
Triều đình nhà Nguyễn bắt đầu thời vua Gia Long (1802-1820) đến vua Minh Mạng (1820-1840), vua Thiệu Trị (1841-1847), vua Tự Đức (1848-1883). Vua Tự Đức không có con nên đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự chọn Dục Đức lên ngôi rồi giết vua năm 1883, sau đó Tường và Thuyết đưa Hiệp Hòa lên thay chỉ vài tháng sau cũng bị giết. Kế đến đưa Kiến Phúc (1883-1884) lên thay rồi giết luôn, chỉ trong một năm ba vị vua trẻ này đều bị giết bởi Tường và Thuyết rồi chọn vua Hàm Nghi (1884-1885) lên thay, Pháp lấy cớ không mời Khâm Sứ Pháp đến dự nên đem quân đến triều đình Huế để dự lễ đăng quang vua Hàm Nghi, thực sự là để bắt Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Thuyết biết được ý đồ của Pháp nên đem vua Hàm Nghi rời triều đình Huế, Pháp bắt Nguyễn Văn Tường và đày đi tù ở đảo.
Pháp chọn Đồng Khánh lên ngôi (1885-1889), kế tiếp là vua Thành Thái (1889-1907), vua Duy Tân (1907-1916), vua Khải Định (1916-1926) và vua Bảo Đại (1926-1955). Qua các triều đại vua Nguyễn cho chúng ta thấy Pháp đô hộ Việt Nam gần trăm năm (1859-1955).
Trong các vua Triều Nguyễn, chỉ có vua Hàm Nghi, vua Thành Thái và vua Duy Tân có thành tích chống Pháp, nhưng mỗi Ngài có cách khác nhau:
Vua Hàm Nghi (1884-1885) lên ngôi lúc 12 tuổi, năm 1885 Tôn Thất Thuyết đem vua rời khỏi hoàng cung rồi phát "hịch Cần Vương" chống Pháp, sau 3 năm thì bị bắt (năm thứ 3 vua Đồng Khánh) và bị đày đi Algérie ở tại một biệt thự đầy đủ tiện nghi. Vua Đồng Khánh (1885-1889) lên ngôi được 4 năm thì mất. Pháp đưa vua Thành Thái (1889-1907) lên ngôi lúc Ngài 10 tuổi, có nhiều quyết định của Pháp vua không chấp thuận và còn nặng lời, vì thế Pháp cho Ngài có bịnh điên yêu cầu triều đình truất phế.
Trong thời vua Đồng Khánh Pháp chia Việt Nam thành 3 kỳ Bắc Trung Nam:
- Nam Kỳ theo quy chế thuộc địa Pháp, Bắc Kỳ bán thuộc địa, Trung Kỳ do triều đình Huế cai quản thuộc Pháp bảo hộ, chế độ "thuộc địa" hay "bảo hộ" người Pháp thường xen vào bằng một chế độ "trực trị" rất hà khắc. Ngoài ra vua Đồng Khánh còn ký nhượng Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng thuộc về Nam Kỳ để Pháp cai trị. Kể từ Hòa Ước năm 1885 Việt Nam không còn là một quốc gia, mọi việc đều do Toàn quyền Đông Dương Pháp quyết định.
Vua Duy Tân lên ngôi năm 1907, báo chí Pháp đăng tin: "Sau một ngày lên ngôi vua Duy Tân đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của một cậu bé 8 tuổi". Trong lúc này triều đình Huế treo cờ quẻ Khôn (3 sọc đỏ gãy ở giữa trên nền vàng), nghĩa là phương Bắc, ngụ ý triều đình Huế mong muốn: "Bắc Kỳ và Trung Kỳ Việt Nam phải có thực quyền như một quốc gia phía Bắc Nam Kỳ thuộc địa Pháp".
Toàn Quyền Pháp hiểu được ý vua Duy Tân, nên dùng Trần Quang Trứ (Thư Ký Tòa Khâm Sứ Pháp) thăm dò từ vua để tìm bắt lực lượng chống Pháp, cuối cùng chính Trần Quang Trứ đưa quân Pháp bắt vua và nhóm VN Quang Phục Hội, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Độ và Nguyễn Quang Siêu đều bị chém ngày 16/5/1916. Pháp giao vua Duy Tân để ông Hồ Đắc Trung điều tra việc vua rời cung, thật ra nhẩm điều tra Hồ Đắc Trung có liên quan đến không, Pháp không tìm được chứng cớ mới nào, như thế Hồ Đắc Trung vô tội và vẫn giữ chức quan trong triều đình. Sau đó Pháp giao cho Hồ Đắc Trung lập bản án vua Duy Tân. Kết quả vua Duy Tân bị đày đến đảo Réunion Phi Châu.
Nhân dịp vua Khải Định băng hà, Duy Tân từ đảo La Réunion gởi về câu đối:
"Ông vội bỏ đi đâu? Bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ thầy tu hát bội, bỏ cả trần duyên trong một lúc. Tôi may còn tại đây! Còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng hào kiệt, còn nhiều "vận hội" giữa năm Châu". Bộc bạch tình cảnh triều đình thời bấy giờ, tôi tớ (ý Trần Đắc Trung) như phường hát bội, vua thì không có thực quyền, triều đình chẳng qua do quần thần dàn dựng, cuộc tình đầu vua Duy Tân chỉ giữ trong lòng mà không oán hận Trần Đắc Trung không gả con cho Ngài, sau này đem nàng gả cho vua Khải Định. Khi Vua Duy Tân lên ngôi là lúc Phong trào Đông Du cổ động học theo tư tưởng Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu của nhóm QDĐ/TH học theo Nhật, nhưng vua Duy Tân có quan niệm thân Pháp tốt hơn thân Tàu và Nhật, do đó lá cờ "quẻ khôn" ra đời. Quan niệm này trùng hợp với tư tưởng Phan Chu Trinh: "Tiên khai dân trí, thứ dân khí, hậu dân sinh" là cách cứu quốc an toàn nhất.
Bộ Thuộc Địa Pháp nhận rõ: "vua Duy Tân có vẻ khó thuyết phục, hết sức độc lập... có mưu đồ rời khỏi đảo Réunion để trở về Việt Nam lãnh đạo".
Trong nhận xét này nên Tướng Charle De Gaulle lợi dụng Ông trong thời Đệ II Thế Chiến, nhầm để cổ vũ tinh thần lính VN tham chiến trong quân đội Pháp chống Đức. Sau tháng 4/1945, Đức đầu hàng quân đội Đồng Minh, chính phủ Pháp đưa Duy Tân về Paris để có dịp gặp các sinh viên trí thức tại đây, Ông phát biểu quan điểm của mình:
"Chống Pháp không là giải Pháp tốt, bản thân Ông là ví dụ điển hình. Tình huynh đệ, nghĩa hợp quần phải được thực hiện dưới bất cứ thể chế nào: Tự Do, Cộng Sản hay Bảo Hoàng... đều đó không quan trọng. Điều quan trọng là phải cứu được dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia".
Trong lời này Pháp thấy rõ đây chẳng khác gì "Hịch Cần Vương" thời vua Hàm Nghi, Việt Minh hoạt động mạnh hơn vì có thêm các lực lượng giáo phái ở Miền Nam như Cao Đài và Hòa Hảo, như thế Việt Minh sẽ là cái nôi cách mạng chống Pháp mạnh hơn khi vua Duy Tân về nước, nên Pháp bắt tay với CS/ĐD. Trong quyển VNQDĐ Nhượng Tống viết: Năm 1926 Toàn Quyền Đông Dương Pháp là người Đệ IV/CS, lập nhóm CS chuyên đánh phá các cơ sở Nam Đồng Thư Xã/VNQDĐ. Trước ngày tổng khởi nghĩa Yên Bái, Đội Tấn hỏi Nguyễn Thái Học: "Sau khi thắng Pháp chúng ta sẽ làm gì? Nguyễn Thái Học trả lời“ Chờ tướng Tàu đến sẽ tính. Đây là nguyên nhân thất bại của QDĐ/VN, vì Đội Tấn thuộc lính Khố Đỏ Pháp nên tiết lộ bí mật nội tình VNQDĐ. Như thế chúng ta thấy Đội Tấn trong thời Nguyễn Thái Học hay Trần Quang Trứ trong thời vua Duy Tân đều là cách thức gài người của Pháp, sách lược này Pháp áp dụng ở MNVN làm Mỹ phải hy sinh trên 40.000 quân nhân vào cuối năm 1967, khiến Mỹ phải cương quyết hoàn thành Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 làm sụp đổ Đệ II/VNCH trong ngày 30/4/1075.
Ngày 17/6/1930, tổng khởi nghĩa VNQDĐ tại Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chi bị chém đầu, cùng năm này ĐCS/ĐD ra đời do sự kết hợp của Nguyễn Tất Thành từ Trung Hoa về và nhóm CS do Pháp đào tạo. Từ đây ĐCS/ĐD tự nhiên trở thành công cụ thăm dò hoạt động QDĐ/TH và QDĐ/VN tại các tỉnh vùng biên giới Hoa-Việt, là chiến lược ngăn chận QDĐ/TH từ Đại Lục sang Việt Nam, Nguyễn Tất Thành tại Hội nghị Tours/Pháp đọc bài diễn văn "Bản án Chế độ Thực dân" nhầm chộng chế độ Thực dân Pháp do Nguyễn Thế Tuyền viết ký tên Nguyễn Ái Quốc (NAQ) là tên chung cho Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Tuyền, sau bài diễn văn này Nguyễn Tất Thành vơ cả tên NAQ, ông bị bệnh chết trong tù Hong Kong năm 1932, năm 1939 một Thiếu Tá trong đệ bát lục quân TH tên Hồ Tập Chương, tự Hồ Quang người Đệ IV/CS tự nhận Nguyễn Ái Quốc xưng là Hồ Chí Minh.
Nhật đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1940, cho Pháp cảnh giác phải đề phong, bởi thế Việt Nam Độc Lập Đồng Minh được thành lập với tên gọi Việt Minh do Hồ Ngọc Lãm làm Chủ Tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch, thật ra đây là ý đồ của Pháp để tránh sự nổi dậy của dân VN, đồng thời tạo lòng tin cho vua Duy Tân, để vua Duy Tân tham gia vào "lực lượng cứu nguy Pháp" do De Gaulle kêu gọi.
Ngày 15/3/1942 khi đoàn sinh viên Hà Nội hợp ca chấm dứt bài "Sinh Viên Hành Khúc" của Lưu Hữu Phước tại Nhà hát lớn Hà Nội, quan khách hầu hết là người Pháp đều đứng lên nhiệt liệt hoan hô, như thế cho thấy vua Duy Tân đã tham gia "Lực lượng giải phóng Pháp" sau khi Việt Minh ra đời, trong lúc này Hồ Ngọc Lãm được thay thế bằng Hồ Chí Minh, vì là người TH nên Việt Minh dưới sự lãnh đạo bởi HCM nhiệt tình chống Nhật. Như thế Pháp không còn bận tâm về lực lượng chống Pháp, sách lược này cho trí thức VN khó phân biệt CSĐD và Việt Minh, mà cứ tưởng rằng Pháp sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam.
Từ khi Nhật chiếm Việt Nam (tháng 3/1945 đến tháng 8/1945). Chính phủ vua Bảo Đại và TT/Trần Trọng Kim dưới lá cờ vàng "quẻ ly", ngụ ý "Đông Dương thống nhất Việt-Miên-Lào" theo quân phiệt Nhật, là thế lực bao vây THDQ. Nhật nhầm triệt đường lương thực THDQ nên Nhật dùng lúa mạ đồng bằng sông Hồng chạy đầu máy xe lửa, gây nên nạn đói từ giữa năm 1944 đến cuối năm 1945 dân bắc Việt chết đói trên 2 triệu người. Chiến thuật tiêu thổ của Nhật cũng làm suy yếu chủ lực CSĐD thân Pháp để đưa Thoại Ngọc Hầu Cường Để về thay Bảo Đại. Ngày 20/7/1945 Toàn quyền Nhật Tsuchi Hashi trao trả Việt Nam "Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng, ngày 8/8/1945 trả luôn cả Nam kỳ cho VN.
Xem Phần 2