User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
TQTriAn21
"Anh hùng mạc bả doanh thâu luận
Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu"
T.K. Huân
***

1 - Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lịnh Quân Đoàn IV -  Quân Khu IV)

Vận nước nổi trôi đến bước cùng
Tướng Quân thà chết với non sông
Tang bồng xếp lại... hoa dù đỏ
Khí tiết vang theo... tiếng súng đồng
Đất Việt xót thương cây rũ lá ...!
Sông Hương  tiếc nhớ nước khô dòng...!
Nghiêm mình kính cẩn trang trung liệt
Gương sáng muôn đời... sóng Cửu Long...! Nguyễn Minh Thanh

Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), sanh tại Đà Nẵng, nguyên quán ở làng An Cựu Tây, Hương Thuỷ, Thừa Thiên. Con Ông Nguyễn Khoa Túc và Bà Tôn Nữ Ngọc Cẩn.

NKN

Nguyễn Khoa Nam

Theo học khóa 3 Đống Đa tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1953. Ngày 1 tháng 12 cùng năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy. 

Gia nhập đơn vị Nhảy Dù, ông được cử làm Trung Đội Trưởng thuộc Đại Đội 1 trong Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Tiến dần lên đến Tư Lệnh Phó SĐ Nhảy Dù. Chuyển qua Bộ Binh, Ông làm Tư Lệnh SĐ7BB. Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Quân Đoàn IV -  Quân Khu IV tại Cần Thơ.

Sáng ngày 1 tháng 5, Ông vận bộ quân phục Đại Lễ của Quân Đội, và vào khoảng 6 giờ 30 sáng Ông dùng súng Browning bắn vào màng tang tự sát tại chiếc ghế làm việc trong tư dinh.

Tro Cốt của Ông thờ ở Chùa Quảng Hương Già Lam, đường Lê Quang Định số 498/11 Phường 1, Gò Vấp, Sài Gòn.

ThieutuongNguyenKhoaNam

2 - Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (Tư Lịnh Quân Đoàn II -  Quân Khu II ) 

Người xứ Hà Đông gốc Nhảy Dù
Dấu chân dày dạn các quân khu
Điện Biên kịch chiến rừng xơ xác
Lào Hạ giao tranh khói mịt mù
Tây Huế bảo toàn an một thuở
Ban Mê thất thủ hận... nghìn thu...!
Nghiêng bầu độc dược... hồn bay bổng
Mây trắng trời xanh... biệt Cánh Dù...!!! Nguyễn Minh Thanh
PhamVanPhu
Phạm Văn Phú

Phạm Văn Phú (1928-1975), sanh tại Hà Đông, gốc Nhảy dù. Ông xuất thân từ  trường Võ bị Liên Quân - Đà Lạt khoá 8 giữa năm 1952.

Tại chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đã chỉ huy một Đại Đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Sau hơn một hơn tháng giao tranh ác liệt với Việt Minh, ngày 16 tháng 4 Ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi.

Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, PVP bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định Genève), Ông được trao trả và tiếp tục trong quân lực VNCH. 

Ông trải qua nhiều đơn vị chiến đấu. Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Quân Đoàn II -  Quân Khu II tại Pleiku.

Sáng ngày 29 tháng 4 tại tư dinh Sài Gòn, Ông tự sát bằng một liều Choloroquine cực mạnh. Ông bị hôn mê đến 11 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, tỉnh lại thều thào hỏi phu nhân về hiện tình chiến cuộc. Khi được biết Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông súng đầu hàng, Ông liền từ trần!!

thieutuongPVP

3 - Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (Tư Lịnh Phó Quân Đoàn IV - Quân Khu IV)

Núi sông nghiêng ngửa phận làm trai
Quân ngũ tòng chinh chí miệt mài
Dũng lược U - Minh xung trận địa
Kiên cường An - Lộc phá trùng vây
Cờ tàn... sông núi ngùi ly biệt
Vận mạt... anh hùng ngậm đắng cay
Phòng ngủ... kinh hoàng vang tiếng súng
Ngoài trời đêm quạnh... ánh sao bay... Nguyễn Minh Thanh
chuantuongLVH
Lê Văn Hưng

Lê Văn Hưng (1933 - 1975), người Hóc Môn, Gia Định, mồ côi cha. Theo học khóa 5 Vì Dân tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1954, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy. 

Ra trường Ông giữ những chức vụ tác chiến. Có lúc chuyển sang Hành Chánh Trưởng Ty Cảnh Sát, rồi Quận Trưởng, Tỉnh Trưởng... Sau chuyển qua Bộ Binh làm Tư Lệnh SĐ5 / BB căn cứ Lai Khê, Bình Dương. Tháng 3 năm 1972, Ông được thăng cấp Chuẩn Tướng.

Sau chiến trận "Mùa Hè Đỏ Lửa" 1972, Ông được tặng thưởng tại mặt trận Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu, và Huy Chương Đặc Biệt "Bình Long Anh Dũng". 

Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV -  Quân Khu IV tại Cần Thơ.

Ngày 30 tháng 4  năm 1975, Ông tự sát bằng súng lục bắn vào tim lúc 20 giờ 45.

Trước khi tự sát, Ông nói: - "Tôi bằng lòng chọn cái chết, tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành."

4 - Chuẩn Tướng Trần Văn Hai (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB)

Hải đăng toả sáng giữa sương mù
Liêm chính kiêu hùng dũng trí mưu
Tỉnh Trưởng Phú Yên nhiều mến mộ
Chỉ Huy Cảnh Sát lúc cương nhu
Khe Sanh tuyến lửa: - thăm binh sĩ*
Trận địa Chư Pao: - diệt giặc thù
Nước mất ngậm ngùi... khui... độc dược
Phương danh trăng chiếu... rạng ngàn thu...!! Nguyễn Minh Thanh
chuantuongTVH
Trần Văn Hai

Trần Văn Hai (1925-1975): người Gò Công trong gia đình điền chủ. Theo học khóa 7 Ngô Quyền tại trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 5 năm 1952. Cùng khoá với Thủ Khoa Trương Quang Ân. Sau này là Th/ Tướng Trương Quang Ân.   

Qua những chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Tỉnh Trưởng tỉnh Phú Yên. Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương. Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia..., Tư Lịnh Phó Quân Đoàn II.

Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại căn cứ Đồng Tâm Mỹ Tho.

Trước sự kiện ngày 30 tháng 4 khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống đón Ông di tản, nhưng Ông từ chối.

Đặc biệt, Ông đã nhờ người đem tiền về cho Mẹ và báo tin Ông bình an, rồi mới tự sát..!!

Nửa đêm về sáng ngày 1 tháng 5, Ông dùng thuốc Optalidon nguyên ống 20 viên tuẫn tiết tại phòng làm việc!!

*Căn cứ Khe Sanh (Quảng Tr ) năm 1968, ngoài Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, còn có Tiểu Đoàn 37 BĐQ/ Việt Nam, Đ.Úy Hoàng Phổ làm TĐT. BĐQ bố trí vòng ngoài quân đội Mỹ, hướng Đông nguy hiểm nhứt. VC tấn công tuyến BĐQ nhiều lần nhưng chúng đều thất bại. Lần sau cùng là: 29 - 2 - 1968.

Bất chấp hiểm nguy, Đại Tá Trần Văn Hai đã tới thăm anh em tận tuyến lửa, nơi đây...!!

5 - Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ (Tư Lịnh Sư Đoàn 5 BB)

Chiều nghiêng thành quách đã điêu tàn
Thương tiếc anh hùng thuở dọc ngang
Cương trực thanh liêm không vị nể
Kiên trì nguy hiểm chẳng từ nan
Can trường An Lộc: -  chờ Tank đến
Bất khuất Lai Khê: - gác chuyện hàng
Tiếng súng sau cùng  vang... vọng mãi...
Ngàn năm hương khói tưởng... linh nhan. Nguyễn Minh Thanh

chuantuongLNV

Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) người Sơn Tây, thuộc gia tộc "Lê Nguyên" danh giá. Theo học khóa 2 Lê Lợi tại trường Võ Bị Địa Phương Trung Việt ở Huế, khai giảng năm 1951, tốt nghiệp Chuẩn Úy hiện dịch.

Phục vụ đơn vị Nhảy Dù, Quận Trưởng Quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh

Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Hòa 1 tháng 11 năm 1974, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng. Ngày 7 tháng 11 cùng năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê, Bình Dương.

LNV là người hạ chiếc Xe Tăng đầu tiên của VC trong trận An Lộc 1972. Ông tổ chức "Tiểu Tổ Diệt Tăng" sẵn sàng nghinh địch và săn Tăng.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi nghe Dương Văn Minh kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng. Ông ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Sau đó ông dùng khẩu Beretta 6.35 bắn vào đầu tự sát tại Bộ Tư Lệnh Lai Khê!!

Người nhà đã đem Tro Cốt của Ông về thờ trong Phủ Thờ gia tộc "Lê Nguyên" tại Sơn Tây.

Lời phụ bàn:

1 - Nỗi Đau Của Người Chiến Bại:

Thế Chiến II chấm dứt với sự đầu hàng vô điều kiện của Nhựt Bổn. Tương truyền có rất nhiều chiến sĩ Nhựt đã dũng liệt tuẫn tiết trong lúc ấy.

Dưới đây là một trong những bài thơ quí dũng sĩ còn để laị. Xin chép ra...  hoà theo niềm cảm thông sâu sắc do sự kết thúc giống nhau giữa Nhựt Bổn và Việt Nam Cộng Hoà cực kỳ bi đát!!

Đó là "Bại Trận - Đầu Hàng vô điều kiện...!!"

Mà, người viết cũng rơi vào trong cuộc, trong khúc quanh lịch sử. Ngậm ngùi... lặn ngụp trong khoang Huyết Sử...!! Với Niềm Đau không nguôi...!!

Thơ Tuyệt Mạng

"Ải Bắc từ khi cách cố hương
Tháng ngày thắm thoát mấy năm trường
Ví hay số kiế́p chim lìa cánh
Thà để thân nầy ngựa bọc xương
Nửa phút chưa nguôi thù Quảng Đảo
Ngàn năm há tuyệt giống Phù Tang
Ngây thơ em hãy khuyên đàn trẻ
Vì nước cha mầy để tấm gương...!!" (Khuyết danh)

2 - Lưu Phương Muôn Thuở:

Trong "Tuyệt Mệnh Thi", Ông Thủ Khoa Huân có câu:

"Anh hùng mạc bả doanh thâu luận
Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu"
(Hãy lắng nghĩa trung lưu vũ trụ
Chớ đem thành bại luận anh hùng)

Đem chiếu rọi hai câu thơ trên vào quí Tướng Quân, thấy rất phù hợp, tương thích.

Quí Tướng Quân đã "Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu".

Đã để lại cho Quân Lực VNCH nói riêng, cho dân tộc VN nói chung nỗi niềm hãnh diện và tiếc thương vô biên... Và cho hậu thế ánh trăng rằm rạng rỡ thiên thu...

Quí Ngài đã theo gương:

Vua Thục Phán, Quí Bà Trưng, Bà Triệu... Nước mất, mất theo Nước...!!

Quí Ông Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, ... Thành mất, mất theo Thành...!!

Ngoài quí Tướng Quân ra, trong sự kiện Quốc Hận 30 - 4 - 1975 còn nhiều, rất nhiều những Chiến Sĩ: Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ... đã "Nước mất, mất theo Nước". Chưa kể những thành phần chức vụ, dân sự: Ngoại Trưởng Tần Chánh Thành..., gia đình Bác Sĩ Lý Hồng Chương...

Nay, Tổ Quốc đang cơn Vận Bỉ, mong ngày Thái Dương tỏ rạng, hầu sưu tầm đầy đủ tất cả những bậc phi thường ấy. Những người đã oanh liệt, hoặc âm thầm lẫm liệt tuẫn tiết... để lập đàn tưởng niệm tôn vinh!!  Mong thay...!!

Với tấm lòng thành kính, nơi đây, có bài thơ nhỏ xin Tưởng Niệm toàn thể Quý: Quân, Dân, Viên Chức  VNCH đã Lẫm Liệt Tuẫn Tiết trong sự kiện: "Quốc Hận 30 - 4 - 1975":

Những Anh Hùng... Nước Mất, Mất Theo Nước!!

Dân quốc lầm than oán khắp nơi...
Dấn thân bảo vệ há ngồi chơi...?!
Tang bồng giai mộng sông Xoài Mút...
Hồ thỉ diễm mơ trống Ngọc Hồi...
Thế cuộc Quốc Kỳ ngùi...nước cuốn...!!
Tuẫn thân hùng khí rạng... trăng khơi...!!
Than ôi...! Sông Núi không ôm được...
Thì sống làm chi... chật đất trời...!! Nguyễn Minh Thanh

Hỡi những người của lịch sử của thiên thu, xin nghiêm mình kính cẩn chào quí Anh Linh... Nguyện cầu quí Anh Linh an lạc nơi cõi vĩnh hằng.

Và xin mượn câu nói người xưa:

"Nhân cố hữu tử, tử hoặc trọng ư thái sơn, hoặc khinh ư hồng mao" để thay lời kết.

Ôi, Quí Liệt Vị đã xem cái chết nhẹ tựa lông chim hồng. Phương danh Quí Liệt Vị "trường khang tiết nghĩa lưu".

Quí Liệt Vị chính là:

"Anh hùng tử, khí hùng bất tử
Thiên thu trường cữu Việt sơn xuyên"

Anh Linh Quí Liệt Vị chan hoà vào...

-  Những dãy núi: Trường Sơn, Bân Sơn, Thạch Bi Sơn, Thất Sơn, Bà Đen...

-  Những dòng sông: Cửu Long, Đồng Nai, Đà Rằng, Sông Côn, Dabla, Hương Giang, Mỹ Chánh, Thạch Hãn, Bến Hải...

Và trên những dãy núi ấy..., những dòng sông ấy...

Ngàn năm mây trắng vẫn còn bay... lửng lơ... ngơ ngẩn... ngậm ngùi... tiếc thương... Quí Liệt Vị...!! Ôi, cao cả thay, cao quí thay!!

Bây giờ, đêm tối dần tan, bình minh đang ló dạng:

"Ngoài trời hững sáng ban mai...
Tấc lòng Cố Quốc cờ bay... trập trùng..."

Nguyễn Minh Thanh cẩn tác
Ga, 2019 - Mùa Quốc Hận!!

Phụ chú:

*Tuyệt Mệnh Thi                                  

Hãn mã nan kham vị quốc cừu,
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Vô bố dĩ kinh Hồ lỗ phách,
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Đương niên Tho thuỷ ba lưu huyết,
Long đảo thu phong khởi mộ sầu.

T. K. Huân  

Thơ Tuyệt Mạng

Gian nan vó ngựa diệt thù chung
Chỉ tại thua binh mạng phải cùng   
Hãy lắng nghĩa trung lưu vũ trụ
Chớ đem thành bại luận anh hùng
Nổi xung giặc dữ kinh hồn khắp
Liều thác thân tàn rạng tiếng chung
Sóng nước Mỹ Tho pha máu đỏ
Gió Thu chiều úa nhuộm cồn Rồng..!! Nguyễn Minh Thanh cẩn dịch

*Đoạn sông Rạch Gầm - Xoài Mút: cách thành phố Mỹ Tho hơn 10 km hướng Tây Bắc. Ngày 20 tháng 1 năm 1785. Khi quân Xiêm lọt vào trận địa, pháo binh Tây Sơn Nguyễn Huệ bất ngờ tấn công, Đồng thời, bộ binh và thủy quân xông ra tiêu diệt gần như toàn bộ địch quân.

*Đồn Ngọc Hồi: Sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung hạ lệnh đánh đồn Ngọc Hồi phía Nam Thăng Long. Đồn, do phó tướng Hứa Thế Hanh chỉ huy. Đồn thất thủ, bị quân Tây Sơn thiêu rụi. Hứa Thế Hanh chạy vắt giò lên cổ...

Tham khảo: các trang Web:

- NKN, PVP, LVH, TVH, LNV...
- Thủ Khoa Huân...
- Hán Việt Từ Điển - ĐDA

 

Tìm các bài LỊCH SỬ khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com