Chính sách đô hộ Thực dân Pháp thay đổi theo từng 4 năm. Từ năm 1885-1889 vua Đồng Khánh ký Hòa ước 1885 chia Việt Nam thành 3 vùng: Bắc kỳ Trung kỳ Nam kỳ, năm 1922-1926 vua Khải Định đưa Hoàng Tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại) sang Pháp học hành theo chương trình Pháp, điểm chú ý là 2 vua đều băng hà sau 4 năm hợp tác với Pháp, năm 1926-1930 đánh bại QDĐ/VN và thành lập ĐCS/ĐD. Vua Duy Tân tử nạn máy bay ngày 26/12/1945, tính ra cũng đã 4 năm (1941-1945) trong "Lực lượng giải phóng Pháp.
Năm 1945-1949 là giai đoạn Pháp trở lại Đông Dương, với sự hợp tác của Hồ Chí Minh (HCM rút VM về Thái Nguyên cho Pháp chiếm Hà Nội ngày 26/12/1946), chính sự hợp tác tốt đẹp này giữa chính phủ HCM và Pháp ký mật ước thành lập do Nguyễn Mạnh Tường biên soạn, tháng 3/1946 (thời gian De Gaulle hứa đưa vua Duy Tân về chấp chánh Việt Nam) Bảo Đại có mặt trong phái đoàn đến Trùng Khánh rồi về ở luôn tại Hong Kong, năm 1949 Pháp trao trả Việt Nam cho Bảo Đại. Bảo Đại trở về lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam trong danh hiệu Hoàng Đế Bảo Đại.
Năm 1950-1954 là giai đoạn trầm uất của NDVN, một mật ước giữa Pháp và Hồ Chí Minh phát triển. Pháp dùng CSĐD tiến hành khủng bố ám sát các lãnh tụ nhân sĩ chống Pháp, mục đích chính là QDĐ/VN, đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo. Pháp thành lập QĐ/QGVN, thiết lập quân trường SQ/Đập Đá, quân trường SQ/Phú Bài, tiền thân quân trường SQ/ĐL và quân trường SQ/Thủ Đức, những sĩ quan khóa đầu tiên hai quân trường này được tấn phong bởi Toàn quyền Đông Dương, họ là thân tín của Pháp lãnh đạo VNCH sau đảo chính ngày 1/11/1963 đến ngày 30/4/1975, mãi đến năm 1952 Hoàng Đế Bảo Đại mới có thực quyền là lúc Ngài phong Thiếu Tướng cho Bảy Viễn. Ngày 12/6/1953 Hồ Chí Minh thỏa hiệp cùng Mao Trạch Đông "VN sẽ là một tỉnh của TQ", trong khi đó Võ Nguyên Giáp tiến hành thanh trừng số VM trí thức sang TQ huấn luyện vũ khí đem từ Triều Tiên, Võ Nguyên Giáp giết trên 3.000 VM.
Trận Điện Biên Phủ từ tháng 1/1954 chấm dứt ngày 7/5/1954 quân Pháp đầu hàng Việt Minh dẫn đến Hiệp định Genève ngày 20/7/1954, Việt Nam chia đôi lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, Bắc thuộc VNDCCH, Nam thuộc QGVN. Tình hình khó phân tích trong lúc này, nhưng điều thấy rõ nhất là Pháp có nhượng bộ CSVN, trong tháng 6/1954 Hoàng Đế Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về làm Thủ Tướng, thì Biệt Đoàn Xung Kích lưu động GM-100 Pháp từ Triều Tiên mới về năm 1953 bị đánh bại sau 6 giờ giao tranh với SĐ-803/VC tại đèo An Khê để VC chiếm cả các mật khu Đỗ Xá, An Lão, Tam Quan, Bình Định, đây là áp lực lớn buộc QGVN phải ký Hiệp định Genève trong ý đồ Pháp muốn CSVN thành Đệ IV/CS (lực lượng bị đánh bại bởi Stalin tại LBXV) trong tương lai cùng khối CS/Đông Âu chận đường tiến LBXV và Trung Cộng. Trong giai đoạn 1950-1954 sấm Trạng Trình ghi chếp: "Hùm gầm khắp nẻo xa gần. Mèo kia rợn tiếng quỷ ma kêu sầu. Rồng bay năm vẻ sáng ngời. Rắn qua sửa soạn hết thời sa tăng. Ngựa lồng qủi mới nhăn răng. Cha con dòng họ thầy tăng hết thời": Nói rõ năm Dần 1950 VM nổi lên khắp nơi, lính Pháp lùng bắt dân (Mèo) khắp nẻo, năm Thìn 1952 là năm Bảo Đại có thực quyền Hoàng Đế, qua đến năm Quý Tỵ 1953 Thực dân Pháp chuẩn bị con đường rút lui, sang năm Giáp Ngọ 1954 VM phát động tấn công Trận Điện Biên Phủ, Pháp mỉm cười kế hoạch sắp thành, không dè bè lũ thằng Tây thua cả cuộc chiến.
Thật ra trận Điện Biên Phủ là trận chiến có giao ước trước giữa hai bên tham chiến, mục đích là tiêu diệt thành phần VM không cộng sản, cuối tháng 3/1954 Võ Nguyên Giáp thay đổi chiến thuật, từ chuẩn bị "chiến thuật biển người" thay "địa đạo chiến" bao vay tấn công, theo chiến thuật này quân Pháp không thiệt hại nhiều nhưng VM hy sinh rất đông, hình ảnh VM chết trên bờ chiến hào, TQ mang về tuyên truyền "TQ đã giúp VN chống Pháp như thế", còn bên Pháp yên tâm "VM chống Pháp đã hoàn toàn tiêu diệt" nên Pháp chấp nhận đầu hàng VM để dàn trận thế mới. Sau Hiệp định Genève, bộ đội vào Hà Nội rất đông, không có con số nói rõ vấn đề này, nhưng trong sấm Trạng Trình có câu "Bát vạn Hồ binh tấn Tràng An". Lấy từ tích Chiêu Quân cống Hồ thời Tây Chu/TH, kinh đô Tràng An, giả mạo Chiêu Quân làm công chúa gả cho vua Hung Nô, tức Mông Cổ ngày nay, thời đó gọi là "giặc Hồ". Vạn mã quy nguyên. Thiên viên điều động", trong cái nghĩa: Vạn quân vào Hà Nội kia là quân TQ được ngụy trang do sự chỉ huy một ngàn Việt Minh.
Sự quan hệ giữa Pháp và HCM được xác nhận qua lời ông Nguyễn Mạnh Tường tại Pháp năm 1989: Năm 1946 chính phủ VM ký kết với Pháp một hiệp ước quan trọng, HCM yêu cầu ông giúp soạn giùm một bản lập trường của chính phủ để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo hợp tác. Ông Tường có ra sách xuất bản tại Pháp 1992. Sau năm 1954 Nguyễn Mạnh Tường về VN làm giảng sư trường Luật tại Hà Nội, Hồ Hữu Tường về Saigon bị chính phủ MN cầm giữ, vì Hồ Hữu Tường nằm trong Đệ IV/CS. Hai ông Tường đều là nhân sĩ tiếng tăm tại Pháp, là giảng sư trẻ tuổi nhất tại Đại Học Paris thời bấy giờ, Nguyễn Mạnh Tường lúc 22 tuổi là giảng sư Luật và Văn Chương Pháp, Hồ Hữu Tường lúc 16 tuổi là giảng sư Toán Đại Học Sorbonne, họ là nhân sĩ thân Pháp.
Trong tình trạng "Vạn mã quân TQ vào Hà Nội", Pháp cần thay chiến lược, phải có bầu cử tại MNVN sau hai năm Hiệp định Genève, vì Pháp biết chắc VNDCCH sẽ thắng, nên Pháp thúc giục ủng hộ Hoàng Đế Bảo Đại tiến hành đảo chánh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm để Pháp trở lại VN trong thế đồng minh cũng là lãnh đạo của Việt Minh và nhóm SQ do Pháp đào tạo: Tháng 2/1955 Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ họp các SQ thân Pháp đòi truất phế Thủ Tướng Diệm, bất thành và bị Ngô Đình Nhu bắt đưa lên Đà Lạt gởi về Pháp. Tháng 5/1955 Bảy Viễn đảo chánh với lực lượng Bình Xuyên và một Tiểu Đoàn QĐ/QGVN bị Tướng Dương Văn Minh truy kích tại rừng Sát nhưng Bảy Viễn vẫn thoát thân về Pháp, lực lượng bảo vệ cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm do Trung Tá Đỗ Cao Trí và Đại Úy Nguyễn Văn Hiếu chỉ huy.
Tình hình MNVN đang trong cảnh khó khăn phải an cư gần triệu dân từ Bắc vào, Hoàng Đế Bảo Đại thì nhàn cư tại Paris/Pháp gọi TT Diệm sang Paris thảo luận tình hình VN, tình thế bắt buộc TT Ngô Đình Diệm tổ chức Trưng Cầu Dân Ý ngày 23/10/1955, Ngô Đình Diệm được dân MNVN bầu chọn lãnh đạo QGVN, cho thấy người dân MNVN không tín nhiệm Bảo Đại. Ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố QGVN theo chế độ Cộng Hòa, nhưng mãi đến tháng 5/1956 bầu Quốc Hội Lập Hiến, QHLH bầu chọn cờ vàng 3 sọc đỏ trong hơn 50 lá cờ được đề cử và bài "Sinh Viên Hành Khúc" của Lưu Hữu Phước đổi thành "Thanh Niên Hành Khúc" là quốc ca VNCH. Ngày 26/10/1956 là ngày Việt Nam Cộng Hòa ra mắt thế giới với cờ vàng 3 sọc đỏ và quốc ca VNCH. Chính phủ Pháp vẫn không cam lòng trong kết quả này, vì Pháp cho rằng Ngô Đình Diệm bội ước Hiệp Định Genève không tổ chức bầu cử sau hai năm ký hiệp định, nên sau 4 năm trong thời De Gaulle làm Tổng Thống, ngày 11/11/1960 sĩ quan và nhân sĩ thân Pháp như Trần Đình Lan, Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh và Nhất Linh làm đảo chánh bị thất bại, tất cả đều bị tù chỉ riêng Nhất Linh, TBT/QDĐ kiêm TBT/Đại Việt thì được an trí tại Đà Lạt, ông Bằng Phong Đặng Văn Âu viết:" Điều này cho thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm tôn trọng trí thức như thế nào", thật ra Nguyễn Tường Tam Nhất Linh đã là TBT/QDĐ sau khi Nhượng Tống bị ám sát tại phố chợ Hà Nội.
Nhân dịp Tổng Thống Mỹ Kennedy sang Tây Bá Linh, nằm trên lãnh thổ Đông Đức, ghé thăm Pháp có gặp De Gaulle, theo đài RFI giải mật (ngày 31/12/2017): "Kennedy tham kiến De Gaulle về sách lược chống LBXV", thật ra họ thảo luận "làm thế nào đưa QĐ/Mỹ vào VN". Nguyên do Mỹ tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 cùng nhóm SQ thân Pháp, nên TT Ngô Đình Diệm không chống lại để tránh cảnh QĐ/VNCH tương sát lẫn nhau. Sau ngày đảo chánh MNVN rơi vào tình trạng rối ren, CSVN ra mặt từ nhiều mật khu tại miền Trung, TL/QĐ II Nguyễn Khánh cho quân đánh vào mật khu Đỗ Xá bị hao quân trên một Tiểu Đoàn, sau đó Tướng Đỗ Cao Trí đương là TL/QK-I thay cho Tướng Khánh về làm Quốc Trưởng tại Saigon. Đây cũng là âm mưu của HĐ/Tướng lãnh muốn triệt hạ vây cánh Ngô Đình Diệm, Tướng Trí là người được Tổ trưởng Cục nghiên cứu địa lý Phan Quang Đông trao danh sách nhóm nằm vùng VNCH tại VNDCCH. Tướng Đỗ Cao Trí và Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu bình định Đỗ Xá năm 1964 thì được Nguyễn Khánh chuyển đi làm Đại sứ Nam Hàn. Thời gian 1964-1967, MNVN qua hai Quốc Trưởng Nguyễn Khánh và Phan Khắc Sửu, MNVN lập ra "Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương" do Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch, "Ủy Ban Tư Pháp Trung Ương" do Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch. Năm 1967, tổ chức bầu cử với 11 liên danh tranh cử, liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thắng cử với 35% cử tri ủng hộ, một thắng lợi huy hoàng cho giới quân nhân thời bấy giờ.
Bối cảnh lịch sử khó mà đoán được, vì lịch sử viết theo thế lực thời cuộc. Nhưng trong dân gian VN có lời sấm Trạng Trình mà hầu như người Việt Nam thường hy vọng sẽ có lời giải thích sự thật phơi bày.
Nước Nam từ thuở Hồng Bàng.
Đổi thay cuộc thế thời gian chuyển vần.
Từ buổi Đinh Lê Lý Trần.
Bao kỳ vận nước nhiều lần đổi thay.
Núi sông thiên dịch đặt bày.
Đồ thư một quyển xem ngay mới rành:
Chữ rằng lục thất nguyệt gian.
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài.
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan.
Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ.
Đất Việt muôn năm vẫn trị bình.
Chí những phù nguy xin gắng sức.
Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.
Nhị ngũ dư bình.
Cửu cửu càn khôn.
Canh niên tàn phá.
Tuất hợi phục sinh.
Trong ý "Lục thất nguyệt gian" chứa sẵn huyền cơ để nhận nhân tài, những triều đại "được lòng dân" đều trải qua thời gian của bội số 13 năm, cũng hàm ý có người lãnh đạo tròn 13 năm là chính nhân thiên tử. Thế bạo quyền chì "Nhị ngũ dư bình" không quá 10 năm sẽ bị tiêu diệt. "Cửu cửu càn khôn. Canh niên tàn phá" là 9 năm có số năm mang 9 điểm gồm những năm "canh" hủy hoại quốc gia. Tuất Hợi phục sinh là lúc Việt Nam có nhiều biến đổi minh quân "Lục thất" xuất hiện. Đây là huyền cơ trong lời sấm Trạng Trình:
- Nhà Hậu Lê: Quân Minh xâm chiếm VN 14 năm. Lê Lợi chỉ trong 10 năm đánh tan lập lên nhà Hậu Lê từ năm 1428-1789 được 361 năm gồm 351 năm và 10 năm (1779-1789) bị Tây Sơn đổi triều.
- Nhà Tây Sơn: Năm 1779 Tây Sơn đánh bại chúa Nguyễn Đàng trong, Nguyễn Nhạc xưng Hoàng Đế. Sau đó Nguyễn Huệ liên kết với Nguyễn Hữu Chỉnh (Tướng Chúa Trịnh) chiếm thành Nghệ An và tiến vào Thăng Long năm 1786, Chúa Trịnh bị diệt, Vua Lê Hiến Tông phong Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Đại Tướng Quân và gả Ngọc Hân Công Chúa cho Ngài. Sau hôn lễ Vua Lê băng hà, Nguyễn Nhạc đem quân đến Thăng Long điếu tang, vua Lê Chiêu Thống rất lo âu, sau khi tang lễ xong Nguyễn Nhạc Nguyễn Huệ cùng về Phú Xuân trong đêm đó để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Thăng Long. Nguyễn Hữu Chỉnh chiêu binh mãi mã tập luyện quân đội và viết thư yêu cầu Nguyễn Nhạc giao trả Thuận Hóa cho Nhà Lê. Nguyễn Nhạc sai con rể Vũ Văn Nhậm đem quân ra Bắc đánh Chỉnh, Chỉnh bị bắt và bị giết. Nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, Nguyễn Huệ một người một ngựa từ Nghệ An ra Thăng Long vào giữa đêm bắt Nhậm chém đầu với lý do: "Nhậm vi phạm quân lệnh, vì Nhậm chỉ có lênh bắt Chỉnh chứ không có lệnh giết Chỉnh", khiến vua Lê Chiêu Thống hoảng kinh chạy qua cầu cứu nhà Thanh. Nguyễn Huệ thống lĩnh quân Vũ Văn Nhậm về Phượng Hoàng/Nghệ An, ngày 25/11/Mậu Thân năm 1788 toàn quân lập đàn tế trời đất tại núi Đồ Bàn tôn vinh Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế Quang Trung, đang lúc quân Thanh đưa Lê Chiêu Thống về ngự trị Thăng Long, ngày 25/12 Mậu Thân năm 1788 quân Tây Sơn được ăn Tết sớm, vua Quang Trung ra lệnh đánh vào Thăng Long diệt quân Thanh, Mùng 5 Tháng Giêng Kỷ Dậu năm 1789 quân Tây Sơn đánh bại quân Thanh chiếm thành Thăng Long, ngày Mùng 7 cho quân ăn Tết lần nữa mừng chiến thắng.
Hoàng Đế Quang Trung băng hà năm 1792, điếu văn cho Ngài do Hoàng Hậu viết được ký tên Ngọc Hân Công Chúa. Quang Toản lên ngôi được 10 năm (1792-1802) thì bị Nguyễn Ánh diệt, như thế nhà Tây Sơn trị vị 23 năm gồm 13 năm (9 năm Nguyễn Nhạc, 4 năm Nguyễn Huệ) và 10 năm Quang Toản.
- Nhà Nguyễn bắt đầu từ năm 1802-1945 được 143 năm (11x13 năm), từ tháng 8/1945 là thời mạc vận nhà Nguyễn, vua Bảo Đại bị Việt Minh lật đổ cướp chính quyền, đến cuối tháng 12/1946 Pháp tái chiếm Đông Dương thành công, mãi đến năm 1949 Việt Nam được Pháp trả độc lập, Bảo Đại làm Hoàng Đế Quốc Gia Việt Nam nhưng không có thực quyền, đến năm 1952 Bảo Đại mới có thực quyền vị lãnh đạo quốc gia, như phong chức Thiếu Tướng cho Bảy Viễn, một lãnh tụ Bình Xuyên về hợp tác với Pháp, đã được Trung Tá tình báo an ninh Pháp Savani phong làm "Đại Tá", cho thấy Hoàng Đế Bảo Đại không thực sự là đại biểu quốc dân VN, do đó nhà Nguyễn bị sụp đổ trong 10 năm (1945-1955), cuộc phổ thông đầu phiếu ngày 23/10/1955 là cách cứu nguy tình thế́ hỗn loạn thời bấy giờ, không phải ông Diệm ý đồ cướp ngôi Bảo Đại như nhiều người tưởng.