“Vùng Trời Dấu Yêu” là tác phẩm thơ thứ tư của Lê Thị Ý sau các cuốn “Thơ Ý”, Saigon (1967), “Cuộc Tình Và Chân Dung Tôi”, Saigon (1972), “Quê Hương Và Người Tình”, Hoa Kỳ (1992).
Về hình thức, cuốn thơ in đẹp, dày khoảng hơn 100 trang với hơn 60 bài thơ và 4 phụ bản.
Lê Thị Ý đã sống tại Việt Nam một thời gian sau 1975 để rồi cũng tìm cách ra đi định cư tại nước ngoài. Trong cuộc sống mới, nói chung là tạm ổn định và thoải mái, nhà thơ vẫn luôn luôn có cùng tâm trạng với đa số các người Việt phải xa quê khác, đó là một cảm giác lạc lõng và quạnh hiu trong cuộc sống. Nhà thơ viết:
Dù cho cảnh vật nơi xứ người có đẹp đẽ thơ mộng đến thế nào chăng nữa thì nhà thơ vẫn có cùng cái tâm trạng của Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đó là một tâm trạng phiền muộn, chẳng những chỉ có vào những ngày đặc biệt như ngày “sinh nhật” mà còn dàn trải ra theo thời gian, kể cả những lúc năm cùng tháng tận, vào buổi “giao thừa”:
Những khi lòng người xa xứ cảm thấy “lạnh lẽo” nhất, chẳng khác nào tuyết rơi trắng lạnh nơi xứ người, thì chính lúc đó là lúc nhà thơ thả hồn mơ về quê xưa, gửi tâm tư về những hình ảnh thân thương cũ nơi: “Vùng Trời Dấu Yêu” một thuở nào.
*
Trong khung cảnh trìu mến “Vùng Trời Dấu Yêu” nổi bật lên hình bóng của người Cha đã khuất. Nhân ngày mà mọi người đều chọn làm ngày thương nhớ về cha, nhà thơ đặt bút viết những vần thơ tưởng vọng về Cha mình:
*
Bên cạnh hình bóng Cha là hình ảnh thân thương của người Mẹ. Tưởng nhớ về Mẹ nhà thơ viết:
Người con nào mà chẳng cho rằng Mẹ mình là “tuyệt vời”, Mẹ mình là “một nàng tiên”. Bởi thế khi không còn bóng dáng Mẹ nữa thì con đâu còn cảm thấy “thăng bằng trong cuộc sống”:
Ngày lễ Vu Lan con nhìn bông hồng đỏ cài trên áo những người còn Mẹ mà thầm đau xót cho chính mình. Những người không còn Mẹ lặng lẽ cài lên áo một bông hồng trắng, trong lòng tràn ngập nỗi nhớ thương.
*
Nhưng hình ảnh chính trong “Vùng Trời Dấu Yêu” của bất cứ kẻ xa xứ nào cũng vẫn là cái hình ảnh quê hương đất nước. Quê hương có thể là “câu ru của Mẹ” văng vẳng bên nhịp cầu tre đơn sơ hay con đường làng nho nhỏ với bầy trâu bầy nghé quen thuộc:
Quê Mẹ có thể là lối đi cỏ mượt, cánh đồng vàng lúa, lũy tre êm đềm hay con sông uốn khúc bên bờ đê rực rỡ nắng hè:
Thời gian trôi, ngày tháng trôi, tuổi xuân cũng dần trôi. Chẳng mấy chốc mà đã thoáng qua nửa đời người. Quê hương vẫn biền biệt xa xăm, làm sao lòng người có thể vui. Tóc dần nhuộm trắng màu sương tuyết, bước chân đi đã run, chẳng biết bao giờ mới có dịp được trở về chốn cũ:
*
Trong “Vùng Trời Dấu Yêu” nhà thơ còn trải rộng lòng mình ra để cùng chung nhịp đập, cùng chung tiếng thổn thức với những đồng bào ruột thịt đang cận kề bên cái chết trên đường vượt biển đi tìm tự do, đó là những “thuyền nhân”:
Nhà thơ cũng trao gửi tâm tình mình về những người “khoác áo chinh y” một thuở nào giờ đây đã nằm yên dưới lòng đất mẹ. Nếu có ai đó coi mọi chuyện chỉ như lớp bụi mờ thì nhà thơ vẫn coi đó là cả “một bài thơ đẹp” cho chính mình.
Trong lòng nhà thơ những con phố cũ chẳng có thể bị đổi tên, những lá cờ xưa nào có thể bị thay màu và những người chiến sĩ dù vô danh đâu có thể bị quên lãng:
*
Khi con tim còn đập là con người còn yêu. Bởi thế thờ tình luôn luôn bất diệt trên trái đất. Trong cái “Vùng Trời Dấu Yêu” của mình Lê Thị Ý cũng đã dành cả một khoảng trời mênh mông cho tình yêu. Trong mùa Giáng Sinh tiếng lòng nhà thơ rộn rã:
Nhưng tình yêu như một thứ trái đắng, như tiếng rạn vỡ của lá khô dưới bước chân người, như cánh hoa rơi rụng trong nắng nhạt:
Tuy cuộc tình có thể dở dang, dở dang vì duyên số, dở dang vì đôi bờ sinh tử nhưng chẳng thể dang dở trong lòng người chung thủy:
Lâm Ngữ Đường đã cho rằng với người Trung Hoa thơ đã thế vai trò của Đạo. Thơ văn Trung Hoa chính là một cách sống Đạo của người Trung Hoa vậy. Thơ là một cách sống Đạo hay là một phương thế giúp người đông phương sống Đạo, hành Đạo và hoằng Đạo vì thơ là phương tiện giúp cho con người “hòa” dễ dàng nhất với đối tượng. Tình Đạo không chỉ xuất hiện thấp thoáng trong tình Đời mà lắm khi tình Đạo còn thay thế cả tình Đời.
Có lẽ cũng trong cái tư tưởng đó mà Lê Thị Ý đã tìm về tôn giáo của chính mình. Đó là Phật Giáo. Phật Giáo đã trở thành một dòng suối tươi mát cho tâm hồn con người, nhất là những lúc cuộc đời gặp “sóng gió” nhất:
Đạo Phật đến với cuộc đời bằng tình yêu cho nên sống với tình yêu thì con người cũng như nhà thơ sẽ gặp Đạo Phật. Thất vọng với tình đời trong cõi “trần tục” con người nói chung cũng như nhà thơ nói riêng thường quay về với tình Đạo. Chính trong cái tình Đạo đó mà Lê Thị Ý cảm nhận được sự “hợp tan” của cuộc sống:
Cảm nhận được cái lý “vô thường” của Đạo Phật, cái “sinh tử”, “đi, ở” của kiếp người khi nhớ về một người bạn thơ cũ đã khuất bóng:
Nhà thơ nhận thức rõ ràng cuộc đời này chỉ còn là một “cõi tạm” hoàn toàn giả tạo, đầy những “hư vô”:
Người ta thường quan niệm rằng “Thơ là một lối sống, một lối nhận thức, một lối dùng ngôn ngữ, âm điệu để diễn tả tâm tư tình cảm riêng. Nhà thơ có thể là một kẻ buồn bã cô đơn, nhưng thơ không thể nào tồn tại trong cô độc. Thơ không phải là một cách độc thoại mà phải là một cách truyền đạt kinh nghiệm cho tha nhân. Thơ cần có sự thông cảm và thưởng thức của người đọc. Giá trị của thơ là ở chỗ này. Cái nền của thơ là cảm xúc, một cảm xúc thành thật”.
Nếu đồng ý với quan niệm trên thì người yêu thơ lại nhớ đến phần cuối tập thơ “Cuộc Tình Và Chân Dung Tôi” của Lê Thị Ý (xuất bản tại Saigon năm 1972) có 10 bài “Thương Ca”. Nhạc sỹ Phạm Duy đã chọn ra bài “Thương Ca” đầu tiên để đem phổ nhạc vào năm 1971 (khi thơ chưa được xuất bản) với tựa đề là “Tưởng Như Còn Người Yêu”:
Lời thơ của Ý, lời ca của nhạc Phạm Duy xưa như còn mãi mãi văng vẳng trong lòng người, trong tâm hồn kẻ yêu thơ, yêu nhạc. Phải chăng Lê Thị Ý đã được coi là thành công ở điểm này. Thơ Lê Thị Ý đã là những âm thanh nấc nghẹn, đã đóng góp thêm ít trang vào cuốn từ điển ghi lại mọi nỗi thống khổ của con người, của chiến tranh.
Hồ Trường An trong “Thông Điệp Hồng” đã viết những nhận xét sau đây về thơ Ý: “Lê Thị Ý là nhà thơ tình yêu. Thơ của chị như vương vấn một lớp bụi mỏng của T.T.KH... chị đã gây một phong trào tái dựng lại thơ tình yêu kiểu T.T.KH., và số độc giả say mê loại thơ tình lãng mạn không phải là ít”.
Lời nhận xét trên tuy chính xác nhưng thiết tưởng cần phải nói thêm về tình yêu, nhất là tình yêu kiểu “quằn quại” như T.T.KH., mà còn trải rộng ra cả một “Vùng Trời Dấu Yêu” rộng lớn bao la khác.
Xuân Diệu cho rằng thi sĩ chỉ là “một con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi”. Người nghe có cảm tưởng thơ là một cách trốn thực tại và trong cuộc đời này nhà thơ chỉ là một người xa lạ giữa loài người xa lạ.
Thật ra nhà thơ không phải là kẻ vi phạm tội mà bị “phát vãng” từ thiên cung xuống dưới trần thế này. Nhà thơ là một con người và đối tượng của thơ, chất liệu tạo ra thơ chính là cuộc đời, là quên là nhớ, là thương là ghét, là vui là buồn...
Lê Thị ý tuyệt nhiên không phải là một con chim đến từ núi lạ và nhất là không cất tiếng hót chơi. Lê Thị Ý không hót chơi, không giỡn chơi với các hình ảnh thân thương trong “Vùng Trời Dấu Yêu” của chính mình, đó là những người thân yêu như cha, mẹ, như quê hương đất nước, như đồng bào thân thương đang quằn quại trong cuộc sống tại quê nhà hay lênh đênh trên biển cả một thời nào đó, không giỡn chơi với thân phận tù đầy của các người lính chiến thân hữu của mình và nhất là không bỡn cợt với hình ảnh yêu dấu của tình yêu, dù là Tình yêu không trọn vẹn của chính mình cũng như tình yêu dang dở của người.
Thơ của Ý là tiếng nói của lòng người, là cảm xúc chân thành, là cái ước vọng của con người muôn thuở. Là sự thủy chung. Thủy chung từ cách dùng từ ngữ, chọn đề tài cũng như chọn thể thơ, hình thức thơ. Thật vậy trong tập thơ mới này Lê Thị Ý đã sử dụng thể thơ “lục bát” trong hơn 2/3 số bài thơ. Một thể thơ thuần túy Việt Nam, tràn đầy tình tự dân tộc, văng vẳng như những lời ru của Mẹ hiền bên con yên ngủ.
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Nguồn: http://phunuviet.org/D_1-2_2-59_4-194/le-thi-y.html','','1000','600','scrollbars')" style="text-decoration: none; color: navy;">phunuviet.org