User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

resized han mac tu 1

Trong lúc tham khảo tài liệu để viết cuốn "Lá Trúc Che Ngang – Chuyện tình của cô tôi", tôi thầm cảm phục và thương mến bà Mai Đình, một người con gái ở đầu thế kỷ 20, dám công khai bạch hóa mối tình đơn phương của mình, dám nhận mình yêu thầm trộm nhớ người chưa từng gặp mặt với mấy vần thơ bất hủ:

Còn anh em đã gặp anh đâu!
Chỉ cảm vần thơ có những câu.
Âu yếm say sưa đầy cả mộng,
Xui lòng tư tưởng lúc đêm thâu.
……………………
Mộng hồn em gởi theo chiều gió
Để đến gần anh ngỏ ít lời.

Bà cũng không ngần ngại thú nhận mình đã hành khất tình yêu:

Tôi là kẻ thiếu nhiều và thiếu lắm
Đã ra người hành khất bấy lâu nay…

Nhiều bài viết và nhiều bài bình luận về người phụ nữ độc nhất vô nhị này không được trung thực vì hầu hết đều được dẫn nguồn từ cuốn Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại (TTM) xuất bản năm 1942 và cuốn hồi ký Đôi nét về Hàn Mặc Tử của Quách Tấn (QT) xuất bản năm 1988. Cả hai tác giả đều đưa ra những thông tin không chính xác.

TTM ghi sách của ông thuộc thể loại truyện ký (biography), một thể loại khảo cứu khá mới mẻ thời ấy. Ông ghi một loạt định nghĩa về thể loại này và quả quyết công việc khảo cứu như thế này phải vô tư, trung thực rồi ông khẳng định: “tôi không thêm thắt vẻ vời, tôi nào có muốn làm cho ê chề, làm cho cảm động những đoạn đời của Nguyễn Trọng Trí để thêm phần quan trọng, mê luyến cho sách tôi.”(tr. XI)

Nhưng sách của ông có vô tư, có trung thực không? Ông Nguyễn Văn Xê, người thân cận nhất với Hàn Mạc Tử, cho rằng những gì ông TTM viết về Hàn Mạc Tử không sát sự thật và rất tiếc đã không có dịp liên lạc với ông để bổ túc vì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ (tr. 44 sách Đi tìm Chân Dung Hàn Mạc Tử của Phạm Xuân Tuyển). Nhà phê bình Phạm Công Thiện thì viết “Điểm đầu tiên tôi nhận thấy rõ ở Trần Thanh Mại là “hay nói to, nói nhiều, nói lớn chuyện lên…” (tr. 199, phần phụ lục Phạm Công Thiện trong sách Đôi nét về Hàn Mặc Tử của QT, 1988). Phạm Công Thiện cho rằng TTM: “muốn biến chương Mai Đình Nữ Sĩ thành một thiên tiểu thuyết.” (tr.207).

Thật vậy, nhiều chi tiết trong chương Mai Đình Nữ Sĩ -- cuốn Hàn Mạc Tử của TTM in lần thứ ba từ trang 107-116 -- đọc qua như đọc tiểu thuyết với lời dẫn nhập: “Khoảng mùa thu năm 1938, một sự huyền diệu đích thực xảy đến cho Hàn Mạc Tử. Một người bạn gái từ miền Lục Tỉnh mang ra tặng một số tiền nho nhỏ. Vì chàng nhất định không nhận, nàng cũng nhất định không nghe, và nàng tỏ rõ sự quả quyết của mình bằng cách vào buồng cất va-ly và xuống bếp tìm rổ xách đi chợ.” Hãy tưởng tượng một người con gái trẻ ở đâu đến tự dưng xông xáo vào nhà người đàn ông lạ, tìm cái giỏ xách đi chợ, về nhà làm cơm mặc cho chủ nhà phản đối. Nhiều tình tiết ly kỳ khác tiếp nối trong nhiều trang cho đến cuối chương. Quách Tấn đã cải chính vụ việc Mai Đình nuôi nấng HMT trong hai tháng là hư cấu, là ảo tưởng. Theo gia đình thì mấy chị em Hàn cảm chân tình của Mai Đình, xin phép mẹ cho nàng ở lại chơi hai ngày với sự hiện diện của cả nhà. Mà hình như thơ Mai Đình, khuê danh là Lê Thị Mai – Hoàng Tùng Ngâm, bạn thân của Hàn Mạc Tử, thì nói bà tên Lê Thị Ngọc Mai – làm về cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa bà và Hàn Mạc Tử không đến 30 bài? Tôi không tìm đâu ra bài thơ nào của bà làm trước thời gian đó. Phạm Xuân Tuyển trong cuốn Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử cũng ghi tên bà là Lê Thị Ngọc Mai (tr. 83)

Mai Đình là một hiện tượng lạ trong văn học và ở ngoài đời. Bà là người đi trước thời đại nhiều bước, là người nhất định không vâng theo khuôn phép ngàn xưa dành cho phụ nữ, đã bỏ nhà ra đi vì không muốn về nhà người chồng cha mẹ chọn. Cũng may bà có vốn liếng học hành và giỏi nữ công gia chánh nên bà có thể thân tự lập thân, không như những phụ nữ cùng thời phải đeo ba cái gông tòng phụ, tòng phu, tòng tử, mấy cái gông do một ông Tàu sống từ hơn 26 thế kỷ trước bày ra, tròng lên cổ người đàn bà bắt buộc phải phục tòng đàn ông. Đức Phật, người sinh ra đồng thời, thì ngược lại, làm một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu, không những giải phóng cho phụ nữ mà còn phá tan xiềng xích giai cấp xã hội của Ấn Độ thời bấy giờ. Với thuyết nhân quả luân hồi thì cho rằng mọi người sinh ra phải được bình đẳng là rất hợp lý. Con người ta sinh ra khác giới tính, giàu nghèo sang hèn khác nhau là vì nhân quả nhiều đời, trùng trùng duyên khởi duyên sinh. Vậy mà cái ông Tàu cổ hủ kia độc đoán cho rằng đàn bà sinh ra là để phục vụ đàn ông: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử!” nhưng mà nhà thơ Mai Đình của chúng ta đã tháo gỡ được gông cùm xiềng xích nô lệ này. Bà đã thoát ly được ba chữ tòng để tự làm chủ đời mình.

maidinh

Nữ Sĩ Mai Đình lúc 75 tuổi

Theo tài liệu tham khảo thì bà làm gia sư để kiếm sống. Bà dạy nữ công gia chánh cho những tiểu thư con nhà. Có thể bà có óc phiêu lưu muốn tìm hiểu những chân trời mới lạ nên không ngại di chuyển đến nhiều nơi mà TTM chủ quan cho rằng, “gió đời cứ đưa tấp nàng tới bến kia, ghềnh nọ: Kontum, Gia Lai, Đalat, Nha Trang, Phan Thiết, Saigon, Nam Vang” (tr. 108, Hàn Mạc Tử, TTM), và gọi bà là “Cô gái đi giang hồ” (tr. 108) mà “số kiếp phong trần cứ đuổi theo mãi mãi.” (tr. XIII) Sao không nghĩ rằng chính bà đã cố tình chọn lựa những nơi chốn ấy để tới, để biết vì ở đâu bà cũng có thể tự nuôi thân được? Mới đọc qua chương Mai Đình, tôi có cảm tưởng bà cùng một hội một thuyền với cô Kiều, với những cụm từ “người đàn bà phiêu lưu, lãng mạn, phóng túng, giang hồ, bến kia, ghềnh nọ.” TTM còn ban cho bà mấy câu Kiều:

…… từ ngộ biến đến giờ
Oanh qua bướm lại đã thừa xấu xa. (tr. 112)

Ông thật quá lời khi muốn tiểu thuyết hóa mối duyên hạnh ngộ giữa Mai Đình và Hàn Mạc Tử.

Quách Tấn cũng thêm bớt khá nhiều khi nói về Mai Đình, từ trang 69 đến trang 77 trong cuốn Đôi nét về Hàn Mạc Tử. Theo ông, Mai Đình không đẹp nên không làm cho HMT động lòng. HMT chỉ gởi tặng tập Gái Quê để tạ lỗi không tiếp được khi Mai Đình tìm đến thăm lần thứ nhất. Đọc hết tập Gái Quê thì Mai Đình cảm phục thi tài của Hàn và sinh lòng yêu mến thi nhân nên ngẫu hứng làm bài thơ “Biết Anh” và đã nhờ Quách Tấn trao lại cho thi sĩ. Hàn cảm động viết ngay bài “Lưu Luyến” để tạ tình. “Lưu Luyến” là một trong những bài thơ hay nhất của thi sĩ:

Chưa gặp nhau mà đã biệt ly,
Hồn anh theo dõi bóng em đi.
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì!
…………….
Anh điên anh nói như người dại,
Van lạy không gian xóa những ngày…

Cùng với bài “Biết Anh”, QT viết mấy giòng cho HMT giới thiệu Mai Đình là một tuyệt thế giai nhân và cho rằng vì vậy HMT mới cao hứng làm ngay bài “Lưu Luyến” để tặng người đẹp (tr. 71). Việc Quách Tấn kể lại mẫu đối thoại giữa ông và Hàn diễu cợt về nhan sắc của Mai Đình (tr. 75) là một điều đáng phàn nàn.

Cho mãi đến năm 2011, một bài viết về Mai Đình được đưa lên mạng (posted on 11/29/2011, hai năm sau khi bà qua đời) với đầu đề: Nữ sĩ Mai Đình kể về mối tình với Hàn Mạc Tử của Đắc Trung do Ông Già Sa Đéc sưu tầm, làm sáng tỏ nhiều điểm liên hệ đến mối tình thơ giữa Mai Đình và Hàn Mạc Tử. Tôi xin được tóm tắt câu chuyện nhà thơ gặp gỡ Mai Đình do chính bà kể tại nhà ông Đắc Trung ở số 64 Bà Triệu ở Hà Nội năm 1993.

Theo ông Đắc Trung, tuy đã gần 78 tuổi, “nữ sĩ Mai Đình vẫn giữ được những nét đẹp kiêu sa, quý phái.” Tài liệu cho thấy Mai Đình tình cờ được đọc bài thơ “Thức Khuya” của Hàn trong tờ “Saigon”, mục Văn chương, làm bà say, bà cảm cái chất thơ, hồn thơ. Người làm thơ có cái tên Hàn Mạc Tử đã ám ảnh bà ngày đêm và trong tâm bà đã hình thành bóng dáng một thi nhân tuyệt vời. Bà tìm đọc thơ của ông và gởi bản thảo thơ mình cho tờ “Saigon”. Hàn Mạc Tử đã hồi âm với lời thư “tao nhã cao sang” và đã lần lượt cho đăng thơ của bà và bà cho rằng hai tâm hồn thơ đã gặp nhau và rất ý hợp tâm đồng.

Năm 1937 trong chuyến đi từ Thanh Hóa vào Phan Thiết, tình cờ bà nghe biết được Hàn Mạc Tử đang ở Qui Nhơn dưỡng bệnh. Bà một mình đến thăm nhưng Hàn không tiếp chỉ cho em trai tên Hiếu ra xin lỗi. Nhưng tối hôm đó, trước khi lên tàu vào Nam, Hàn nhờ ông Nguyễn Minh Vỹ đem biếu bà tập Gái Quê để tạ lòng người ở phương xa. Tàu đến Nha Trang là bà đã viết xong bài thơ “Biết Anh” vì quá xúc động khi đọc hết những bài thơ trong tập Gái Quê. Bà liền đến thăm Quách Tấn, người bạn văn chương vì biết Quách Tấn là bạn thân của Hàn. Quách Tấn muốn mượn tập Gái Quê trên tay bà vì tập của ông đã cho người khác mượn mà nay ông cần để tham khảo cho một bài ông muốn viết. Mai Đình vui vẻ đưa ông mà quên là đã kẹp bài “Biết Anh” trong tập Gái Quê. Sau khi bà đi rồi, Quách Tấn mới chép bài thơ ấy gởi cho Hàn, không phải Mai Đình nhờ ông gởi cho Hàn như ông kể trong sách của ông. Và ai cũng biết sau khi đọc bài “Biết Anh”, Hàn viết liền bài “Lưu Luyến” gởi lại cho Mai Đình. Bài thơ tình tứ ngọt ngào làm cho nữ sĩ “chết” đứng! Bà tin rằng “Biết Anh" và “Lưu Luyến” đã nói lên nỗi lòng của hai người, “từ đó chúng tôi thư từ cho nhau, gắn bó với nhau như cặp tình nhân trong mộng.”

Gần hai năm sau, đầu năm 1939, Mai Đình trở ra Quy Nhơn thăm thì mới biết Hàn đã dời đến ở Gò Bồi. Gia đình Hàn cho một chú bé dẫn bà đi Gò Bồi. Một Hàn Mạc Tử trước mặt bà khác xa với hình ảnh bà tôn thờ trong mộng nhưng rồi bà vẫn trìu mến nói khẽ, “em là Mai Đình đến thăm anh đây… Vâng, Mai Đình đây.” Hàn rưng rưng nước mắt tiếp chuyện. Hai người tâm sự như quen biết từ lâu rất tâm đầu ý hiệp, từ chuyện đạo, chuyện đời, chuyện văn chương… Sau buổi đầu gặp gỡ ấy, Mai Đình thu xếp công chuyện ra thăm được mấy lần và mỗi lần gặp nhau là Hàn Mạc Tử rất vui, cùng bà say sưa xướng họa, là những giây phút thần tiên của hai người. Bà đặt tên tập thơ xướng họa là “Đôi Hồn” và trân trọng cất giữ dù có người muốn mua với giá rất đắt. Đối vối với bà “đó là những kỷ niệm vô giá thiêng liêng với Hàn Mạc Tử, không muốn chia sẻ cùng ai.”

Như ta đã thấy Mai Đình vô tình để quên bài “Biết Anh” trong tập Gái Quê chứ bà không nhờ Quách Tấn gởi cho Hàn Mạc Tử bài thơ định mệnh ấy. Trong câu chuyện cũng không hề nghe bà nhắc vụ đi chợ nấu ăn cho Hàn Mạc Tử như Trần Thanh Mại kể. Năm 1937, bà một mình tìm đến thăm nhưng Hàn không tiếp và mãi đến đầu năm 1939, bà mới ra lại Quy Nhơn. Theo cuốn Hàn Mạc Tử của TTM thì Mai Đình đã xách vali đến nhà Hàn vào khoảng mùa thu năm 1938 (tr. 107). Chắc ông tưởng tượng có câu chuyện Mai Đình săn sóc người yêu trong hai tháng vì đã đọc bài “Hương Thơm” của bà với bốn câu cuối:

Thôi từ giã vì ta chưa hết nợ,
Sáu mươi ngày ta hãy trả cho xong.
Chỉ đầu xuân trong một mùa hoa nở
Em trở về trong một tối đầy trăng…

Tuy vậy, nhà phê bình Trần Thanh Mại có công lớn với thi ca Việt Nam vì là người đã sớm giới thiệu nhà thơ thiên tài Hàn Mạc Tử. Ông cũng rất trân trọng tấm chân tình của Mai Đình đối với sự nghiệp văn chương của thi sĩ khi bà tự nguyện đến tìm ông hai lần, kể cho ông nghe mối duyên thơ giữa bà với thi sĩ, đồng thời trao cho ông nhiều tài liệu về nhà thơ bà yêu mến (tr. XIII).

Nguyễn Bá Tín trong "Hàn Mạc Tử anh tôi" ghi rằng: “Khác với những mối tình âm thầm kín đáo, hoặc dè dặt của Hoàng Hoa, của Mộng Cầm, chị Mai Đình là người yêu thơ cũng như yêu con người phong cùi đó, một cách ồn ào, sôi nổi và tha thiết nhất.” (nguồn: trên mạng “Mảnh tình cuối của thi sĩ tài hoa bạc phận Hàn Mạc Tử, 20 May, 2017). Thật vậy, bà không e dè, không giấu giếm mình đã yêu Hàn với tất cả tâm hồn:

Em đã yêu anh đến dại người,
Lòng em ngày tháng dễ nào nguôi
Yêu anh trên hết tình yêu mến,
Và sẽ yêu anh suốt một đời. (khổ đầu của bài “Anh Hứa Đi Anh”)

Hay:

Tôi yêu chàng đã khắc sâu vào tim óc,
Tôi thờ chàng như một vị thần linh…… (Tuyên Bố)

Tình nàng thì dạt dào, chan chứa và thiết tha như vậy, còn nhà thơ của chúng ta đối với nàng thì sao? Hàn Mạc Tử cũng rất “da diết” trong bài “Thắm Thiết” làm riêng để tặng nàng:

Cười cho lắm cho dầm dề nước mắt
Chết ruột gan mà ngoài mặt như không.
Anh nhìn Mai chua xót cả tấm lòng
Không biết nói làm sao cho da diết!
Trắng như tinh và rất nên thanh bạch
Cốt cách đều rất mực đồng trinh.
Mai của Anh, chiều phong vận xinh xinh.
Say một nửa và thơm một nửa..
………………….
Quý như vàng, trọng như ngọc trên đời
Mai! Mai! Mai! Là nguyệt nga tái thế.

Nhưng Quách Tấn thì vẫn cho rằng Tử không yêu vì Mai “thiếu những yếu tố rung cảm” (Đôi nét về Hàn Mạc Tử, tr.70), rằng lòng Tử hết sức rung cảm trong khi Tử làm thơ tặng Mai thôi (tr.76). Cũng có thể Mai Đình muốn tin là “Hai tâm hồn thơ đã gặp nhau và gắn bó với nhau như cặp tình nhân trong mộng.” (bà kể năm 1993) nhưng trong thâm tâm bà vẫn nghi ngờ khi bà viết mấy vần thơ này tặng Hàn:

“Ai cấm người yêu thơ quá độ
Ai ghì gió lốc giữa không gian
Và ai nỡ phụ lòng tri kỷ
Để hận riêng người phải khóc than
Em yêu một kẻ không yêu lại
Thử hỏi xem lòng có khổ không?” (Nguyễn Đình Niên, tr. 255)

Tình yêu của Mai là một thứ tình yêu bồng bột, sôi nổi, chân thành. Sau khi Hàn mất, bà vẫn một lòng thương nhớ không nguôi:

Thiếp nhớ chàng, thiếp nhớ chàng khôn tả,
Dẫu muôn ngày thiếp còn ở thế gian.
Không phút nào thiếp quên chàng cả,
Một thiên tài đã yên giấc Vu san. (Tìm Kiếm, tháng 6, 1941)

Sau khi Hàn mất không lâu, bà đi thăm mộ Hàn khi mộ còn ở Quy Hòa (tr. 194, Hàn Mạc Tử, thơ và đời, Lữ Huy Nguyên) và vẫn làm thơ thương nhớ:

Lệ Thanh ơi! Lệ Thanh ơi!
Anh đã chết rồi
Nhưng anh chỉ chết với người
Với em anh vẫn sống hoài muôn năm (khổ cuối của bài Ảnh Người Xưa, tháng 9, 1941)

Hiện tượng Mai Đình đến với Hàn vào lúc Hàn đau khổ vì Mộng Cầm là một niềm an ủi lớn như Nguyễn Đình Niên nhận xét (tr. 140), là một điều hiếm quý như Vũ Hải kết luận (Tr 61, Hành trang cho thơ và sự trở lại chính mình của Hàn Mạc Tử, Vũ Hải.) Chúng tôi đồng ý với tác giả này: “xin dành những lời vàng ngọc đẹp nhất dành tặng riêng cho người con gái có một không hai này.” (Vũ Hải, tr. 61)

Tuy thề thốt “không phút nào thiếp quên chàng cả” nhưng rồi Mai Đình cũng phải quay về với thực tại, vẫn phải đi trọn đường trần. Rất may bà đã gặp được hạnh phúc bình thường bên cạnh chồng con. Bà rất thật với mình và với người khi làm bài thơ “Quên”:

Tôi tưởng hồn tôi đã mất rồi
Cuộc đời cô độc mãi theo tôi
Nhưng thời gian giúp tôi mờ xóa
Trong trái tim đau một bóng người!
Chồng tôi đem lại bao tươi đẹp
Những đưa con thơ gọi mẹ thầy
Chồng biết yêu thương, con trìu mến
Lòng tôi mờ xóa bóng hình ai? …… (1943)

Tuy hạnh phúc bên chồng con, lòng bà không lúc nào quên bóng dáng người xưa. Chồng bà là một người quân tử nên bà đã có thể có bàn thờ tưởng niệm Hàn ngay trong nhà. Không những bà thờ di ảnh Hàn mà còn thờ cả di ảnh Hoàng Hoa, người Hàn thương yêu nữa (Phạm Xuân Tuyển, tr. 84). Mai Đình nữ sĩ thật có tấm lòng bao la như biển cả đáng cho mọi người thương mến trân trọng. Năm 75 tuổi bà đi thăm mộ Hàn một lần cuối. (Phạm Xuân Tuyển, tr.395). Mối tình thơ giữa nữ sĩ Mai Đình và nhà thơ phong cùi là một cuộc tình diễm ảo có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà.

Sau đây là bài thơ cảm tác của Nguyễn Bá Tín về Mai Đình, bài thứ ba ghi trong tập thơ của ông, chương “Những người đàn bà trong sự nghiệp thi văn của Hàn Mạc Tử”:

Mai Đình tiên nữ cõi Vu san
Vướng nghiệp văn chương trở xuống trần
Oan trái tào khang vừa gỡ được,
Nợ nần xướng họa lại đa mang.
Giang hồ cánh bướm không lo mỏi
Mưa gió đời hoa chẳng ngại tàn
Còn chút duyên thừa dâng trọn thuở,
Cho tình sống mãi với Thi Nhân.

 

Hoàng Thị Quỳnh Hoa

_________

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, in lần thứ ba, NXB Tân Việt, 1957.

2. Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, NXB Quê Mẹ, 1988.

3. Phạm Xuân Tuyển, Đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử, NXB Văn Học Hà Nội, 1997.

4. Nguyễn Đình Niên, Kinh Nghiệm vè thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử, SEACAEF, 2009.

5. Lữ Huy Nguyên, Hàn Mạc Tử thơ và đời, NXB Văn Học, Hà Nội, 1995.

6. Vũ Hải, Hành trang cho thơ và sự trở lại chính mình của Hàn Mạc Tử, tr. 61, NXB Đà Nẵng, 1996.

7. Nguyễn Bá Tín, Dang dở thi tập. Tập thơ chép tay được tìm thấy trong hồ sơ lưu trữ của cô Hoàng Thị Kim Cúc.

8. Trên mạng: “Nữ sĩ Mai Đình kể về mối tình với Hàn Mạc Tử” posted 29 Nov. 2011.

9. Trên mạng: “Mảnh tình cuối của thi sĩ tài hoa bạc phận” posted 20 May, 2017.

10. Thư riêng của Hoàng Tùng Ngâm

 

Tìm các bài BIÊN KHẢO khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com