Nói riêng về văn của Cung Tích Biền, nhà thơ Trần Tuấn Kiệt có nhận định: Ðây là loại chữ nghĩa không dễ đọc. Nó là thế giới của ẩn ngữ, hàm dụ, của hiện thực huyền ảo. Chỉ đọc vài trang thôi, ta đã như bị Quỷ ám.
Cung Tích Biền sống trọn qua đôi bờ lịch sử, lúc thiếu thời trong vùng kháng chiến, lớn lên trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và hơn 30 năm trong vòng vây xã hội chủ nghĩa. Anh sống khiêm tốn, và sáng tác khá âm thầm, miệt mài đơn độc. Nhiều người như thế đã từ lâu bỏ cuộc. Còn anh, Cung Tích Biền vẫn sống. Sáng tác của anh chứng tỏ tinh thần và ý chí mãnh liệt, bền bỉ… Văn tài nhà văn Cung Tích Biền thì không ai chối cãi được. Ðọc truyện anh – vẫn lời Trần Tuấn Kiệt – tôi nhớ tới lối hành văn, văn phong của Fyodor Dostoyevsky, của William Faulkner… Ðọc văn anh, đôi khi phải lạnh gáy. Ðó là những thiên tài, phải khó khăn lắm lịch sử mới tạo ra được.
Một trong những truyện đặc sắc của Cung Tích Biền là Mùa Xuân Cô Mơ Bay. Tác phẩm này do nhà xuất bản Thao Thao của Cung Tích Biền xuất bản năm 2019 khi ông đã ở Mỹ. Xin đọc lá thư giới thiệu của nhà xuất bản Thao Thao:
Mùa Xuân Cô Mơ Bay là một tập truyện ngắn của Nhà văn Cung Tích Biền, một nhà văn nổi tiếng, có nhiều tác phẩm in ấn và phát hành rộng rãi thời Việt Nam Cộng Hòa, từ những năm của thập niên 60 thế kỷ trước, tại Sàigòn. Ông có rất nhiều độc giả trong hơn 50 năm qua.
Mùa Xuân Cô Mơ Bay gồm 16 [mười sáu] truyện ngắn. Có nội dung thuần túy văn chương, chủ đề về những biến động lịch sử, văn hóa, thời sự, và sinh hoạt xã hội Việt Nam. Mỗi truyện ngắn có một chủ đề nhất định, về con người trong thời nội chiến Bắc – Nam cũng như thời bình. Ở đó, mỗi thân phận con người trôi nổi theo những biến động thời cuộc khá bi tráng và phức tạp. Việt Nam là một đất nước có một dòng chảy lịch sự khá đặc biệt, đầy nghịch cảnh và mâu thuẫn ý thức hệ chính trị. Sự đối kháng này đưa tới một cuộc nội chiến trên 20 năm. Và, hòa bình được lập lại từ tháng Tư 1975, nhưng một cuộc ly tán khác đã xảy ra. Và, cuộc chiến tử sinh về lý tưởng vẫn còn chưa có ngày chấm dứt.
Với một văn phong trong sáng và thanh thoát, thủ pháp của hiện thực huyền ảo, Mùa Xuân Cô Mơ Bay đã biểu đạt rõ nét phần nào những chiêm nghiệm mà Ðộc giả mong muốn. (Nhà xuất bản Thao Thao)
Sau đây xin mời đọc trích đoạn bài của Lê Hữu ‘Những cô Mơ Bay trong truyện Cung Tích Biền’ đăng trên Diễn Ðàn Thế Kỷ.
“Mơ là ngọn đèn, tôi là ánh sáng.” (Mùa Xuân cô Mơ Bay, Cung Tích Biền)
Nhân vật chính trong truyện là cô Mơ Bay. Tên thực cô là Mơ. Lúc nào cô cũng muốn bay nên nhà văn cho thêm chữ “Bay” vào sau tên cô. Cô là Mơ ngoài đời thực, là Mơ Bay trong những trang viết của nhà văn.
Mơ Bay, tên đẹp quá đi chứ. Mơ mộng quá, bay bổng quá. Cô là giấc mơ có cánh.
Cô mộng mơ, cô bay lượn thế nào thì chỉ có đọc qua mới biết được.
Mơ là mơ Thoát, bay là bay Thoát
Tác giả, người kể lại câu chuyện, cho biết, “Mơ Bay còn trẻ, rất đẹp, học giỏi, trưởng thành trong một gia đình nền nếp, giàu gia hạnh.” Cô lại “quá thông minh, giàu mộng tưởng. Mộng ước của cô lớn lao, ngoài giới hạn”. Mơ Bay tin tưởng một cách mãnh liệt rằng loài người là hậu duệ của chim chứ chẳng phải của tinh tinh, đười ươi, khỉ vượn chi cả.
Vì ham rong chơi trên mặt đất, ham suối trong, rừng xanh và thích tắm biển nên chim sa đà vào kiếp đi bộ. Ðôi chân chim dần dà bự ra như chân người, và đôi cánh teo lại thành đôi tay. (Mùa Xuân Cô Mơ Bay) (1)
Lập luận của Mơ Bay là rất có logic, không thua bất cứ một đỉnh cao trí tuệ nào. “Cánh tay”, không phải tự nhiên mà loài người gọi như vậy. Phải trả đôi cánh về cho đôi tay. Mơ Bay tin rằng một ngày kia cô sẽ bay lượn được như chim, bằng đôi tay làm cánh. Cô sẽ phục hồi chức năng cho đôi tay mình. Bay xa bay gần, bay thấp bay cao thế nào không biết, nhưng mà nhất định là bay được.
Vì sao cô muốn bay? Vì sao cô phải bay? Vì rằng bằng mọi giá cô phải thoát ra ngoài “cái thế gian tàn rụi ấy, cái xã hội rã tan đầy thương tích ấy”, nói như Cung Tích Biền.
Càng điêu đứng khốn khổ, càng không có lối thoát người ta càng muốn bay, muốn thoát.
Nhà văn gọi bay này là “Bay Thoát”.
Bay được là thoát. Bay tới đâu không biết nhưng lúc nào Mơ Bay cũng muốn bay. Bay bổng trên không trung, bay vút chín từng mây hoặc bay lơ lửng, bay là đà. Bay thế nào cũng được, bay “đi đâu cũng được, miễn đạt đỉnh ước mơ”, bay “đến đâu cũng được, miễn là miền hạnh phúc.”
Nhà văn cứ để Mơ Bay mải mê đuổi bắt mộng tưởng như đuổi bắt 7 sắc cầu vồng lung linh, óng ánh trong màn mưa thưa. Tuy gần mà xa, tuy xa mà gần. Tìm nhưng không gặp được, đuổi nhưng không bắt được những màu sắc trá hình đầy quyến rũ ấy.
Mơ Bay là giấc mơ hoang. Cô mơ gì? Dõi mắt nhìn theo cánh chim bay lượn cô mơ “một sớm mai nào bỗng dưng đôi cánh mọc ra từ hai bờ vai”. Cô mơ là chim hạc vàng.
“Anh có thấy đường bay của con hạc vàng kia không?” cô hỏi nhà văn. “Anh ạ, em sẽ bay thanh thoát. Em nhẹ lướt như mây. Em sẽ tường thuật anh hay khi em nhìn về trái đất dưới kia nhỏ nhoi như một hòn bi xanh [xao]. Khi anh không còn bắt được đường truyền tín hiệu của em thì anh nên mừng là em đã thoát ra được ngoài ‘vùng phủ sóng’ của cái xã-hội-mang-nhãn-hiệu-người.”
Nhà văn gọi mơ này là “Mơ Thoát”.
Trong khó khăn của ngày ngày, chỗ hiểm nghèo của định mệnh, người ta hay mơ thoát… Mơ thoát? Là một cách từ biệt cái tình trạng bao la xám màu của suy đồi, lạc nẻo.
Không chần chờ được nữa, Mơ Bay quyết định phải bay thôi. Mơ Bay mọc cánh, cô bay lượn như chim. Bằng “đôi cánh vô hình”, cô cất cánh bay thẳng một lèo từ bờ vực xuống đáy vực sâu hun hút.
Mơ Bay rơi tự do.
Cô bay thật. Khổ nỗi, cô bay xuống chứ không bay lên. Cô đã hoàn thành tâm nguyện cho dù giấc mơ bay có làm cô gãy cần cổ, bể sọ não.
Cuối truyện, toàn thân Mơ Bay phủ tấm chăn trắng, hình hài cô được quấn băng kín mít từ đầu tới chân, chỉ chừa ra hai con mắt nhắm nghiền. Mơ Bay hệt như “Người Tình Không Chân Dung” trong phim Hoàng Vĩnh Lộc.
Trích lá thư viết vội để lại cho nhà văn, Mơ Bay giãi bày tâm sự:
“Bên vực thẳm giữa hai hẻm núi, em bay. Anh yên chí, em không hề rơi xuống vực sâu. Chính đôi mắt ta nhìn hẻm núi thăm thẳm bên dưới. Sợ hãi kia, thay vì đầu hàng rơi xuống, sẽ giúp em mạnh mẽ bay lên cao. Anh sẽ thấy trong trời mùa Xuân này một con chim lạ. Em đấy. Khi một con chim biến ra một con người là số phận không may. Con người biến được thành con chim mới là hạnh phúc, là ân sủng của Tự Do.”
Khi Mơ bay là khi Mơ hạnh phúc. Hạnh phúc trong mơ.
Tội nghiệp Mơ Bay, cố gắng lắm cô cũng chỉ như chim cánh cụt chứ chẳng được là hạc vàng. Thế nhưng, trong một nghĩa nào đó, quả là Mơ Bay đã bay được. Mơ Bay đã Thoát. Cô đã thực hiện được cuộc đào thoát ra khỏi “vùng phủ sóng của cái xã-hội-mang-nhãn-hiệu-người” như cô nói.
Mơ Bay vẫn đang bay, cô vẫn còn bay dài dài. Mơ Bay chưa bao giờ thôi bay. (Lê Hữu-Diễn Đàn Thế Kỷ)
Nguyễn & Bạn Hữu xin được chia buồn cùng Cô Mơ của Cung Tích Biền. Cô đã đạt được giấc mơ dù kết cục bi thảm. Sau đây là một lời nhắn chung: Xin các cô bé trên đời này hãy tiếp tục mơ – như Alexandra Huỳnh như Amanda Gorman… Mơ và phấn đấu, học hỏi không ngừng với niềm đam mê son sắt. Rồi một ngày kia các bé sẽ thành công hay ít ra là cảm thấy bằng lòng với mình.
N& BH – Tổng hợp
Cung Tích Biền và truyện Cô Mơ Bay
Cung Tích Biền là nhà văn nổi tiếng từ trong nước ra đến hải ngoại. Tên thật Trần Ngọc Thao. Sinh ngày 8-2-1937, dưới chân Nỗng Ông Tào, Thăng Bình, Quảng Nam.
Sống 8 năm thời Pháp thuộc [1937-1945]. 9 năm trong vùng Kháng chiến Liên khu V [1945-1954]. 21 năm Việt Nam Cộng Hòa [1954-1975]. Từ 1975 – 2008 dưới chế độ Cộng sản. Hiện sống cùng vợ con ở Cali.
Học trường Diên Hồng [Phố Cổ Hội An], Quốc Học Huế, Ðại học Văn khoa Huế, Ðại học Luật Sàigòn. Khởi nghiệp văn khá sớm. Năm 1961 dạy Anh văn và Việt văn tại các trường trung học ở Quảng Nam. Năm 1963 động viên vào trường Võ Bị Thủ Ðức, khóa 17. Tốt nghiệp Trường Sĩ quan Hành chánh Tài chánh khóa 10, thuộc Bộ Quốc phòng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từng phục vụ qua nhiều đơn vị Pháo Binh. Từ 1970 là giảng viên Trường Sĩ quan Hành chánh [Sàigòn]. Lập gia đình năm 1972. Giải ngũ năm 1973, cấp bậc Ðại úy.
Sau 30 tháng 4-1975, sống lây lất bằng đủ thứ nghề. Ðạp xe ba gác, chạy xe ôm, thu gom ve chai, làm cu ly bốc vác, thợ mây tre lá, thợ sơn mài… Năm 1982 tạm ổn định nhờ vợ buôn bán sơn mài. Bản thân mang rất nhiều thứ bệnh. Hơn vài thập niên nay làm thân chùm gởi trong gia đình.
Nghề và nghiệp trọn đời: Viết văn. Cung Tích Biền là một nhà văn độc lập. Có truyện và thơ đăng báo từ 1958, với nhiều bút hiệu lúc ban đầu [Chương Dương, Việt Điểu, Uyên Linh] trước khi có bút hiệu Cung Tích Biền.
Bút hiệu Cung Tích Biền xuất hiện lần đầu tiên trên tuần báo Nghệ Thuật [tháng 3-1966] tại Sàigòn, với truyện ngắn Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi. Nhanh chóng có truyện đăng trên hầu hết các nhật báo, tuần báo, tập san văn học nghệ thuật có giá trị, trước và sau 1975, trong và ngoài nước, cả trên các trang web văn học. Có tác phẩm dịch sang ngoại ngữ, in chung với nhiều tác giả, phát hành ngoài nước.
Hiện các tác phẩm của Cung Tích Biền sáng tác trước 1975 đang bị cấm lưu hành tại Việt Nam. Trả lời phỏng vấn của Mặc Lâm Ðài RFA, nhà văn Cung Tích Biền cho biết: Thời gian rất dài từ 75 đến 87 thì tôi không viết lách gì hết. Tôi không viết lách gì hết nhưng trong thời gian đó tôi cũng rất cẩn thận là vì tôi cũng không viết gì nữa hết chứ không phải là không viết lách. Riêng mình cộng tác vớí chế độ mới thì thực sự thời gian đó tôi cũng không viết, không xuất hiện gì cả. Mười hai năm sau, đến Năm 1987 thì tôi mới viết lại và truyện đầu tiên tôi viết là Mộng, rồi loạt truyện Dị Mộng, Qua Sông, Thằng Bắt Quỷ, một loạt đó được in. Rồi sau đó tập hợp xuất bản thành tập truyện Thằng Bắt Quỷ đó.
Trả lời câu hỏi của Mặc Lâm, “cơ quan nào in ấn và xuất bản những tác phẩm của Cung Tích Biền trong giai đoạn sau năm 1987”, nhà văn cho biết: Phần lớn các truyện như truyện Qua Sông, truyện Thằng Bắt Quỷ, Dị Mộng đăng ngay tại Việt Nam, nhưng mà có vấn đề là khi đăng rồi thì Ban Biên Tập Sông Hương và Cửa Việt bị phê phán nặng lắm nhưng có điều đặc biệt là đến sau nhiều năm, độ bảy tám năm gì đó, nhà xuất bản Hà Nội in lại Tuyển Tập Truyện Ngắn Việt Nam Thế Kỷ 20 họ lại lấy truyện Thằng Bắt Quỷ cho in vào tuyển tập.
Ðiểm đặc biệt trong nhân thân Cung Tích Biền, ông là công dân của miền Nam với thân phận đi giữa hai lằn đạn – ông có hai người anh, một “anh là Cộng sản chết không mồ, em là Quốc gia chết không tìm ra xác” (người tập kết, người bị tù “cải tạo”, hai cái chết đều do Cộng sản Hà-Nội gây ra!). Trước 1975, ông từng bị nghi ngờ nếu không vì xuất thân từ vùng kháng chiến chống Pháp thì cũng vì gia đình ông, cũng như nhiều người khác có anh em ở chiến tuyến đối nghịch; đời sĩ quan của ông không hanh thông, từng bị chỉ định nơi cư trú và giải ngũ sớm. Nạn nhân cả sau biến cố 30-4-1975, ông đã phải chịu đựng và câm lặng hơn 30 năm. Tuy vậy trong buổi tranh tối tranh sáng, ông cũng bị tai tiếng nhưng rồi qua đi. Dù muốn dù không, Cung Tích Biền cũng đã chứng kiến nhiều cảnh bạo lực, “nhân tình éo le” và chướng tai gai mắt. Tình cảnh nạn nhân và chứng nhân đó đã được ông đưa vào sáng tác, đã là nguồn, là chất liệu làm nền cho văn-chương Cung Tích Biền.
Trong các sáng tác khi có thể và không nhiều, ngọn bút của ông mang nặng tính nhân bản và không pha hận thù, nếu có chăng là suy tư, hài hước tình đời, là nhắc nhở để tránh, để khỏi… Dùng ẩn dụ, ví von xa xôi, xa xưa và không gian khác, lạ lẫm thay vì hiện thực dễ dàng thấy sao nói vậy. Ðề tài thời nhiễu loạn, “gió chướng”, do đó không hề thiếu, quan điểm và phê phán ông cũng không thiếu, nhưng biến thành con – chữ và đến được với người đọc là vấn nạn mà một nhà văn có bản lãnh như Cung Tích Biền không thể không đắn đo. Ðó có lẽ là lý do khiến những sáng tác hiếm hoi của ông sau 1975 khi còn ở lại trong nước khá cô đọng, kiệm lời, không thừa chữ, không phải lý lẽ cho ra lẽ, nhưng từ khi ông định cư ở Hoa-Kỳ, hết “kiểm duyệt”, hết phải “sống trong phòng đợi”, thì ngòi bút ông như ngựa mất cương, tha thiết hơn, dài hơi hơn và phê phán triệt để hơn. Người đọc sẽ thấy diễn biến đó từ những truyện trong Thằng Bắt Quỷ (Tân Thư, 1993) đến Xứ Ðộng Vật (“tân truyện”; Nhân Ảnh, 2018) và gần đây, Mùa Xuân Cô Mơ Bay (CA: Thao Thao, 2019).
Kinh nghiệm sống cũng như các biến cố lịch sử cận đại đã được và tiếp tục hiện hữu, “sống-còn” trong các sáng tác của Cung Tích Biền, và ông xác tín trong một phỏng vấn của Ðặng Thơ Thơ rằng “viết là một cách tự cứu rỗi, cũng là cách tối an tử dần dà. Ðó là Mệnh”. Vì theo ông, “Một văn chương hoàn chỉnh chính là Một Nạn Nhân./ Một Hoàn chỉnh Văn chương là tật nguyền ráp lại./ Một thường-trực-trả-lời, trong hoàn cảnh Việt Nam hôm nay, phải là một trung-thực-chịu-nạn./Văn chương có thể huyền ảo, nhưng trách nhiệm của Nhà văn không hề là một hư ảo” (Trích từ “Cung Tích Biền nói chuyện với Đặng Thơ Thơ”, 24-3-2008: https://damau.org/17335/ ctb-noi-chuyen-voi-dang-tho-tho).
N&BH – Tổng hợp