Người ta nói sau lưng một người đàn ông thành công là một người phụ nữ. Dĩ nhiên, vị nguyên thủ của một quốc gia được xem là một người thành công ít ra là về mặt quyền lực. Sau lưng họ là người phụ nữ được gọi là Đệ Nhất Phu Nhân. Vậy có những vị Đệ Nhất Phu Nhân nào trong lịch sử được người đời nói đến nhiều nhứt?
Marie-Antoinette (2/11/1755 – 16 /10/1793): Hoàng Hậu Nước Pháp

Marie- Antoinette sinh ở Vienne, Áo là người con thứ 15 của gia tộc mà mẹ là Marie-Thérèse d'Autriche nữ hoàng Hung Gia Lợi và hoàng đế Francois đệ nhứt của Đức.
Năm 14 tuổi, Marie-Antoinette được gả cho vua Louis XVI tương lai của nước Pháp.
Ngày 21 tháng 4 năm 1770, sáng sớm Marie-Antoinette từ giả Vienne và hoàng gia lên đường sang Pháp với bao lời dặn dò của hoàng mẫu. Sau 3 tuần, cô công chúa đặt chân đến đất Pháp và được người dân dọc đường ngưỡng mộ. Nhưng khi đặt chân tới kinh thành Paris thì hoàn cảnh thay đổi. Marie-Antoinette gặp thái độ ghẻ lạnh của mọi người nhứt là những người trong hoàng gia Pháp.
Sự ghét bỏ cô dâu dị tộc này tiếp tục kể cả khi Marie-Antoinette lên ngôi hoàng hậu nước Pháp. Người trong triều đình gọi lén hoàng hậu của họ một cách sách mé là “con mẹ Áo”. Marie-Antoinette chán cảnh triều đình nên thường cùng vua Louis XVI lui về ngôi làng do bà cho dựng lên gọi là Làng Hoàng Hậu. Ở đó, Marie-Antoinette cùng các người bạn của mình vui chơi, khiêu vũ, ca hát và đóng kịch. Do đó, bà bị hoàng gia bên chồng càng bêu xấu đủ mọi thứ: nào là lãng phí của công, phạm gian với các công tôn, công tử và cả với anh rể. Vụ việc “sợi dây chuyền” mà hai tay thợ bạc Boehmer và Bassange đòi hoàng hậu 1,6 triệu bảng là một vụ lường gạt của một cặp vợ chồng công tước giả với sự đồng lõa của Hồng Y Ronan, cũng làm bà mang hàm oan.
Khi cuộc cách mạng 1789 nổ ra lật đổ chế độ quân chủ, vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette bị bắt. Họ bị cáo buộc âm mưu thông đồng với ngoại bang để phá hoại nền Cộng Hòa. Lần lượt vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette bị chính quyền Cộng Hòa xử chém đầu trong năm 1793.
Một công nương nước Áo được đưa sang Pháp làm con tin cho sự liên minh hai quốc gia trở thành nạn nhân cho sự nghi kỵ mối liên kết ấy và cái chết bi thảm của một Đệ Nhứt Phu Nhân (Mẫu Nghi Thiên Hạ trong chế độ quân chủ) làm mọi người thương cảm cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh.
Jacqueline Kennedy (1929-1994), Đệ Nhứt Phu Nhân Hoa Kỳ

Jacqueline Bouvier sinh ngày 28 tháng Bảy ở Southampton, New York. Cha bà, John Bouvier là một tay chơi cổ phiếu giàu có ở New York gốc Pháp theo Công giáo và mẹ bà gốc Ái Nhĩ Lan cũng theo Công Giáo. Một trong những thầy giáo Tiểu Học mô tả bà là”một đứa trẻ đáng yêu,cô bé xinh nhứt lớp, rất thông minh, rất nghệ sĩ và đầy vẻ ma mị”.
Jacqueline hưởng một thời thơ ấu trong nhung lụa: học vũ ba lê ở Hí viện thành phố và học tiếng Pháp từ khi 12 tuổi. Giống mẹ, Jacqueline thích cỡi ngựa và rất điêu luyện trên lưng ngựa, bà thường thắng trong các giải đua ngựa.
Bậc Trung Học, Jacqueline theo học trường Miss Porter ở Farmington, Connecticut. Bà là một học sinh xuất sắc thường viết văn và thơ cho tờ báo của trường và được giải nhứt văn chương ở bậc Đệ Nhị Cấp. Cũng trong những năm đó, bà được một tờ báo địa phương trao giải “nhà báo triển vọng” trong năm. Tuy nhiên, bà có tham vọng lớn hơn việc bà được công nhận là xinh đẹp và nổi tiếng. Bà viết trong cuốn niên giám là tham vọng trong cuộc đời của bà là ”quyết không làm một người nội trợ bình thường”.
Sau khi tốt nghiệp Trung Học, Jacqueline ghi danh vô Đại Học Vassar ở New York theo học lịch sử, văn chương, nghệ thuật và tiếng Pháp. Bà đã du học 1 năm ở Paris khi còn ở cấp 1 Đại Học. Sau này, bà viết rằng đó là thời gian bà yêu quý nhứt trong cuộc đời bà.
Ở Paris về, Jacqueline chuyển sang Đại Học George Washington ở Washington DC và sâu đó tốt nghiệp Cử Nhân văn chương Pháp năm 1951. Bà bắt đầu công việc làm ”nhiếp ảnh kiêm phỏng vấn viên cho tờ nhựt báo Washington Times-Hérald. Bà đã phỏng vấn Richard Nixon, làm phóng sự buổi lễ nhậm chức của Tổng Thống Eisenhower và lễ đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị.
Năm 1952, trong một buổi tiệc của đảng dân chủ, Jacqueline gặp một Dân Biểu trẻ mới vừa đắc cử chức Thượng Nghị Sĩ của tiểu bang Massachusetts tên John F. Kennedy, đúng là một cuộc gặp gỡ định mệnh.
Năm sau, ngày 2 tháng 9 năm 1953, hai người cưới nhau. Jacqueline sinh đứa con đầu tiên, Caroline Kennedy, năm 1957. Cũng năm đó bà khuyến khích chồng viết cuốn Profiles in Courage và bà giúp ông trong việc hiệu đính cuốn sách đó.
Tháng Giêng năm 1960, John F. Kennedy loan báo sẽ ra ứng cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Dù lúc đó đang mang thai không thể theo chồng đi vận động cử tri, nhưng Jacqueline vẫn giúp chồng từ nhà: trả lời thư cử tri, trả lời phỏng vấn của báo chí, viết bài vận động tranh cử…
Ngày 8/11/1960, John F. Kennedy trúng cử sát nút trước đối thủ Richard Nixon, cựu Phó Tổng Thống dưới trào Tổng Thống Eisenhower để làm Tổng Thống thứ 35 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Jacqueline trở thành một Đệ Nhứt Phu Nhân Mỹ trẻ tuổi nhứt trong gần 80 năm qua và để lại những ấn tượng to lớn về địa vị của bà. Jacqueline biến tòa Bạch Ốc thành một lâu đài của kiến thức và nghệ thuật bằng cách mời tham gia các nhạc sĩ, tài tử điện ảnh và trí thức kể cả những vị được giải thưởng Nobel. Bà đã có công cải tạo tòa Bạch Ốc trở lại vẻ thanh lịch khi xưa và làm tòa nhà này kiên cố hơn.
Trong thời gian ngắn ngủi ở tòa Bạch Ốc, Jacqueline trở thành vị Đệ Nhứt Phu Nhân nổi tiếng nhứt của Hoa Kỳ. Trong những lần tháp tùng Tổng Thống đi công du ở Âu Châu (năm 1961) và Trung và Nam Mỹ (năm1962) bà đã được sự ngưỡng mộ của dân chúng các nơi đó về sắc đẹp, cách ăn mặc và sự thông thạo nhiều ngôn ngữ. Nhân chuyến đi thăm nước Pháp, Tổng Thống Kennedy đùa rằng ”ông là người tháp tùng Jacqueline đi thăm Paris”. Khắp nơi trên thế giới, người ta đặt tên con gái mình là Jacqueline, chọn kiểu tóc, nón, giày giống như của bà.
Tháng 11 năm 1963, Jacqueline tháp tùng Tổng Thống đi viếng thăm Texas. Khi đòan xe của Tổng Thống diễn hành ở thành phố Dallas, Tổng Thống bị ám sát bằng súng khi bà đang ngồi bên cạnh. Hơn một tiếng rưỡi sau, trong bộ y phục còn dính máu, bà đau đớn đứng bên cạnh Phó Tổng Thống Lyndon Johnson để tham dự lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống thứ 36 của ông này.
Hình ảnh lễ tang Tổng Thống Kennedy rập khuôn lễ tang Tổng Thống Abraham Lincohn (cũng bị ám sát) một thế kỷ trước, với vẻ trang trọng của bà bên cạnh hai con nhỏ được khắp nước Mỹ cũng như cả thế giới ngưỡng mộ.
Sau cái chết của Tổng Thống Kennedy, Jacqueline chuyển về một căn nhà ở New York và sống ở đó đến cuối đời. Trong thời gian này bà bị những tay săn ảnh và phóng viên báo chí săn đuổi mãi đến khi bà mất.
Tháng 10 năm 1968, Jacqueline tái hôn với tỷ phú du thuyền Aristottle Onassis. Cuộc hôn nhân này không đem lại hạnh phúc cho bà. Sau khi tỷ phú Onassis mất năm 1975, phần lớn tài sản của ông ta được giao cho con gái, Jacqueline chỉ được nhận khoảng từ 20 đến 26 triệu đô la.
Sau khi người chồng thứ hai mất, Jacqueline quay về trú ngụ ở căn nhà tại New York. Thời gian này bà cộng tác với một số báo chí như Viking Press, Doubleday… Bà có công lớn trong việc cổ động bảo tồn ga xe lửa trung ương ở New York. Tuy nhiên, bà dính líu nhiều mối tình trong đó người tình lâu nhứt của bà là vua hột xoàn người Mỹ gốc Bỉ Tempelsman.
Jacqueline mất năm 1994 và được chôn bên cạnh Tổng Thống Kennedy ở nghĩa trang quốc gia Arlington.
Thảm kịch của gia đình Kennedy không dừng ở cái chết của Tổng Thống Kennedy. Tháng 6 năm 1968, em của Tổng Thống là Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy bị ám sát chết. Tháng 7 năm 1999, John F. Kennedy Jr. con trai của Jacqueline chết vì tai nạn máy bay. Con gái lớn Caroline Kennedy của bà là người duy nhứt trong gia đình còn sống sót và từng là Đại Sứ của Hoa Kỳ ở Nhật Bản.
Jacqueline Kennedy được ngưỡng mộ trong thời gian ở bên cạnh Tổng Thống Kennedy nhưng về sau qua những cuộc tình của bà với nhiều người, sự ngưỡng mộ của mọi người đã sút giảm.
Tống Mỹ Linh (2/3/1897-23/10/2003), Đệ Nhứt Phu Nhân Trung Hoa Dân Quốc

Một phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa cận đại, trường thọ qua ba thế kỷ 19, 20 và 21: Tống Mỹ Linh. Bà là người con thứ tư trong một gia đình có 6 người con trong đó 3 người con gái: Tống Ái Linh, Tống Khánh Linh và bà là những nhân vật nữ được mọi người gọi là ba chị em nhà họ Tống. Cha của bà là một Mục Sư Hội Giám Lý và là một nhà kinh doanh về in ấn.
Tống Mỹ Linh theo học trường Wesleyan College ở Macon, Georgia, sau chuyển qua trường Wellesley College 1917 và tốt nghiệp năm 1917 về văn học Anh và Triết học.
Năm 1920 Tống Mỹ Linh gặp Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ của Quốc Dân Đảng và kết hôn với ông này. Sau một lần sảy thai bà mất khả năng sinh sản.
Bà là một Đệ Nhứt Phu Nhân tích cực tham gia chính trị. Bà là nghị sĩ của Viện Lập Pháp từ năm 1930 đến 1932 và từ năm 1945 bà vào Ủy ban trung ương Quốc Dân Đảng. Khi Tưởng Giới Thạch lên làm Tổng tư lệnh và lãnh đạo Quốc Dân Đảng bà làm phiên dịch tiếng Anh, thư ký và cố vấn cho chồng.
Trong Thế Chiến Thứ Hai bà đã giúp Tưởng Giới Thạch có sự nghiệp ngang hàng với Roosevelt, Churchill và Stalin. Tạp chí Time của Hoa Kỳ đưa hình bà 3 lần lên trang bìa và tuyên dương vợ chồng bà là “cặp vợ chồng của năm” trong năm 1937.
Năm 1949, Quốc Dân đảng bị đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông đánh bại trong cuộc nội chiến Quốc Cộng. Bà cùng chồng chạy ra đảo Đài Loan và đảo này được xem là lãnh thổ của một nước Trung Hoa Quốc Gia, đối lập với Nước Trung Hoa Cộng Sản trong lục địa, đến nay vẫn tồn tại với sự cam kết bảo vệ của Hoa Kỳ. Trong khi đó thì chị bà là Tống Khánh Linh ở lại lục địa và theo cộng sản.
Khi Tưởng Giới Thạch suy yếu vì tuổi già có thể nói mọi quyền lực ở Đài Loan đều nằm trong tay bà với vỏ bọc là người “phiên dịch” của Tưởng thống chế. Bà rất có uy tín trên chính trường quốc tế: người bảo trợ cho Hội Hồng Thập Tự Thế Giới, chủ tịch danh dự của Quỹ Viện Trợ Thống Nhứt của Anh Quốc cho Trung Hoa, chủ tịch danh dự của Hội Kỷ Niêm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Sau cái chết của Thống chế Tưởng Giới Thạch, con riêng của ông là Tưởng Kinh Quốc lên làm Tổng Thống, bà Tống Mỹ Linh di dân qua Mỹ ở một khu đất rộng gần 15 mẫu ở Lattingtown, New York. Bà còn một ngôi nhà nghỉ mát mùa hè ở Wolfeboro, New Hampshire. Bà trở về Đài Loan năm 1988 khi Tưởng Kinh Quốc từ trần và lần về Đài Loan sau cùng của bà là năm 1995. Cuối đời bà sống trong căn hộ của cháu gái bà ở chung cư Gracie Square trên bờ thượng đông của Manhattan. Năm 103 tuổi, bà còn tổ chức một cuộc triển lãm tranh vẽ Trung Hoa của bà tại New York.
Bà mất tại New York hưởng thọ 105 tuổi. Khi đó Tòa Bạch Ốc có phổ biến lời chia buồn của Tổng Thống George W. Bush đến gia đình bà.
Soraya (22/6/1932-26/10/2001), Hoàng Hậu sầu muộn của Ba Tư

Soraya là con gái đầu lòng của Khalil Esfandiary Bakhtiary, một nhà quý tộc và là Đại Sứ của Iran tại Tây Đức. Mẹ là Eva Karl, người Đức sinh bên Nga. Soraya sinh ở bệnh viện truyền giáo Anh ở Isfahan. Soraya lớn lên ở Berlin và Isfalhan, đi học ở Anh Quốc và Thụy Sĩ.
Năm 1948, Soraya được giới thiệu với vua Mohammed Reza Pahlavi vừa mới ly hôn. Họ đính hôn và nhà vua tặng cho bà một chiếc nhẫn kim cương 22 carat. Đám cưới diễn ra ở lâu đài Marble, ở Teheran, Iran ngày 12/2/1951.
Mặc dù, nhà vua tuyên bố không nhận quà cưới của khách chỉ yêu cầu họ cho tiền một hội từ thiện giúp người nghèo, nhưng trong số các quà cưới có một chiếc áo khoác lông chồn đắt tiền và một bộ bàn viết có cẩn kim cương đen của Stalin, một cái ly Bowl of Legends của nhà sản xuất Steuben Glass, thiết kế bởi Sidney Waugh do Tổng Thống Reagan và phu nhân tặng, một chân đèn nến xứ Georgia của vua George Đệ Lục và hoàng hậu Elisabeth. Có đến 2000 khách mời dự tiệc cưới. Một chiếc máy bay từ Hòa Lan chở 1,5 tấn hoa lan, hoa tulip và hoa cẩm chướng đến để trang hoàng tiệc cưới. Để giải trí, một đoàn xiệc từ Rome đến trình diễn cho quan khách xem. Cô dâu mặc một chiếc áo dài dát bạc, đính kim cương và lông chim marabou stork quý hiếm của miền Nam sa mạc Sahara, Bắc Phi do nhà Christian Dior thiết kế. Ai cũng nghĩ rằng Soraya là tình yêu thật sự của vua Pathlavi.
Nhưng giai cấp tăng lữ Hồi Giáo không hài lòng cuộc tình duyên này. Họ cho rằng nhà vua không nên cưới cô gái lai Âu này vì cô ta không được giáo dục theo Hồi Giáo. Cả mẹ và các chị em gái của vua cũng ghen tị với Soraya vì cho rằng nàng đã giành hết tình yêu của vua. Họ liên tục sỉ nhục Soraya. Còn nàng thì không ưa Ernest Perron, bạn thân và thư ký riêng của chồng. Nàng cho rằng ông ta là người đồng tính và đang quyến rũ nhà vua.
Để quên những phiền muộn chung quanh, Soraya thường đi thăm bệnh viện, cô nhi viện, các hội từ thiện, các gia đình nghèo. Nàng tỏ ra rất thích thành phố Paris, mô tả những ngày sống ở đó, đi xem xi nê, uống một ly nước đá chanh ở mái hiên một quán rượu… thật là tuyệt vời. Nàng nói khi còn đi học ở Âu Châu thoải mái hơn những học sinh ở Iran với đồng phục xám, ngồi trong những lớp học nóng như hỏa lò đầy khói và ô nhiễm, học bài, làm bài và lao động đến kiệt sức.
Tháng 10 năm 1954, nhà vua và Soraya đi Mỹ để nhờ các bác sĩ chữa trị bệnh hiếm muộn của nàng. Bác sĩ cho biết nàng không thể có con vì bị sốc, trầm cảm trong thời gian sống trong cung điện. Nhà vua an ủi nàng bằng cách dẫn nàng đi viếng San Francisco, Hollywood, trượt tuyết ở Sun Valley, trượt nước ở Miami Beach…
Soraya rất ngưỡng mộ các tài tử điện ảnh Hollywood. Nàng rất vui khi gặp gỡ Grace Kelly. Lauren Bacall, Esther Williams, Humbrey Bogart… Hình hoàng hậu Soraya mặc áo tắm hai mảnh khi đi trượt nước ở Miami làm đám tăng lữ Hồi Giáo Iran nổi giận vì đối với họ người phụ nữ Hồi Giáo không được ăn mặc như vậy.
Vua Pahlavi không có con trai mà chỉ có đứa con gái với vợ trước. Ông đề nghị với Soraya cho ông cưới vợ lẻ để hy vọng có người kế vị nhưng nàng không chịu. Mẹ của vua ép ông ly dị Soraya. Vua khuyên Soraya rời Iran để ông vận động “Hội Đồng Các Nhà Thông Thái” (Hội đồng các lãnh đạo cao cấp Hồi Giáo) sửa đổi hiến pháp cho phép vua nhường ngôi cho em trai. Dù được chồng hứa như thế, nhưng Soraya biết vua đã trở mặt với nàng.
Soraya rời Iran tháng 2 năm 1958 đi Cologne, Đức ở nhà cha mẹ ruột. Dù nhà vua gởi cậu nàng sang Đức mời nàng trở về Iran, nàng từ chối không chịu làm hoàng hậu khi vua cưới vợ hai. Ngày 5 tháng 3 năm 1958, nhà vua điện thoại cho nàng ra điều kiện nếu nàng không chấp nhận cho ông lấy thêm vợ thì ông sẽ ly dị nàng. Sau này, trong hồi ký, Soraya viết rằng vua Pahlavi chuộng ngai vàng hơn tình yêu khác với công tước Windsor hy sinh ngai vàng cho tình yêu.
Ngày 21 tháng 3 năm 1958, ngày Tết của Iran, nhà vua tuyên bố ly dị Soraya trên đài phát thanh và truyền hình. Thủ tục ly dị chính thức được thực thi ngày 6/4/1958. Trong một tuyên bố gởi cho nhân dân Iran, Soraya nói rằng nàng chấp nhận ly dị nhà vua vì quyền lợi của quốc gia và phúc lợi của nhân dân với ý muốn của nhà vua.
Vua Pahlavi đền bù cho Soraya bằng một căn hộ cao cấp ở Paris trị giá 3 triệu đô la, tiền sinh hoạt 7000 đô la một tháng với nhiều đồ vật quý giá như một xe Rolls-Royce Phantom IV đời mới, một chiếc Mercedes-Benz 300 SL, một viên hồng ngọc Bảo Gia Lợi, một cây trạm của nhà Van Cleef & Arpels và một chiếc nhẫn nhận một hột kim cương nặng 22,37 carat mà sau khi Soraya qua đời bán đấu giá được trên 800 ngàn đô la.
Sau khi ly dị, Soraya có liên hệ tình cảm với một vài người ở Đức trước khi đến sống ở Paris. Nơi đây nàng đóng một số phim và trở thành người tình của giám đốc sản xuất phim Ý tên Franco Indovina, ông này sau đó mất trong một tai nạn máy bay.
Năm 1979, cách mạng Hồi Giáo lật đổ vua Plahlavi và thành lập nước Cộng Hòa Hồi Giáo Iran. Khi cựu hoàng hấp hối vì bệnh ung thư, hai người có điện thoại cho nhau và cùng bày tỏ vẫn còn yêu nhau. Soraya hứa đến thăm chồng cũ nhưng khi nàng chuẩn bị đi Cairo nơi nhà vua đang sống lưu vong thì nhà vua qua đời.
Soraya qua đời năm 69 tuổi trong căn hộ ở Paris. Tang lễ nàng tại nhà thờ American Cathedral ở Paris được nhiều nhà quý tộc đến tham dự. Thiên tình sử đẫm lệ của người đẹp Soraya và vua Pahlavi của xứ Ba Tư đã là đề tài của nhiều tác phẩm văn chương và điện ảnh trên thế giới.
Bà Ngô Đình Nhu (22/8/1924-24/4/2011), Đệ Nhất Phu Nhân Của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà

Bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh ra ở Hà Nội trong một gia đình vọng tộc: cha là Luật Sư Trần Văn Chương, mẹ là Thân Thị Nam Trân. Ông Trần Văn Chương là con của Tổng Đốc Nam Định Trần Văn Thông, bà Thân Thị Nam Trân là con của Thượng Thư Bộ Binh Thân Trọng Huề và là cháu ngoại của vua Đồng Khánh.
Bà là người con thứ hai trong gia đình, chị gái là Trần Lệ Chi và em trai là Trần Văn Khiêm. Bà theo học trường Albert Sarraut ở Hà Nội và tốt nghiệp Tú Tài Pháp. Gia đình bà theo đạo Phật, năm 1943 (19 tuổi) bà kết hôn với ông Ngô Đình Nhu và cải theo Công Giáo.
Khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, chồng bà làm cố vấn cho ông Diệm thì bà đắc cử làm Dân Biểu Quốc Hội. Bà còn là Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới và thủ lãnh Đoàn Thanh Nữ Cộng Hoà trong khi chồng bà là thủ lãnh sáng lập viên Đoàn Thanh Niên Cộng Hoà. Vợ chồng bà là hai cánh tay đắc lực giúp Tổng Thống Diệm củng cố chế độ Việt Nam Cộng Hoà để đương đầu với cộng sản Bắc Việt đang xé hiệp định Genève khởi xướng chiến tranh thôn tính miền Nam.
Vì ông Ngô Đình Diệm là người độc thân nên bà Ngô Đình Nhu được xem là Đệ Nhất Phu Nhân của nền Đệ Nhất Công Hoà ở miền Nam.
Bà là mẹ đẻ của đạo luật gia đình cấm đàn ông hai vợ và kết án những người có gia đình mà ngoại tình. Ngoài ra, bà là người ủng hộ các đạo luật bài trừ các tệ nạn xã hội: cờ bạc, đĩ điếm… và đạo luật cấm phá thai.
Chiếc áo dài cổ khoét sâu thường được gọi là “áo dài cổ bà Nhu” là sáng kiến của bà được giới phụ nữ Việt Nam xem là thời trang đến nay vẫn được ưa chuộng.
Ngày 8-5-1963, ngày Phật Đản, trong khi các Phật tử tụ tập trước sân đài phát thanh Huế để chờ nghe buổi phát thanh tường trình ngày lễ Phật Đản ban sáng trong đó có thông điệp nẩy lửa của Thượng Toạ Thích Trí Quang thì một tiếng nổ phát ra làm chết 8 em đòan viên Thanh Niên Phật Tử. Thủ phạm vụ thảm sát này đến nay vẫn còn là một nghi án lịch sử. Nhưng chắc chắn không phải là Thiếu Tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An Thừa Thiên. Tiếp theo đó là những vụ tự thiêu của các nhà sư Phật Giáo được Việt Cộng, truyền thông nước ngoài và đặc biệt chính quyền Mỹ dười thời Tổng Thống Kennedy vì mục đích riêng của mỗi bên nhưng cùng chung đối tượng cần triệt hạ là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Bình luận về những vụ tự thiêu này, bà Ngô Đình Nhu dùng những lời mạnh mẽ như là ”barbecue thầy chùa” tuy chính xác nhưng gây phản ứng bất lợi trong giới Phật Tử. Và CIA đã mua chuộc một số tướng lãnh để đảo chánh rồi hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu ngày 2/11/1963.
Trước đó, bà Ngô Đình Nhu đi công du ở Mỹ để “giải độc” tức là trình bày cho dư luận Mỹ biết sự tranh đấu của Phật Giáo là do Việt Cộng giựt dây. Ngày 1 tháng 11 năm 1963 bà Ngô Đình Nhu và con gái là Ngô Đình Lệ Thuỷ đang trú ngụ tại khách sạn Wilshire Hotel ở Beverly Hill, California thì được tin cuộc đảo chánh xảy ra, chồng và anh chồng bà bị giết.
Ngày 15 tháng 11 năm 1963, bà Nhu và con gái rời khỏi Los Angeles để đi Roma sinh sống sau khi phát biểu: "Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi.”
Từ đó, bà Ngô Đình Nhu không đi qua Mỹ trừ một lần duy nhứt sang trả lời phỏng vấn của một đài truyền hình Mỹ để nhận một được một số tiền để con bà đủ trả học phí Đại Học.
Cuối đời bà trú ngụ tại Paris, trong một căn hộ nhỏ của một chung cư gần tháp Eiffel. Bà sống khép kín, không tuyên bố gì cả, không tiếp xúc với ai. Khi bà bị bệnh nặng, bà về ở với con trai là Ngô Đình Trác và mất ở đó.
Cũng như dòng họ Kennedy, dòng họ Ngô Đình cũng gánh chịu nhiều tai ương. Cha và anh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là các ông Ngô Đình Khả và Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết, 3 anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn bị đám Tướng Tá theo lệnh Mỹ sát hại. Thảm kịch không dừng ở đó, hai đứa con gái của bà Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thuỷ và Ngô Đình Lệ Quyên chết vì tai nạn lưu thông và em trai của bà Nhu, ông Trần văn Khiêm can tội giết cha mẹ mình.
Một người đàn bà đẹp, nói lưu loát nhiều thứ tiếng ngoài tiếng Việt: Anh, Pháp, Ý, bản lãnh không kém đàn ông trong lãnh vực chính trị nhưng không thể nào chống đỡ nổi với những thế lực đen tối phía địch cũng như phía bạn cùng âm mưu triệt hạ cả gia đình bà. Nếu nữ Thủ Tướng Thatcher của Anh Quốc được mệnh danh là “người đàn bà thép” (Iron Lady) thì bà Ngô Đình Nhu được gọi là “bà rồng” (Dragon Lady).
Bà Nguyễn Văn Thiệu (1931-15/10/2021), Đệ Nhứt Phu Nhân Của Nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà

Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhũ danh Nguyễn Thị Mai Anh, là người con gái thứ bảy trong một gia đình 10 người con ở Mỹ Tho nên thường được gọi là cô bảy Mỹ Tho.
Thân phụ bà Mai Anh là một Đông y sĩ, thầy Nam Thường giàu có theo Công Giáo.
Cô bảy Mỹ Tho và em là cô tám Hảo lên Sài Gòn học và sau đó làm Trình Dược Viên cho Viện Bào Chế Trang Hai. Nơi đây bà được Dược Sĩ Huỳnh văn Xuân giới thiệu với Trung Úy Nguyễn Văn Thiệu.
Ông Thiệu lại là bạn đồng khoá với cậu bà là Đặng Văn Quang (về sau là Trung Tướng Cố Vấn Quân Sự cho Tổng Thống Thiệu) nên không lâu sau hai người kết hôn (1951). Năm 1958, ông Thiệu cải theo đạo công giáo của vợ.
Theo truyền thống gia đình, bà Mai Anh thủ phận làm vợ, không xen vào công việc của chồng bà suốt thời gian ông nắm vận mệnh miền Nam. Bà thường xuyên hướng dẫn các phái đoàn đi thăm viếng thương bệnh binh tại Tổng Y Viện Cộng Hoà. Bà là Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội.
Công đức lớn nhứt của bà Thiệu là xây dựng Bệnh Viện Vì Dân cho người nghèo ở Ngả tư Bảy Hiền năm 1971 do vận động quyên tiền từ thiện của nhiều người bao gồm thân hào nhân sĩ, thương gia, kỹ nghệ gia… Bệnh Viện Vì Dân là bịnh viện tư nhân, nhưng được điều hành như bệnh viện công, nghĩa là không thu viện phí, không thu tiền các loại thuốc thông dụng có sẵn ở bệnh viện, người dân vào khám, chữa bệnh được miễn phí hoàn toàn.
Bà Mai Anh còn chăm lo các con em tử sĩ theo học tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử, bà đã vận động lập một thư viện đầy đủ sách và tài liệu giúp ích việc học tập của các em học sinh trường này.
Sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức ngày 21/4/1975 và rời khỏi Việt Nam ngày 25/4/1975, bà theo chồng lần lượt định cự ở Đài Bắc, Đài Loan, rồi London, Anh Quốc và Boston, Hoa Kỳ. Năm 2001, cựu Tổng Thống Thiệu qua đời ở Boston, bà vẫn ở đó đến khi bà yếu mới qua ở với con trai là nha sĩ Nguyễn Quang Lộc ở San Diego, California và ở đó đến khi mất, hưởng thọ 90 tuổi.
Bà Nguyễn Văn Thiệu được mọi người nhớ đến vì gương mặt phúc hậu, những hoạt động từ thiện, những chăm sóc nhiệt tình đối với thương bệnh binh và cô nhi của tử sĩ. Sự ra đi của bà để lại những thương tiếc trong lòng người dân miền Nam từng sống trong một chế độ tự do trước 1975.
Huỳnh Công Ân
3/11/2021