc đến Tiền Xích Bích phú前 赤壁 賦 của Tô Thức 蘇軾và Tỳ bà hành 琵琶行của Bạch Cư Dị.
Hãy xem Tô Đông Pha mở đầu bài phú nổi tiếng của ông:
“Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng, Tô Tử dữ khách phiếm du chu ư Xích Bích chi hạ”.
壬 戌 之 秋,七 月 既 望,蘇 子 與 客 泛 舟 遊 於 赤 壁 之下。
(Nghĩa: Quá Rằm tháng Bảy mùa thu năm Nhâm Tuất, Tô Tử cùng khách bơi thuyền đi chơi Xích Bích).
Chữ thu chỉ xuất hiện duy nhất ở trong câu mở đề cũng đủ làm khung vải cho ngọn bút Tô Thức tạo nên những nét chấm phá như:
Nguyệt xuất ư đông sơn chi thượng, bồi hồi ư Ngưu Đẩu chi gian, bạch lộ hoành giang, thủy quang tiếp thiên.
月 出 於 東 山 之 上,徘 徊 於 牛 斗 之 閒,白 露 横 江,水 光 接 天。
(Nghĩa: Trăng mọc trên núi đông, lững thững đi giữa hai sao Ngưu Đẩu, sương trắng toả mặt sông, nước lóng lánh chạm chân trời.).
Quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang.
桂 棹 兮 蘭 槳,
撃 空 明 兮 溯 流 光。
(Phan Kế Bính dịch: Thung thăng thuyền quế chèo lan,
Theo vừng trăng tỏ vượt làn nước trong)
Cũng thế, trong Tỳ bà hành, mùa thu cũng chỉ được làm khung cảnh cho tiếng đàn tỳ bà và câu chuyện của người thiếu phụ tài sắc bị tuế nguyệt đào thải, và cũng chỉ được nhắc đến trong 2 câu thơ đầu bài:
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
潯 陽 江 頭 夜 送 客,
楓 葉 荻 花 秋 瑟 瑟。
(Phan Huy Vịnh đã dịch:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.)
(Theo thiển ý, hai câu dịch nghe thật hay và thật buồn, nhất là chữ quạnh dùng trong bản dịch thật là tuyệt tác!)
Mùa thu như thế là mùa dễ gợi hứng cho thi nhân:
Sầu nhân bạc mộ khởi,
Hứng thị thanh thu phát.
愁 因 薄 暮 起,
興 是 清 秋 發。
(Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Thu đăng Lan sơn ký Trương Ngũ 秋登蘭山寄張五 , câu 5-6)
(Nghĩa: Sầu do hoàng hôn lên,
Hứng do mùa thu phát)
Đỗ Phủ có liền một hơi tám bài Thu hứng, ý tứ và lời văn thật là sầu thảm, nhìn cảnh buồn mà nhớ lại những ngày xưa:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Bài 1, Câu 5)
叢 菊 兩 開 他 日 淚。
(Nghĩa: Tùng và cúc hai lần rơi dòng lệ ngày xưa)
Thính viên thực há tam thanh lệ (Bài 2, Câu 3)
聽 猿實 下 三 聲 淚。
(Nghĩa: Nghe vượn kêu ba tiếng nước mắt rơi)
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh (Bài 4, Câu 8)
魚 龍寂 寞 秋 江 冷。
(Nghĩa: Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh)
Bích ngô thê lão phụng hoàng chi (Bài 8, Câu 4)
碧 梧 棲 老 鳳 凰 枝。
(Nghĩa: Phụng hoàng đậu mãi trên cành ngô đồng xanh)
Cảnh mùa thu bao giờ cũng buồn cho dù có gió mát trăng thanh. Hãy xem Lý Bạch 李白 tả cảnh thu trong Thu tứ 秋思:
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư tương kiến tri hà nhật,
Thử thời thử dạ nan vi tình.
秋 風 清,秋 月 明,落 葉 聚 還 散,寒 鴉 棲 復 驚,相 思 相 見 知 何 日,此 時此 夜 難 為 情。 …
(Nghĩa: Gió thu trong, trăng thu sáng.
Lá rơi hợp rồi tan, quạ lạnh đậu giật mình.
Nhớ nhau nhưng biết ngày nào thấy nhau,giờ này đêm này biết bao tình).
Trong một bài khác, ngòi bút Lý Bạch lại có vẻ thê lương hơn:
Vân yên hàn quất trục,
Thu sắc lão ngô đồng.
雲 烟 寒 橘 柚,秋 色 老 梧 桐。
(Thu đăng Tuyên thành Tạ Diểu Bắc lâu, 秋登宣城謝朓北樓 câu 5-6 )
(Nghĩa: Mây khói làm lạnh cây quất trục,
Hơi thu làm già úa cây ngô đồng.
Mùa thu làm Đỗ Phủ buồn nhớ quê hương:
Cựu quốc kiến hà nhật,
Cao thu tâm khổ bi.
舊 國 見 何 日,高秋 心 苦 悲 。
(Đỗ Phủ, Bạc mộ薄 暮 , câu 5-6)
(Nghĩa: Ngày nào thấy lại đất nước cũ,
Trời thu cao khiến lòng buồn khổ)
Giọng văn tả cảnh mùa thu của Bạch Cư Dị (白居易) lại còn ai oán bi thảm hơn trong Thu giang tống khách (秋江送客):
Thu hồng thứ đệ quá,
Ai viên triêu tịch văn.
秋 鴻 次 第 過,哀 猿 朝 夕 聞。
(câu 1-2)
(Nghĩa: Mùa thu chim hồng bay qua mấy lần,
Vượn sớm tối kêu thảm thiết
và
Yên ba sầu sát nhân
烟 波 愁 殺 人。(câu 8).
(Nghĩa: Khói sóng buồn chết người).
Ông cũng có một bài có tên là Thu tứ 秋思 , xin độc giả đối chiếu với bài cùng tên của Lý Bạch được viện dẫn ở trên:
Tịch chiếu hồng vu thiếu,
Tình không bích thắng lam.
Thú hình vân bất nhất,
Cung thế nguyệt sơ tam.
Nhạn tứ lai thiên Bắc,
Châm sầu mãn thủy Nam.
Tiêu điều thu khí vị,
Vị lão dĩ thâm am.
夕 照 紅 于 燒 ,晴 空 碧 勝 藍,
獸 形 雲 不 一,弓 勢 月 初 三。
雁 思 來 天 北,碪 愁 滿 水 南。
蕭 條 秋 氣 味,未 老 已 深 諳。
(Nghĩa: Buổi chiều, mặt trời đỏ như thiêu,
Trời tạnh, màu biếc nhiều hơn màu lam.
Mây hình như các con thú,
Trăng Mùng Ba giống cái cung.
Chim nhạn từ Bắc bay về,
Tiếng chày buồn vang khắp sông miền Nam.
Sắc thu thực là buồn bã,
Chưa già nhưng cũng đã hiểu sâu được.)
Trong câu 6, Bạch Cư Dị đề cập đến tiếng chày. Đây là tiếng chày giặt áo. Người Trung hoa thời đó bỏ đồ giặt vào trong cối đá, và dùng chày giã cho sạch thay vì vò bằng tay. Và mùa thu là mùa họ giặt nhiều nhất.
Trong một bài khác, Bạch Cư Dị cũng nhắc đến tiếng chày:
Tỉnh ngô lương diệp động
Lân chử thu thanh phát
井 梧 涼 葉 動,
鄰 杵 秋 聲 發。
(Bạch Cư Dị, Tảo thu độc dạ 早秋獨夜 , câu 1-2)
(Nghĩa: Lá cây ngô đồng bên giếng lay động,
Cái chày hàng xóm phát ra tiếng thu)
Và chúng ta cũng hãy nghe thử tiếng chày qua ngòi bút của một thi sĩ khác:
Tinh hà thu nhất nhạn,
Chiêm can dạ thiên gia.
星 河 秋 一 雁,
砧 杵 夜 千 家。
(Vi Nhất 韓 翃, Thù Trình Duyên Thu dạ tức sự kiến tặng 酬程延秋夜即事見贈 , (câu 3-4)
(Nghĩa: Một con nhạn bay qua Ngân hà,
Hàng ngàn nhà vang tiếng chày)
Ngoài tiếng chày giặt áo ra, một loại tiếng thu khác cũng được nhắc nhở nhiều, đó là tiếng côn trùng:
Thiết thiết ám song hạ,
Yêu yêu thâm thảo lý.
Thu thiên tư phụ tâm,
Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
切 切 暗 窗 下,喓 喓 深 草 裏。
秋 天 思 婦 心,雨 夜 愁 人 耳。
(Bạch Cư Dị, Thu trùng 秋蟲)
(Nghĩa: Eo óc dưới cửa sổ,
Rả rích trong đám cỏ dày.
Trời thu làm người đàn bà nhớ chồng,
Đêm mưa làm buồn tai người)
Nếu tiếng chày mà được cộng thêm tiếng của côn trùng thì quả thật là não lòng:
Thùy gia châm chử tịch liêu trung.
Thiền thanh đoạn tục bi tàn nguyệt,
Huỳnh diệm cao đê chiếu mộ không.
誰 家 砧 杵 寂 寥 中。
蟬 聲 斷 續 悲 殘 月,
螢 燄 高 低 照 暮 空。
(Đỗ Phủ, Tân thu新秋 , câu 4-6)
(Nghĩa: Tiếng chày nhà ai trong thanh vắng,
Tiếng ve đứt nối thương trăng tàn,
Lửa đom đóm cao thấp chiếu trời chiều)
Khi nói đến mùa thu, người ta lại thường hay nghĩ ngay đến lá rơi, hoa rụng. Thơ văn cổ điển Trung hoa cũng không ra ngoài biệt lệ đó. Lá rơi báo cho mọi người biết là mùa thu đã tới:
Hoài nam nhất diệp hạ,
Tự giác Động đình ba.
淮 南 一 葉 下,自 覺 洞 庭 波。
( Hứa Hồn 許渾 , Tảo thu 早秋, câu 7-8)
(Nghĩa: Phía nam sông Hoài một chiếc lá rụng,
Động đình hồ bỗng phát ra sóng thu)
Lá rơi cũng làm xúc động lòng người bần sĩ không gặp thời, lang thang nơi đất lạ:
Lạc diệp tha hương thụ,
Hàn đăng độc dạ nhân.
落 葉 他 鄉 樹,
寒 燈 獨 夜 人。
(Mã Đái 馬戴 , Bá thượng thu cư 灞上秋居, câu 3-4).
(Nghĩa: Lá của cây đất khách rơi,
Ngọn đèn lạnh đêm soi người cô độc.
Nhìn lá thu rơi, thi nhân lại ngẫm nghĩ đến thân phận xế chiều của mình, bao nhiêu ước vọng ngày xanh đã thành bọt sóng:
Trì trì bạch nhật vãn,
Niệu niệu thu phong sinh.
Tuế hoa tận dao lạc,
Phương ý cánh hà thành.
遲 遲 白 日 晚。
裊 裊 秋 風 生。
歲 華 盡 搖 落。
芳 意 竟 何 成 。
(Trần tử Ngang陳子昂, Cảm ngộ 感遇 (bài 2), câu 5-8)
(Nghĩa: Chầm chậm ngày dần xuống,
Nhè nhẹ gió thu sinh.
Năm qua hoa rơi tàn hết,
Mộng đẹp ngày xưa bao giờ thành tựu.)
Đối với người chinh phụ đang trông chờ chồng, lá rơi lại còn làm thương tâm thêm:
Yên Chi hoàng diệp lạc,
Không bi huệ thảo tồi.
燕 支 黄 葉 落 ,
空 悲 蕙 草 摧 。
(Lý Bạch 李白, Thu tứ 秋思, câu 1 và 8. Ghi chú: Lý Bạch có nhiều bài Thu tứ)
(Nghĩa: Lá vàng rụng ở núi Yên Chi,
Thương hoa huệ bị tàn phai)
Trong một bài nhạc phủ nổi tiếng khác, Lý Bạch cũng nói lên nỗi niềm một người vợ trẻ nhớ chồng mùa thu khi nhìn lá thu rơi và ngắm đôi bướm tháng tám bay lượn bên vườn phía Tây:
Lạc diệp thu phong tảo,
….
Cảm thử thương thiếp tâm,
Tọa sầu hồng nhan lão.
落 葉 秋 風 早。
… 感 此 傷 妾 心,
坐 愁 紅 顏 老。
(Lý Bạch, Trường Can hành 長干行 , câu 22, 25-26)
(Nghĩa: Lá rụng, gió thu sớm,
….
Thấy vậy đau lòng thiếp,
Ngồi buồn mặt mày già đi.)
Người thiếu phụ nhớ chồng nhưng không nhận được tin tức, lúc nào cũng nghĩ đến hình ảnh buổi chia tay:
Tương tư trở âm tức,
Kết mộng cảm ly cự
相 思 阻 音 息,
結 夢 感 離 居 。
(Tiêu Khác 萧悫 (thời Bắc Triều), Thu tứ 秋思, câu 7-8)
(Nghĩa: Nhớ nhau mà không có tin tức,
Toàn mơ thấy tình cảnh lúc chia tay.)
Cũng tả cảnh nhớ chồng, giọng văn của Vương Duy (thường được gọi là Thi Phật) tương đối nhẹ nhàng, siêu thoát hơn. Vì ông cũng là một họa sĩ tài ba, nên bài thơ của ông cũng giống như một bức Thủy mặc, chỉ cần một vài nét chấm phá nhỏ là đủ nói lên toàn ý của tác giả:
Quế phách sơ sinh thu lộ vi,
Khinh la dĩ bạc vị cánh y.
Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng,
Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy.
桂 魄 初 生 秋 露 微 ,
輕 羅 已 薄 未 更 衣 。
銀 箏 夜 久 殷 勤 弄 ,
心 怯 空 房 不 忍 歸 。
(Vương Duy 王維, Thu dạ khúc 秋夜曲)
(Nghĩa: Trăng mới sinh, sương thu mỏng,
Áo lụa mỏng chưa chịu thay.
Đêm khuya ân cần gảy đàn tranh,
Lòng sợ phòng vắng không dám về.)
Chúng ta hãy xem thêm ít câu tả cảnh chiều thu của Vương Duy, để thấy rằng câu thi trung hữu họa (trong thơ có tranh vẽ) không phải là điều nói ngoa:
Không sơn tân vũ hậu,
Thiên khí vãn lai thu,
Minh nguyệt tùng gian chiếu,
Thanh tuyền thạch thượng lưu.
空 山 新 雨 後,
天 氣 晚 來 秋。
明 月 松 間 照,
清 泉 石 上 流。
(Vương Duy, Sơn cư thu minh, 山居秋暝câu 1-4)
(Nghĩa: Núi vắng vừa mưa xong,
Khí trời chiều đượm vẻ mùa thu.
Trăng sáng chiếu giữa cây thông,
Suối trong chảy trên phiến đá)
Lá thu rơi một phần cũng vì có gió. Do đó gió thu cũng được các thi nhân nhắc đến khá nhiều. Chúng ta hãy nghe một bài hát về gió thu:
Hà xứ thu phong chí,
Tiêu tiêu tống nhạn quần.
Triêu lai nhập đình thụ,
Cô khách tối tiên văn.
何 處 秋 風 至?
蕭 蕭 送 雁 群 ,
朝 來 入 庭 樹 ,
孤 客 最 先 聞。
(Lưu Vũ Tích劉禹錫, Thu phong dẫn 秋風引)
(Nghĩa: Gió thu từ xứ nào đến,
Hiu hắt tiễn đưa bầy chim nhạn.
Buổi sáng tới nhập vào cây trước sân,
Người khách một mình nghe trước tiên)
Cùng tả nhắc đến gió thu, giọng văn của Thượng quan Nghi có vẻ nghiêm nghị chững chạc hơn, đúng là tác phong của một ông quan trên đường đi vào Triều:
Thước phi sơn nguyệt thự,
Thiền táo dã phong thu.
鵲 飛 山 月 曙,
蟬 噪 野 風 秋。
(Thượng quan Nghi上官儀 , Nhập triều lạc đê bộ nguyệt 入朝洛堤步月, câu 3-4)
(Nghĩa: Quạ bay, trăng núi sáng,
Gió đồng nội mùa thu mang lại tiếng ve kêu)
Gió thu cũng có khả năng làm não lòng bậc đế vương. Chúng ta hãy nghe Hán Vũ đế Lưu Triệt than thở:
Thu phong khởi hề bạch vân phi,
Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam phi.
Hoài giai nhân hề bất năng vong.
Hoan lạc cực hề ai tình đa,
Thiếu tráng kỷ thời hề nại lão hà.
秋 風 起 兮 白 雲 飛,
草 木 黄 落 兮 雁 南 歸。
懷 佳 人 兮 不 能 忘。
歡 樂 極 兮 哀 情 多。
少 壯 幾 時 兮 奈 老 何。
(Lưu Triệt (Hán Vũ đế) (汉武帝) 劉彻 , Thu phong từ 秋風辭 câu 1-2, 4, 8-9)
(Nghĩa: Gió thu lên, mây trắng bay,
Cây cỏ vàng rơi, nhạn bay về Nam.
Nhớ người đẹp, không quên được.
Vui sướng cùng cực, bi ai càng nhiều,
Tuổi trẻ qua mau, không làm gì được)
Ôi, tâm sự của bậc đế vương mà cũng não nề thế sao?
Khi đã nói đến gió, thì người ta cũng không thể quên được sương:
Bạch phát tam thiên trượng,
Duyên sầu tự cá trường.
Bất tri minh kính lý,
Hà xứ đắc thu sương.
白 髪 三 千 丈,
縁 愁 似 個 長。
不 知 明 鏡 里,
何 處 得 秋 霜。
(Lý Bạch, Thu phố ca 秋浦歌)
(Nghĩa: Tóc trắng dài ba ngàn trượng,
Theo mối sầu lại càng dài ra.
Không biết ở trong gương,
Sương thu từ đâu tới)
Nói đến mùa thu mà không nhắc đến trăng thu là một điều thiếu sót lớn.Trăng thu nhắc nhở đến sự ly biệt, đến sự cô đơn của người lính thú, đến cảnh về già của một lão tướng hết thời, đến nỗi buồn của người cung nữ bị thất sủng… Trăng thu thật là buồn:
Thiêm sầu ích hận nhiễu thiên nhai.
Chiếu tha kỷ hứa nhân trường đoạn.
添 愁 益 恨 绕 天 涯。
照 他 幾 許 人 腸 斷 。
(Bạch Cư Dị 白居易 , Trung thu nguyệt 中秋月, câu 2,7)
(Nghĩa: thêm sầu, thêm hận khắp gầm trời,
và lòng người lữ khách xa nhà:
Vị tất Tố Nga vô trướng hận,
Ngọc thiềm thanh lãnh quế hoa cô.
未 必 素 娥 無 怅 恨,
玉 蟾 清 冷 桂 花 孤。
(Án Thù 晏殊, Trung thu nguyệt 中秋月, câu 3-4)
(Nghĩa: Hằng Nga chưa chắc dã không buồn khổ,
Cóc ngọc và cây quế đều thê lương lạnh lẽo)
Và đây là trăng cô đơn của Đỗ Phủ:
Thu nguyệt nhưng viên dạ,
Giang thôn độc lão thân.
秋 月 仍 圓 夜,
江 村 獨 老 身 。
(Đỗ Phủ 杜甫, Thập thất dạ đối nguyệt, 十七夜對月câu 1-2)
(Nghĩa: Đêm trăng thu vẫn tròn,
Xóm bên sông chỉ có một thân già)
Núi thu cũng không làm cho lòng người vui hơn. Hãy nghe Bạch Cư Dị tả cảnh ông lên chơi núi sau một cơn đau dài:
Sơn thu vân vật lãnh,
Xứng ngã thanh luy nhan.
Nhân sinh vô kỷ hà,
Tâm hữu thiên tải ưu,
Thân vô nhất nhật nhàn.
山 秋 雲 物 冷,
稱 我 清 羸 顔。
人 生 無 幾 何 。
心 有 千 載 憂,
身 無 一 日 閑。
(Bạch Cư Dị 白居易, Thu sơn, 秋山câu 3-4, 9, 11-12)
(Nghĩa: Núi mùa thu mây và mọi vật đều lạnh,
Thiệt xứng với nét mặt xanh gầy của ta.
Đời người có gì đâu.
Lòng có mối lo ngàn năm,
Thân không có được một ngày nhàn nhã).
Núi thu cũng nhắc nhở đến sự chia ly, xa cách quê hương. Vi Ứng Vật nơi đất lạ gặp lại người bạn cũ đã từng sống tại Lương Châu, mừng mừng tủi tủi hàn huyên.Đến khi người bạn hỏi tại sao lâu rồi không về thăm quê, tác giả chỉ biết ngậm ngùi nhìn vào ngọn núi thu lờ mờ ẩn hiện trên sông Hoài:
Hà nhân bất quy khứ,
Hoài thượng đối thu sơn.
何 因 不 歸 去,
淮 上 有 秋 山。
(Vi Ứng Vật 韋應物, Hoài thượng hỉ hội Lương châu cố nhân 淮上喜會梁川故人, câu 7-8)
(Nghĩa: Hỏi tại sao không trở về quê,
Chỉ biết trỏ vào núi thu trên sông Hoài)
Cũng gần một hoàn cảnh, Lý Ích được gặp lại người em họ sau bao nhiêu năm ly loạn. Tác giả lại bùi ngùi nghĩ đến ngày mai người em họ lại phải lên đường đi nơi khác:
Minh nhật Ba lăng đạo,
Thu sơn hựu kỷ trùng.
明 日 巴 陵 道,
秋 山 又 幾 重?
(Lý Ích 李益 ,Hỉ kiến ngoại đệ hựu ngôn biệt , 喜見外弟又言別 câu 7-8)
(Nghĩa: Ngày mai lên đường về Ba Lăng,
Núi thu lại cách mấy trùng)
Khi nhắc đến sông thu, một số thi sĩ Trung hoa cổ điển đều nghĩ ngay tới sông Ngân, nơi có Ngưu lang Chức nữ, có lẽ vì dòng sông và hai ngôi sao này biểu hiện cho sự chia lìa của tình yêu đôi lứa. Và điểm này hơi đặc biệt, nó cũng làm cho họ nghĩ đến thân phận người cung nữ bị bỏ rơi. Và đó là một đề tài quen thuộc được biết đến dưới tên cung oán. Trong Cung từ, Cố Huống diễn tả cảnh người cung nữ ngồi một mình nhìn về phía lầu ngọc nơi vua và các cung nữ được sủng ái đang vui chơi, ca hát và nàng thấy bức màn thủy tinh được cuốn lên như đến tận Ngân hà:
Thủy tinh liêm quyển cận thu hà.
水 晶 簾 卷 近 秋 河。
(Cố Huống 顧況, Cung từ 宮詞, câu 4)
(Nghĩa: Màn thủy tinh cuốn lên tận sông thu)
Đỗ Mục tả tâm tình người cung nữ đêm thu ngồi một mình buồn ngắm sao, giọng văn tương đối nhẹ nhàng, phải nhìn kỹ lắm chúng ta mới thấy được một chút “oán” thật kín đáo trong dòng thơ:
Ngân chúc thu quang lãnh họa bình,
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh,
Thiên giai dạ sắc lương như thủy,
Tọa khán khiên ngưu chức nữ tinh.
銀 燭 秋 光 冷 畫 屏,
輕 羅 小 扇 撲 流 螢。
天 階 夜 色 涼 如 水,
坐 看 牽 牛 織 女 星。
(Đỗ Mục, 杜牧 Thu tịch 秋夕)
(Nghĩa: Đêm thu ánh đuốc bạc chiếu bình phong lạnh,
Dùng quạt lụa đánh đuổi con đom đóm.
Trên thềm đá sắc đêm trong như nước,
Ngồi nhìn 2 sao Ngưu Lang và Chức Nữ)
Mùa thu có khả năng gợi hứng cho thi nhân, nhưng cũng mang cho họ niềm nhung nhớ khôn nguôi. Ngoài việc tả cảnh vợ nhớ chồng như đã nói ở trên, thi nhân lại có một sự nhớ nhung khác: nhớ bạn. Người xưa rất coi trọng tình bạn, và trong lịch sử Trung hoa chúng ta đã thấy qua nhiều tình bạn rất vĩ đại và cảm động, chẳng hạn như Đỗ Bá và Tả Nho, Quản Trọng và Bảo thúc Nha, Kiển Thúc và Bá Lý Hề, Bá Nha và Tử Kỳ, ba anh em Lưu Quan Trương v.v…
Mạnh Hạo Nhiên một mình ở đất Tần (tức Kinh đô Trường An của nhà Đường) nhớ bạn là Tuệ Viễn thiền sư, đã làm một bài thơ nhớ bạn, trong đó hai câu cuối nghe thật là thê lương:
Nhật tịch lương phong chí,
Văn thiền đản ích bi.
日 夕 涼 風 至,
聞 蟬 但 益 悲。
(Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Tần trung cảm thu ký Viễn thượng nhân 秦中感秋寄遠上人 câu 7-8)
(Nghĩa: Ngày đêm gió lạnh thổi,
Nghe tiếng ve chỉ thêm buồn)
(Ở đây xin mở một dấu ngoặc nhỏ. Ở xứ mình, tiếng ve thường dính liền với mùa hạ, trong khi ở đây, nó lại được nhắc đến ở mùa thu. Chúng ta cũng đã nghe Tống Ngọc nhắc đến ve sầu trong đoạn văn về mùa thu trích dẫn ở trên).
Một thi nhân khác trong đêm thu đi bộ một mình cũng nhớ đến bạn mình, tình cảm thật nhẹ nhàng:
Hoài quân thuộc thu dạ,
Tản bộ vịnh lương thiên,
Không sơn tùng tử lạc,
U nhân ứng vị miên.
懷 君 屬 秋 夜,
散 步 詠 涼 天。
空 山 松 子 落,
幽 人 應 未 眠 。
(Vi Ứng Vật 韋應物, Thu dạ ký Khâu viên ngoại 秋夜寄邱員外)
(Nghĩa: Đêm thu tôi nhớ bạn,
Trời mát đi bộ ngâm thơ.
Núi vắng, quả tùng rơi,
Tôi đoán bạn giờ này cũng chưa ngủ)
Nếu người bạn đã chết, thì tình cảm lại càng thê thiết. Vương An Thạch một thời làm Tể tướng chủ trương cải cách và đứng đầu Tân phái. Ông gặp được một người tuổi trẻ tài năng trác tuyệt là Vương Phùng Nguyên, tưởng rằng người trai trẻ này có thể kế thừa mình. Nhưng không may Vương Phùng Nguyên lại mất sớm, để cho Vương An Thạch thương tiếc khôn cùng. Bài thơ thứ nhất trong ba bài thương tiếc Phùng Nguyên bắt đầu bằng hai câu nghe thật bi thảm:
Phùng cao kim nhật tưởng phân phi,
Trủng thượng thu phong hựu nhất suy.
蓬 蒿 今 日 想 紛 披,
冢 上 秋 風 又 一 吹。
(Vương An Thạch, Tư Vương Phùng Nguyên 王安石思王逢原(bài 1 trong 3 bài), câu 1-2)
(Nghĩa: Cỏ dại hôm nay tưởng đã mọc đầy,
Trên gò mả gió thu lại thổi)
Nỗi nhớ em của Đỗ Phủ cũng thật là da diết:
Thú cổ đoạn nhân hành,
Thu biên nhất nhạn thanh.
….
Hữu đệ giai phân tán,
Hữu đệ giai phân tán,
Vô gia vấn tử sinh.
Ký thư trường bất đạt,
Huống nãi vị hưu binh.
戍 鼓 斷 人 行,
秋 邊 一 雁 聲。
…
有 弟 皆 分 散,
有 弟 皆 分 散,
無 家 問 死 生。
寄 書 長 不 達,
況 乃 未 休 兵。
(Đỗ Phủ 杜甫, Nguyệt dạ ức xá đệ 月夜憶舍弟, Câu 1-2, 5-8)
(Nghĩa: Tiếng trống ngưng bước người,
Mùa thu nơi biên giới, một tiếng nhạn kêu.
….
Có em mà đều bị chia ly,
Có em mà đều bị chia ly,
Không nhà để hỏi chuyện sống chết.
Thư gởi lâu không tới,
Huống chi binh lửa còn chưa hết)
Trời thu tự nó đã buồn, nhưng nếu thi nhân gặp được một cổ tích đổ nát thì tấm lòng hoài cổ lại bùng dậy. Và do đó, xuất hiện một đề tài gọi là điếu cổ hay hoài cổ. Bà Huyện Thanh Quan của Việt Nam là một tay cự phách về đề tài này (Thăng Long Thành Hoài Cổ). Lưu Trường Khanh khi đi thăm tàn tích của Ngô công đài (tại Giang Tô Giang đô huyện ngày nay) đã viết nên bài ngũ ngôn bát cú sau:
Cổ đài diêu lạc hậu,
Thu nhật vọng hương tâm.
Dã tự nhân lai thiểu,
Vân phong thủy cách thâm.
Tịch dương y cựu lũy,
Hàn khánh mãn không lâm.
Điêu trướng Nam triều sự,
Trường giang độc chí kim.
古 台 搖 落 後,
秋 日 望 鄉 心。
野 寺 人 來 少,
雲 峰 水 隔 深。
夕 陽 依 舊 壘,
寒 磬 滿 空 林。
惆 怅 南 朝 事,
長 江 獨 至 今。
(Lưu Trường Khanh 劉長卿, Thu nhật đăng Ngô công đài thượng tự viễn diêu 秋日登吳公台上寺遠眺)
(Nghĩa: Đài xưa đã điêu linh tàn tạ,
Ngày thu lòng nhớ quê.
Chùa quê ít người lại,
Núi cao nước sâu cách trở.
Nắng chiều vẫn nương nhờ đài cũ,
Tiếng khánh lạnh bao phủ đầy rừng.
Việc cũ của Nam triều điêu tàn,
Chỉ có Trường giang là còn đến ngày nay)
Lưu Vũ Tích cũng có những câu thơ hoài cổ não lòng người khi ông viếng thăm Tây tái sơn (tại Hồ Bắc Đại Dã huyện):
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự,
Sơn hình y cựu chẩm hàn lưu
Tùng kim tứ hải vi gia nhật,
Cố luỹ tiêu tiêu lô địch thu.
人 世 幾 回 傷 往 事,
山 形 依 舊 枕 寒 流。
從 今 四 海 爲 家 日,
故 壘 蕭 蕭 蘆 荻 秋
(Lưu Vũ Tích 劉禹錫, Tây tái sơn hoài cổ, 西塞山懷古câu 5-8)
(Nghĩa: Người dời bao lần thương chuyện cũ,
Núi vẫn như cụ gối trên sông lạnh.
Kể từ bây giờ bốn biển một nhà,
Thành xưa mùa thu lau lách tiêu điều)
Nhiều lúc không cần phải có thành quách cũ, mà chỉ cần một buổi chiều thu trên dòng sông Tương cũng đủ khơi dậy lòng hoài cổ nơi thi nhân:
Viên đề Động đình thụ,
Nhân tại mộc lan châu.
…
Vân trung quân bất kiến,
Vân trung quân bất kiến,
Cánh tịch tự bi thu.
猿 啼 洞 庭 樹,
人 在 木 蘭 舟。
…
雲 中 君 不 見,
雲 中 君 不 見,
竟 夕 自 悲 秋 。
(Mã Đái , 馬戴Sở giang hoài cổ , 楚江懷古câu 3-4, 7-8)
(Nghĩa: Vượn kêu trên cây ven Hồ Động đình,
Người ở trên thuyền bằng gỗ mộc lan.
Không thấy ông thần mây,
Đêm xuống lại buồn thương thu một mình)
Trương Thuyết thời sơ Đường khi đến ngang Nghiệp Đô, là nơi Tào Tháo và con cháu (nhà Ngụy) đóng đô thuở xưa, đã cảm thấy một nỗi bi thương vô hạn khi thấy gió thu về (đây là khoảng thời gian ông bị biếm trích đi Dương Châu):
Thí thượng Đồng đài ca vũ xứ,
Duy hữu thu phong sầu sát nhân.
試 上 銅 台 歌 舞 處,
惟 有 秋 風 愁 殺 人。
(Trương Thuyết 張說, Nghiệp đô dẫn, 邺都引câu 11-12)
(Nghĩa: Thử lên Đồng tước đài, nơi ca hát,
Chỉ có gió thu buồn chết người)
Đối với người dân bị mất nước, mùa thu lại còn buồn thêm. Đời Nam Tống, một nửa nước Trung Hoa về phía Bắc bị quân Kim chiếm đóng. Dân chúng sống dưới ách cai trị của quân Kim ngày ngày trông ngóng cứu binh từ miền Nam lên, nhưng than ôi!… Cảm thương tình cảnh này, trong một đêm thu ra khỏi nhà hóng mát, Lục Du đã viết lên:
Di dân lệ tận Hồ trần lý,
Nam vọng vương sư hựu nhất niên.
遺 民 淚 盡 胡 塵 裏,
南 望 王 師 又 一 年。
(Lục Du 陸遊, Thu dạ tương hiểu xuất ly môn nghênh lương hữu cảm, 秋夜將曉出籬門迎涼有感 câu 3-4)
(Nghĩa: Dân bị bỏ sót ở miền Bắc nước mắt đã chảy hết vào trong bụi của xứ Hồ,
Lại mất thêm một năm nữa hướng về phương Nam mong mỏi lính của vua lên Bắc để cứu).
Lại mất thêm một năm nữa hướng về phương Nam mong mỏi lính của vua lên Bắc để cứu).
Đến đây, chúng tôi xin được ngưng phần trích dẫn các bài thơ nói về thu để đề cập tới hai tác phẩm lớn, mặc dù không có chủ ý tả thu, nhưng mỗi tác phẩm lại có được hai câu văn (mà chúng ta có thể gọi là thơ) tuyệt tác có chữ thu ở trong đó.
Trước hết là bài Đằng Vương Các Tự (滕王閣序) của Vương Bột (王勃). Bài này được xem là một tuyệt tác của văn học Trung Hoa, được viết một hơi trong một bữa tiệc, mà tác giả lúc đó mới 19 tuổi. Truyền thuyết về gốc gác bài này như sau.
Đô Đốc Hồng Châu là Diêm Bá Dư đãi tiệc ở Đằng Vương Các, mục đích là để khoe tài văn chương của người con rể. Ông bảo con rể làm sẵn một bài tự, rồi trong bữa tiệc ông lại mời các văn sĩ dự tiệc mỗi người làm cho một bài. Mọi người hiểu ý ông nên không ai dám viết. Chỉ có Vương Bột lúc đó mới 19 tuổi, xin giấy viết để làm. Diêm Bá Dư tuy trong bụng không bằng lòng nhưng vẫn phải miễn cưỡng cung cấp giấy bút, và sai người đứng bên cạnh, hễ Vương Bột viết được câu nào thì sao chép lại cho ông đọc. Được mấy câu ông đã thầm phục, và khi Vương Bột viết xong 2 câu tuyệt tác (câu 57-58) thì ông phải nhận rằng Vương Bột là thiên tài, và không dám đưa bài của chàng rể ra nữa. Hai câu đó là:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
落 霞 與 孤 鹜 齊 飛,
秋 水 共 長 天 一 色。
(Nghĩa: Ráng chiều với con cò đơn độc cùng bay,
Nước thu và trời dài cùng một màu.)
Vương Bột sau này đi thuyền qua Giao chỉ thăm cha, bị chết đuối ở Nam hải, lúc đó ông mới 27 tuổi. Vin vào sự kiện này và sự nổi tiếng của hai câu thơ, hậu thế tạo nên một câu chuyện giả tưởng như sau. Họ nói rằng Vương Bột thích hai câu thơ này lắm, nên sau khi chết đuối, những đêm trăng thanh gió mát, ông lại hiện lên để ngâm hoài hai câu đó. Cho đến một ngày có một văn sĩ đi ngang, chê là mỗi câu thừa một chữ: câu trên thừa chữ dữ và câu dưới thừa chữ cộng, thì tiếng ngâm mới dứt hẳn. Đây chỉ là chuyện bịa đặt cho vui mà thôi.
Hai câu thơ tuyệt tác khác có chữ thu là của La Quán Trung (羅貫中), được viết trong tác phẩm bất hủ Tam Quốc diễn nghĩa (三國演義). Hai câu thơ này tả cảnh Lã Bố bắn kích ở Viên môn để giải nguy cho Lưu Bị (hồi thứ 16). Câu chuyện như sau:
Lã Bố trấn thủ Từ châu, một thành lớn, binh hùng tướng mạnh. Trong khi đó, Lưu Bị chưa gặp thời phải tạm đồn quân ở Tiểu Bái, với số lượng binh sĩ dưới tay chỉ 5 ngàn người. Viên Thuật (em Viên Thiệu) muốn đem quân đánh Lưu Bị nhưng ngại Bố giúp Bị, thành ra sai người đem dâng cho Bố 20 vạn hộc lương để Bố án binh bất động trong khi Thuật đánh Bị. Bố nhận lời. Thuật bèn sai đại tướng Kỷ Linh đem 10 vạn quân đi. Thấy thế nguy, Bị cầu cứu Bố. Bố, trong bụng cũng muốn giúp Bị, bèn bày ra một kế để giảng hòa hai bên (và nuốt gọn 20 vạn hộc lương). Bố đặt tiệc, gọi cả Kỷ Linh và Lưu Bị đến dự tiệc. Bố khuyên hai phe giảng hòa, nhưng một bên Kỷ Linh không chịu, một bên Trương Phi phùng mang trợn mắt chỉ muốn đánh nhau. Bố nổi giận, thét quân hầu đem cây Phương Thiên Họa Kích của mình ra cắm ngoài Viên môn cách xa bàn tiệc khoảng 150 bước và bảo với hai bên rằng bây giờ Bố sẽ bắn cây kích, nếu trật thì hai bên cứ việc đánh nhau, Bố sẽ không can thiệp, còn nếu Bố bắn trúng thì hai bên phải bãi binh, nếu bên nào không nghe thì Bố sẽ hiệp binh với bên kia đánh cho một trận. Kỷ Linh thấy cây kích xa đến 150 bước, trong bụng nghĩ rằng không ai có thể bắn trúng được, bèn nhận lời. Lưu Bị chẳng đặng đừng cũng đành chấp nhận. Lã Bố sai đem cung ra, lắp tên và chỉ một phát đã bắn trúng cái chạc nhỏ của cây kích. Kỷ Linh đành phải rút quân về. Đó là sự tích Lã Phụng Tiên xạ kích. Và đây là hai câu thơ tuyệt tác tả cảnh Lã Bố bắn cung (trong đó có chữ thu):
Cung khai như thu nguyệt hành thiên,
Tiễn khứ tự lưu tinh lạc địa.
弓 開 如 秋 月 行 天,
箭 去 似 流 星 落 地。
(Nghĩa: Cánh cung mở như trăng thu đi ngang trời,
Mũi tên bay như sao băng rơi xuống đất.)
Quả thật là thiên cổ kỳ văn.
***
Để kết thúc bài phiếm luận về mùa thu này, xin gởi đến quý độc giả một bài thơ Đường nói về mùa Thu. Bài thơ làm theo thể ngũ ngôn bát cú và được viết vào mùa thu đầu tiên của thế kỷ 21:
Âm Hán Việt:
Thu Đáo
Hàn sương thiết thụ chi,
Thu hựu đáo hà vi.
Điệp oán khai hoa thiểu,
Lâm sầu khiếu điểu hi.
Tán vân hoài cố thổ,
Viên nguyệt vọng cô trì.
Tạc dạ kim phong khởi,
Thùy tri lạc diệp bi.
Trần Văn Lương
Nghĩa:
Mùa Thu Đến
Sương lạnh như cắt xé cành cây,
Mùa thu đến nữa làm gì.
Bướm oán trách chuyện hoa nở ít,
Rừng buồn chuyện chim hót hiếm hoi.
Mây vụn nhớ quê cũ,
Trăng tròn ngóng trông cái ao cô độc.
Đêm qua gió vàng (gió thu) nổi lên,
Có ai biết nỗi buồn của chiếc lá rơi.
Phỏng dịch thơ (giữ nguyên thể):
Mùa Thu Đến
Sương rơi buốt cỏ cây,
Thu lại đến rồi đây.
Bướm trách hoa lười nở,
Rừng buồn nhạn ngại bay.
Mây tàn thương xóm cũ,
Trăng sáng nhớ ao gầy.
Đêm lá rơi theo gió,
Nỗi sầu ai có hay.
Ghi chú: Phần chữ Hán được bổ túc bởi BBT – Thạch Lai Kim.
Sách tham khảo:
Đường Thi Tam Bách Thủ, Trí Dương Xuất bản xã, 1999
Cổ Thi Quan Chỉ, Thượng Hải Cổ tịch xuất bản xã, 1996
Cổ Văn Quan Chỉ (hợp đính bản), Chính Triển Xuất bản Công ty, Đài Bắc, 2000
Đường Tống Thi Thưởng Tích, Văn Quốc Thư cục Xuất bản xã, Đài Nam, 1998
La Quán Trung, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Phong Hoa Xuất bản Sự nghiệp Công ty, 1991
Chi Điền Hoàng Duy Từ, Đường Thi tuyển dịch I,II,IV, California, 1984,1986,1989
Nguyễn Hiến Lê, Cổ Văn Trung Quốc, Xuân Thu xuất bản, 1965
Chi Điền Hoàng Duy Từ, Đường Thi tuyển dịch I,II,IV, California, 1984,1986,1989
Nguyễn Hiến Lê, Cổ Văn Trung Quốc, Xuân Thu xuất bản, 1965
Lê Nguyễn Lưu, Đường Thi Tuyển Dịch, Thuận Hóa, VN, 1997
Trần Văn Lương