
L
àm thơ không phải là một cái nghiệp. Danh từ nghiệp ở đây thường được hiểu là cái duyên có từ trước. Nó tách rời danh từ kép nghề nghiệp, để khỏi được xem là công việc chuyên môn trong mưu sinh. Việc làm thơ, có người còn cho là nghiệp dĩ. Trạng từ này, chỉ một sự việc vốn đã như thế và còn dây dưa khó dứt. Một số người làm thơ cao tuổi, thường hãnh diện dùng hai từ này. Họ ngầm xem mình có sứ mệnh với thi ca, luôn tiện biện minh cho việc ghiền làm thơ của mình.

Làm thơ cũng không là thú tiêu khiển. Dĩ nhiên cũng có một số người, dùng vần điệu của ngôn từ, để khuây khỏa một vài nỗi phiền muộn hoặc để giải trí. Những tay chọn chữ, gieo vần này xem thơ như một phương tiện.
Làm thơ đúng nghĩa là động tác hít thở trong nhiều chặng đời. Dĩ nhiên, điều này chỉ chính xác với những người đến với thi ca một cách tự nhiên, bình thường, nhưng vô cùng thiết tha. Sự hô hấp bộc lộ một cách tình cờ, không từ ý định cầu danh, háo danh. Danh xưng nhà thơ hay thi sĩ không phải là phần thưởng. Đó là một góc đời sống của người làm thơ sau khi thi ca phát tiết. Thi sĩ thứ thiệt rất vui được đời gọi tên mình đi sau một trong hai danh từ đó. Nhưng rất ít người tự xưng. Nguyễn Nam An là một trong những người có động tác hít thở kỳ diệu này.
Nguyễn Nam An được sinh tại thành phố Đà Nẵng, thời còn trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Với tên thật Lê Văn Mùi, anh vào trường Nam Tiểu Học, hết lớp qua Phan Châu Trinh. Một ngôi trường đã cung cấp cho văn giới một số cây bút như Lệ Hằng, Trịnh Thị Diệu Tân, Ái Hoa. Đynh Hoàng Sa, Hà Nguyên Thạch, Nguyễn Nho Sa Mạc, Phan Duy Nhân, Huy Giang, Phan Nhật Nam, Lê Hân, Phạm Vũ Thịnh, Đỗ Hùng, Vương Ngọc Long, Trần Gia Phụng, Nguyễn Đức Cung, Vũ Ngự Chiêu... Nguyễn Nam An rời trường vào tháng 3-1973 để trở thành một khinh binh trong cuộc chiến chống màu cờ đỏ.
Anh bắt đầu làm thơ sau khi định cư tại Hoa Kỳ, từ tháng 4-1975. Thơ anh góp hơi làm phong phú bộ môn thi ca, cho các tạp chí: Nhân Văn, Việt Chiến, Việt Nam Hải Ngoại, Hợp Lưu, Văn Học, Văn, Phố Văn, Thế Kỷ 21, Thư Quán Bản Thảo... và nhiều trang web. Anh đã xuất bản các tác phẩm: Tôi Chim Ngủ Đậu Cành Xanh (thơ, Nhân Văn, 1996), Thức, Buồn Chi (thơ, Nhân Văn, 1996), Biển Thuở Chờ-Ai (thơ, nxb Văn, 2000), TiCi (thơ, Tân Thư 2000), Hóa Ra Lần Cuối Em Buồn Nghỉ Chơi (thơ, Tân Thư, 2003), Tiểu Triệu Minh (tập truyện, Quyên Book USA 2005). Ngoài bút hiệu Nguyễn Nam An, Lê Văn Mùi còn dùng tên An Phú Vang cho nhiều sáng tác của mình, kể cả tập truyện đầu tay.
Tính đến hôm nay, tháng 5-2010, đã qua 5 năm, Nguyễn Nam An chưa có thêm sách phát hành. Nhưng anh vẫn viết đều. Bạn đọc vẫn thích thú đến cùng thơ anh.
Với giọng thơ dí dỏm, tháo mở những cảm xúc chân tình, tự nhiên, Nguyễn Nam An có phong cách khá lạ trong cõi thơ giàu vần điệu. Điều này đã giúp anh, tạo hứng cho một số ngòi bút thành danh, an tâm nhận xét về thơ anh. Những chân dung văn chương này gồm Khánh Trường, Hoàng Mai Đạt, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Khởi Phong, Thảo Trường, Tưởng Năng Tiến, Trần Hoài Thư, Nguyễn Vy Khanh... Họ đúng là loại chén kiểu cả. Chọn ai phát biểu của về thơ Nguyễn Nam An cũng lý thú. Tuy vậy, tôi có hơi ăn gian, khi lựa những dòng ngắn gọn nhất để gõ:
“... Nguyễn Nam An không sử dụng những kỹ thuật trúc trắc, để diễn tả những tâm trạng trục trặc - như thường thấy ở những người làm thơ cùng thời. Thơ của Nguyễn Nam An hiền như đất, lành như rau, thường đẹp như những đóa hoa đồng nội, và luôn luôn đầy ắp những cảm xúc bình thường: tình hoài hương, tình bạn thời thơ ấu, tình chiến hữu của những ngày còn binh lửa, tình bằng hữu, tình yêu ...” Tưởng Năng Tiến
Quả thật tác giả Cuộc Chiến Chưa Tàn (TNT), đã nêu gần hết cái tinh khôi trong thơ Nguyễn Nam An. Cũng may ông chưa cụ thể hóa bằng dẫn chứng, nên hôm nay, tôi còn có cơ hội lang thang trong cõi thơ “hiền như đất, lành như rau”. Và để tiện bước, tôi xin đi theo dẫn dắt của ông thường-dân-Tiến qua từng chặng thơ.
Quê hương, nếu hiểu theo nghĩa thông thường là nơi chốn ra đời, chỗ chôn nhau cắt rún (rốn), thì hai câu thơ “... Quê hương mỗi người chỉ một / như là chỉ một mẹ thôi...” của thi sĩ Đỗ Trung Quân thật thấm thía. Nhưng nếu trưng dụng những hình ảnh đã tạo nên tình cảm, kỷ niệm, cụ thể như con diều, chùm khế... hoặc bất cứ hình ảnh nào khác, để gọi là quê hương, thì trong chúng ta, một số người có hơn một quê hương. Quê hương có lẽ phải được hiểu: là mảnh đất nuôi dưỡng, tạo nên sự trưởng thành thân xác lẫn tinh thần một con người. Với thế hệ con cháu của Nguyễn Nam An điểm này hẳn chính xác. Nhưng với riêng nhà thơ, quê hương của anh rõ ràng là Đà Nẵng Quảng Nam, là Việt Nam. Nguyễn Nam An chắc chắn cũng không phải sợ “sẽ không lớn nổi thành người” như Đỗ Trung Quân cảnh báo, mới nhớ nhà, nhớ quê. Nỗi nhớ của anh là một tình cảm tự nhiên như mỗi một chúng ta, khi lưu lạc xứ người. Tình hoài hương đó chan chứa trong thơ Nguyễn Nam An ra sao ?
Một đồng dạng trong dòng thơ gối đầu cỏ hoa, là phác thảo một đôi nét cảnh sắc, để lồng vào đó những xúc cảm thao thức trong lòng. Độ đậm nhạt của cảnh sắc, nét sống động của nhớ thương, tùy thuộc vào mỗi nhà thơ. Sự khác biệt nhau, ở điểm cân nhắc, điều hòa nội tâm với ngoại cảnh, của từng thi sĩ. Có nhà thơ giàu có chân dung cảnh vật. Có nhà thơ đậm đà những liên tưởng, gợi mở. Quê hương trong thơ tỉnh, động, theo sự quen tay bố trí ngôn từ. Mỗi người có cung cách riêng. Với Nguyễn Nam An, cốt lõi thơ quê hương của anh, là nhắc lại cho chính anh, những hình ảnh đã và đang thở trong lòng anh. Những đường nét, màu sắc như đứng lại cùng tuổi hồn nhiên, tuổi mơ mộng của một ngày nào. Sự dí dỏm luôn là cái duyên trong thơ Nguyễn Nam An.
Viết về Đà Nẵng, thành phố nuôi cả thời thanh xuân, Nguyễn Nam An trải nhẹ mấy câu lục bát:
“thuở ấy Đà Nẵng là đà
ngó sông thấy núi ngó phà thấy sông
ngó em thời đó mênh mông
những đường áo trắng một vòng thiết tha
tuổi mới lớn - lúc này xa”
Tuy chỉ năm câu, Nguyễn Nam An đã giới thiệu được tổng quát, thành phố của anh. Một thành phố có sông, có núi, có con người. Nhất là dồi dào người đẹp. Cái thú vị đáng nói là cách dùng chữ. Câu đầu, sự lặp lại từ “đà”, đồng âm, với hai nghĩa khác nhau là một chơi chữ tài hoa. Từ “đà” đầu, một phần trong danh từ riêng, tên thành phố. Từ “đà” sau là một trạng từ, biến âm của từ “đã”, chỉ một sự việc đã đi qua, đã xảy ra trước đây. Câu thơ có nghĩa: “thuở ấy ở Đà Nẵng đã có thể ngó sông thấy núi, ngó phà thấy sông... vân vân... Tác giả cũng xác nhận “thời ấy” là giai đoạn anh mới lớn, mới chớm biết để ý đến những chiếc áo dài, một biểu tượng của nhan sắc trong trắng nữ sinh. Và thuở ấy nay đã xa rồi. Một sự thật được xác nhận rõ ràng, nhẹ ngàng mà âm vang những xót xa nuối tiếc, những ngậm ngùi bất lực.
Đọc năm câu lục bát của Nguyễn Nam An, thứ nhất, thấy được sự thơ ngây thời bấy giờ của anh. Thứ hai, thấy cái tâm hồn phóng khoáng, thanh tao của thi sĩ. Bởi vì, nếu như tôi, khi đã ngó sông thấy núi ngó phà thấy sông, thì khi ngó em phải thấy một cái gì khác, thuận với kỹ thuật của câu trên, chứ không thiệt thà nhắc lại “... thời đó mênh mông / những đường áo trắng một vòng thiết tha”. Để góp một nụ cười trong khi đọc, xin phép tác giả và bạn đọc cho tôi tiết lộ, cái gì khác tôi nói trên, có thể là ‘“ngó em” thấy đám cỏ hồng - thấy con hẻm tối gió bồng bềnh thơ ’. Cũng vần, cũng điệu đề huề lắm, nhưng dĩ nhiên câu chữ, hình ảnh, không nhẹ nhàng thanh thoát như thơ Nguyễn Nam An. Xin được nhắc lại, ví dụ này chỉ là ba hoa góp vui thôi.
Ở một bài khác, cũng dành cho Đà Nẵng, mang tên Đà Nẵng, Nguyễn Nam An vẫn tế nhị, giới thiệu một số hình ảnh bình thường, rất phổ thông trên con đất anh đã sống. Đại loại như hàng kiền kiền, bãi cát, trăng sao... Từ những điểm tựa đơn giản, thân quen đó, Nguyễn Nam An tìm thấy lại mình trong tháng năm xưa cũ. Kỷ niệm quả thật đã đi qua, nhưng luôn luôn ngoái lại. Và người làm thơ bắt gặp ở chúng những thao thức, hẹn chờ. Tiếng thầm thì nhắc nhở của thời gian sẽ hiện dần ra một cách cụ thể, có vóc dáng, nếu đối tượng của chúng biết thể hiện thành những dòng chữ, những câu thơ. Nguyễn Nam An đã tức tốc thực hiện điều này. Tôi tin anh đã có thể sờ lên được những kỷ niệm, những nhung nhớ đang quảy lật trong lòng. Cái đạp, cái ngắt véo thân thương ấy hiện ra:
“ai biết em xa theo những cồn mây trắng
từ anh vào đời Đà Nẵng xa xôi
Đà Nẵng của tôi nhớ lại bùi ngùi
lâu, lâu lắm, chưa lần trở lại”
Trước khi viết, tôi đọc lướt qua hai thi phẩm TiCi và Biển Thuở Chờ-Ai. Tôi nhận thấy, Nguyễn Nam An đang lặp lại nét đặc thù của một số nhà thơ Quảng Nam. Đó là việc dùng địa danh để làm một phần đề bài viết. Điều này chứng tỏ hơi hám của những nơi các nhà thơ đi qua, dừng lại, đều đọng rất lâu trong tâm hồn. Tình quê hương bắt nguồn từ những cảm tình giao hòa cùng thiên nhiên, đất trời. Một cây cầu, một nhánh sông, một tảng đá... mọi vật đều có hơi thở riêng. Và luôn luôn chực chờ để cùng thở với con người. Người làm thơ là kẻ dễ bắt gặp những nhịp thở rộng lòng như thế. Nguyễn Nam An đã may mắn có nhiều cơ hội. Thêm vào đó mạch hứng tràn đầy, anh sẵn lòng ưu ái để những tên gọi làng, tỉnh, thành phố được phép sống còn với thơ anh. Từ những Đà Nẵng, Nam Ô, Quế Sơn, Xuân Lộc, Phước Tuy, Sài Gòn... đến những Santa Ana, Houston, Fremont, San Jose, Laguna Beach, England, Portsmouth, Santa Barbara, Yosemite... giúp chúng ta có thể tin, Nguyễn Nam An đang giữ kỷ lục về việc trưng dụng địa danh vào đề thơ của mình. Phát hiện nét đặc biệt này, thoạt đầu tôi đã đặt tên bài tản mạn là “Nguyễn Nam An, Tình Nuôi Xanh Những Địa Danh”.
Một bài thơ quê hương khác, một quê hương rộng lớn hơn trong danh xưng Việt Nam, đã được Nguyễn Nam An dùng những xúc cảm chân tình để thực hiện rất đạt. Cái thành công của bài thơ có thể nhận ra từ:
- Tạo được cái không khí xót xa một cách đằm thắm, liên tục suốt chiều dài bài thơ.
- Trình bày tâm trạng u uất rất rõ nét và chân thực.
- Vẽ được hình ảnh quê nhà qua những nét thơ tinh tế, linh động
- Thể hiện được cốt cách của một thời
- Gói ghém được tình cảm muốn tỏ bày
Lẽ ra tôi trích đoạn dẫn chứng cho từng điểm trên. Nhưng làm vậy có thể ngắt nhịp đọc liền mạch, nên xin được giới thiệu trọn vẹn:
Lạ đất trời người như ta trôi nổi
Lại ngày qua ngậm mãi mối u hoài
Lại ngày qua nhớ rừng thiêng tiếng gọi
Sông núi mịt mùng nào phải riêng ai
Tôi có mẹ già hôm nay ở lại
Tôi có mồ cha cỏ núi chưa xanh
Những tiếng chim non của thời ấu dại
Cũng như sông như núi biệt sao đành
Tôi có trăm năm giữa những giòng thác mới
Chiều phố xa trở lại giữa hoàng hôn
Người có nghe trong những tàn phai tới
Như ngày qua đêm xuống lại buồn hơn
Như từ lâu đạn bom còn vọng tới
Ru mãi đời xưa lính thú quê hương
Con đi Nhảy Dù, me đừng trông đợi
Ngày Túy Loan, đêm Đại Lộc đã thường
Người có nghe như ta trăm lần đã
Ngày chênh vênh qua phố lạ mênh mông
Những ai hôm kia xuôi giòng ra biển
Lời quê hương sao quá đỗi đoạn trường
Lạ đất trời ta buồn ta uống rượu
Mang nón rừng giả lính thú xa xưa
Này đây Phước Tuy, này đây Bình Giã
Thấy xa xa trong nỗi nhớ quê nhà
Ơi khói mênh mông về trong tiếng hát
Đêm ân cần khơi lại chút niềm riêng
Trên đôi vai ta trăng giờ đã bạc
Em quê nhà còn lệ khóc nhân duyên
Quê hương, tình yêu lứa đôi, luôn luôn là hai chủ đề lớn trong thi ca Việt Nam. Với tình hoài hương, tôi mới chỉ trải mươi bước lòng lên thơ Nguyễn Nam An. Tôi hy vọng sẽ đi tiếp. Nhưng ý đồ nương theo lộ trình vạch sẵn của nhà văn Tưởng Năng Tiến, xin được chấm dứt ở đây. Tôi chọn một hướng đi mới có thể gọn nhẹ hơn. Và để cuộc dạo chơi tốt đẹp, tôi tạm chia đời tình của Nguyễn Nam An ra làm ba chặng:
- Thời ấu thơ cùng những chuẩn bị vào đời.
- Thời cận kề với tử sinh.
- Thời sống và nhớ bên ngoài tổ quốc.
Trước nhất, xin được ghi chú: Đời Tình ở đây bao gồm tình đời, tình người và tình thơ.
Ấu thơ và giai đoạn cắp sách đến trường bao giờ cũng tuyệt vời nhất. Mỗi người trong chúng ta thường có những phần thưởng và cách thụ hưởng riêng. Nhà thơ Lê Hân, cũng là một người Quảng Nam có một ấu thơ hình như không được tốt đẹp: “ấu thơ tôi nghèo trò chơi ghê lắm / nghèo thì nghèo vẫn có ấu thơ tôi / tánh bổn thiện, tôi hiền như đá tảng / chán lang thang hai chân xếp bằng ngồi...- những buổi sáng ngồi co chân phơi nắng / chào con chim về hót trước hiên nhà / con chim nhỏ hình như thường giả dối / đời chắc buồn nhưng vẫn phải ngâm nga..- .ấu thơ tôi chẳng có gì nữa cả / không bi ve cũng chẳng có dàn thun / ngày dài quá ngồi không, rình con chuột / thò thụt ngu ngơ sau cánh cửa buồn...” (Về Lại Ấu Thơ - TTMN – Lê Hân). Ấu thơ của Nguyễn Nam An, may mắn và ấm áp hơn nhiều. Anh có đủ cả việc bắn bi, đánh đáo, thả diều, tắm biển, đi lang thang. Tuổi thơ của anh ít ra là na ná như tuổi thơ của tôi. Một tuổi thơ có sự hoang nghịch, tinh ranh cần thiết. Tôi thật tình cảm ơn Nguyễn Nam An đã viết giúp tôi mấy câu này:
mấy thằng đường xóm bắn bi
cái quần xà lỏn - kỳ kỳ con chim
xóm ơi thuở đó tôi hiền
ai xin trái ổi chân liền đi chôm
một ngày em hỏi gì hơn
chờ - không thấy - cho tôi luôn - cù lần
(Cho Tôi Cù Lần)
Thật tuyệt vời. Cái tuyệt vời ở đây, tôi nghĩ nhiều bạn có thể đoán sai. Bắn bi đâu có chi tuyệt vời. Cả việc đi chôm trái ổi thay vì đi xin, ai cũng cho, cũng chẳng có gì lạ. Cái chạm vào dĩ vãng tôi. Cái khều đúng mạch cười là... cái quần xà lỏn và những hình ảnh ngộ nghĩnh đi kèm. Đọc thơ Nguyễn Nam An, tôi thấy ra ngay một chiếc quần màu đen, ống rộng phất phơ trên đầu gối. Quần có thể điệu nghệ hơn khi có bốn sọc trắng hay đỏ, chạy dọc từ lưng quần xuống gấu. Đúng mốt hơn nữa, tiếp giáp với đầu hai đường nẹp là một một vùng khoét lõm hình nửa đồng xu. Đá bóng, leo trèo, u mọi cả đến việc chạy nhảy, leo rào đều tiện lợi. Có một điều rất lạ: hình như thằng bé nào không thường xuyên mặc quần xà lỏn, thì lông chân phát triển ngoạn mục lắm. Có thể suy ra họ nhà mao có khuynh hướnh bành trướng trong bóng tối. Cái quần xà lỏn lịch sử của một thời kỳ ấu thơ này, có lẽ đã sống đến mấy thập niên.
Mặc quần xà lỏn thì cái việc kỳ kỳ con chim xảy ra đều đều. Thảnh thơi, mát mẻ vô cùng, nhưng nhiều khi trái chứng, dễ đem lại cái ngượng ngùng cho anh chàng tuổi nhỏ. Tôi nhớ đọc đâu đó hai câu “.... cột buồm đội vải ra khơi / giở mũ cối đội hương đời chênh vênh”. Chắc cũng nói về cái kỳ kỳ này. Mũ cối ở đây nhất quyết không có màu ô liu bộ đội. Mà là loại mũ cối thường được đánh phấn trắng của thập niên sáu mươi, của tuổi thơ thời ấy. Cái kỳ kỳ đội vải này, chắc Nguyễn Nam An cũng thường gặp.
Trưng dụng tài hoa trời cho, Nguyễn Nam An tả chân một cách kín đáo, tài tình về ngày ra đời của mình, luôn tiện biện minh cho sở thích giang hồ linh tinh sau này:
vào đời lúc đó chổng mông
nằm mà ré mẹ mới bồng lên coi
thì ra chân đứa bé dài
nên giờ nó cứ đi hoài gần xa
đi gần thì nhớ mẹ cha
đi xa lạ nước lạ nhà, chỉ em
Qua hơi ré đòi mẹ bồng hồi nhỏ, ta thấy được cậu bé An khỏe mạnh hồng hào. Với cặp chân dài, sau này anh vượt tầm cỡ một thước tám ba, có thể đúng tiêu chuẩn làm một Từ Hải của cụ Nguyễn Du. Anh không tiết lộ năm sinh, nhưng với khuôn mặt có phần điển trai, hình như anh đứng mãi trong lứa tuổi bốn mươi.
Trở lại với thời sách vở. Năm năm Tiểu Học qua mau. Bước vào Đệ Thất, cốt cách tinh nghịch đã có phần tinh ranh. Mức độ trưởng thành trong học vấn tăng trưởng thuận chiều cùng những lớn khôn của tình cảm. Ngoài những giờ học, có người đã biết lang thang qua ngõ mỹ nhân, có người đã biết chép ca dao, thơ Xuân Diệu... chờ chực cơ hội trao gởi, tỏ tình. Riêng với Nguyễn Nam An, rõ ràng anh đã biết thích nhưng chưa biết yêu. Hãy nhìn cái bộ dạng luống cuống dễ thương của anh:
các em phơi bưởi phơi cam
tôi đi lên xuống phơi vàng cánh tay
phơi đom đóm mắt chợt đầy
phơi lòng gian xảo mùa này nhìn nhau
các em đừng lật qua mau
để tôi chào vội lưng màu mật ong
chợt đi tôi lại vòng vòng
mang kiếng mát có dịu lòng đa đoan!
các em sao dám đùa hoang
giành đi hết nắng tôi bàng hoàng run
và đôi tai đã lùng bùng
và đôi mắt đã một vùng bưởi cam
các em biết đó tôi gian
từ khôn lớn mộng mơ vàng lá thu…
Từ hình ảnh hiện thực sống động, mục tiêu của sự quyến rũ bình thường, nhưng rất khác thường với người thưởng ngoạn. Hình ảnh của nhan sắc trong thơ Nguyễn Nam An được hạn chế phô bày đến mức tối đa. Hay đúng hơn là rất khéo léo qua từng đường nét giới thiệu. Một chút lưng màu mật ong, một chút đôi mắt đã một vùng bưởi cam cộng với các động tác lật qua mau, đùa hoang, đã đủ nói cái sinh động, cái quyến rũ mà tác giả phải đi lên xuống, mang kính mát, chợt đi tôi lại vòng vòng, để cuối cùng bàng hoàng run, và tự hỏi có dịu lòng đa đoan. Với khởi đầu rất táo bạo, thực tế, các em phơi bưởi phơi cam / tôi đi lên xuống phơi vàng cánh tay. Đi dần xuống lửng lơ nhẹ nhàng, bài thơ như một bản tự kiểm hơn là trao gởi những lời tán tỉnh. Chưa thấy bóng dáng tình yêu trong thơ, dù hậu quả có lùng bùng lỗ tai.
Tình yêu thời Trung Học, theo tôi, là đẹp nhất. Nhưng làm thơ tình trong giai đoạn đang yêu, không phải là dễ, nếu không muốn nói rất khó. Mời bạn đọc bài thơ dưới đây của Nguyễn Nam An:
anh học trò em học trò
không âu lo. không âu lo
cuối năm lên lớp
sao lại buồn so
như con tò vò
làm tổ
bay
o... o !
em tóc đuôi gà ngồi đầu lớp nghiêng nghiêng
tóc anh húi cua ba phân không hiền
đi học nhiều lần bị quì sơ mít
đầu gối đỏ sưng mấy cục...
em phiền!
em học trò, em thật hiền
ngày sau lớp mấy em biết làm duyên
anh còn ngu ngơ nhịp banh bóng rổ
buổi chiều sân trường vọng động cõi riêng
mùa hè mùa hè theo nhau lên lớp
anh viết bài thơ gởi nắng hàng hiên
(đúng ra gởi em mà anh không dám)
viết-xé-triền-miên. Viết-xé-ưu-phiền
làm người lớn...
sao mệt
bước nghiêng !
(Anh Học Trò, Em Học Trò - TiCi)
Chắc chắn bài thơ không thành hình trong thời kỳ Nguyễn Nam An làm anh học trò. Hình ảnh, kỷ niệm, ngủ khá lâu trong trí nhớ. Tác giả đã dùng trái tim để viết lại. Chính nhờ vậy nét hồn nhiên, tính trung trực làm bài thơ linh động. Những chân dung tóc đuôi gà, tóc hớt húi cua ba phân, mang lại cho người đọc hình ảnh của cả một thời nghiên bút xa xưa, ngày nay đã có phần mai một. Tâm trạng “(đúng ra gởi em mà anh không dám) / viết-xé-triền-miên. Viết-xé-ưu-phiền” có phần lỗi thời, nhưng tôi tin vẫn còn được lặp lại hôm nay, với một số ít học sinh ngoan hiền, hoang ngầm.
Yêu trong thời kỳ học Trung Học ngoài cái khuyết (hay ưu) điểm sợ tỏ tình. Còn có cái ưu (hay khuyết) điểm là được làm thơ rất vu vơ. Cốt cách thi sĩ phát tiết rực rỡ nhất ở thời kỳ này. Tấm lòng bao la cũng từ đây rộng dần ra. Trước khi bước vào một chặng tình khác của Nguyễn Nam An, mời các bạn cùng hít thở với ít nụ thơ xưng tụng, tán tỉnh mỹ nhân của tác giả:
“... ngày xưa thơ ơi theo em tôi sống
một của mênh mông, một của âm thầm
một mới lớn lên tập tành đứng ngóng
một của thơ tình viết giấu lặng câm
chưa dám cầm tay nên xa anh nhớ
mình nợ nần gì đuôi mắt quê hương”
(Đuôi Mắt Em Thương - TiCi)
anh quờ quạng đi tìm gì không biết
đêm có bàn tay để nhớ mùi hương
mai có xa nhau như mây biền biệt
vẫn là trăng em ẩn hiện vô thường
(Chờ Ngày - TiCi)
em cười độ lượng em đi
cây đường lá lục chiều hoài nắng phai
ngẫm nga trong cõi mộng dài
nhìn quanh sót lại còn hai mái đầu
(Em Cười - TiCi)
em nằm dáng núi tôi thương
để nghe như tiếng thở buồn ngón tay
để nghe quen tóc cuộn ngày
và quen hơi thở ấm đầy vành tai
chẳng còn ai, chẳng biết ai
dầu tôi sống với nắng mai như người
(Giấc Chiều - TiCi)
Cửa ngõ mở vào chặng đời tình thứ hai của Nguyễn Nam An bắt đầu năm 1973. Mặc dù thành công trong trận chiến mùa hè năm 1972, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng tổn thất khá nặng về nhân lực. Một chiến dịch nhằm đôn quân được phát động. Lứa tuổi của nhà thơ Nguyễn Nam An nằm trong đợt bổ sung quân số này. Dân tác chiến đội mũ đỏ, hẳn bạn phải có một tinh thần, một vóc dáng đáng gờm. Với sáu câu lục bát, nhà thơ đã ỡm ờ về mình:
khi em gọi ta đại ca
đời này đầy những yêu ma giang hồ
thuở trên núi đó hiền khô
giờ dưới núi anh thành đồ du côn
nhưng sau cái mặt cô hồn
vẫn đại ca đó một đường gươm vung
Hiền khô nhưng sẵn sàng vung gươm nghĩa hiệp, có lẽ là tâm dạng của Nguyễn Nam An ngày làm lính.
Cuộc đời quân nhân là tháng ngày thả nổi theo những cuộc hành quân. Ngoài đồng đội các cấp, chiến hữu của người lính còn là: cấp số đạn, súng, giày, nón sắt, áo giáp, bản đồ, địa bàn, ống dòm, lương khô, dây, võng, xẻng, cà mèn, dao găm, giấy, bút và... thư tình cùng linh tinh các thứ lỉnh kỉnh khác, tùy theo mỗi cá nhân. Nguyễn Nam An thuộc binh chủng trừ bị, những cuộc quân hành càng được điều động thường xuyên. Hết ở Quảng Nam rồi đơn vị về Sài Gòn tháng 3, 1975. Tháng 4 vào Xuân Lộc Long Khánh; nằm dọc quốc lộ 15 rồi một tối theo tiểu đoàn lên lấy lại Phước Tuy. Nằm đến ngày 30 tháng 4, 1975 bên này cầu Cỏ May. Đến đây tàn cuộc! Cái chúng ta cần hôm nay, là nhìn vào những gian truân, sức chiến đấu và tâm trạng kẻ cầm súng qua những hồi tưởng được thi vị hóa, được ghi lại bằng vần điệu có đủ phong cách của thi ca. Vài Ba Tháng Chân Đi dưới đây, hy vọng chúng ta cùng tác giả có những thoáng sống lại một đoạn đời đã qua, nhưng chưa khuất bóng:
Tháng Hai Hoà Ninh, tháng Ba Nam Ô
Những ngày quân qua miền Trung cằn khô
Một bước quê hương một vùng đất khổ
Xơ xác trong nhau những ánh mắt chờ
Những ngày quân qua miền Trung cằn khô
Một bước quê hương một vùng đất khổ
Xơ xác trong nhau những ánh mắt chờ
Tấm áo ngụy trang bạc ngày gió núi
Che nắng lửa trời che tháng mưa rơi
Đêm trũng Túy Loan trùng trùng bóng tối
Pháo giặc bay ngang Đà Nẵng ngậm ngùi
Che nắng lửa trời che tháng mưa rơi
Đêm trũng Túy Loan trùng trùng bóng tối
Pháo giặc bay ngang Đà Nẵng ngậm ngùi
Phố cũ xa ơi vàng đèn có nuối
Ngột ngạt đêm hè tiếp giấc mong manh
Vẫn sống cầm hơi trong vòng đai hẹp
Thêm bước qua ngày vàng mộng hay xanh
Ngột ngạt đêm hè tiếp giấc mong manh
Vẫn sống cầm hơi trong vòng đai hẹp
Thêm bước qua ngày vàng mộng hay xanh
Đêm bỏ Hòa Ninh đêm bỏ Nam Ô
Tháng Ba quân đi đường dân đứng chờ
Phi cơ đậu im giữa lòng khuya mở
Thì giã từ quê ai mấy kẻ ngờ
Tháng Ba quân đi đường dân đứng chờ
Phi cơ đậu im giữa lòng khuya mở
Thì giã từ quê ai mấy kẻ ngờ
Tháng Ba Sài Gòn tháng Tư Xuân Lộc
Đêm trăng âm thầm đơn vị Trảng Bom
Đất đỏ bụi mù quân đi về núi
Chiến trận gần xa, ai biết mất còn
Đêm trăng âm thầm đơn vị Trảng Bom
Đất đỏ bụi mù quân đi về núi
Chiến trận gần xa, ai biết mất còn
Tháng Tư lạnh trăng bạc đêm Bình Giã
Sống chết đường hoang một ngã lui quân
Đất Đỏ chào nhau còn đây sự sống
Đồi trọc nhìn quanh lính mơ thị thành
Sống chết đường hoang một ngã lui quân
Đất Đỏ chào nhau còn đây sự sống
Đồi trọc nhìn quanh lính mơ thị thành
Thôi Sài Gòn ơi đã không về nữa
Qua phố chào gì Bà Rịa Phước Tuy
Xôn xao bồ câu vui trên tháp nước
Đường xa đóng quân tháng Tư chờ gì
Qua phố chào gì Bà Rịa Phước Tuy
Xôn xao bồ câu vui trên tháp nước
Đường xa đóng quân tháng Tư chờ gì
Vài ba tháng đi vài ba tháng nhớ
Chân cầu vừa gãy, Cỏ May chơ vơ
Nằm bên này sông chị cho cơm trắng
Đôi nắm lót lòng đợi chiến trận to
Chân cầu vừa gãy, Cỏ May chơ vơ
Nằm bên này sông chị cho cơm trắng
Đôi nắm lót lòng đợi chiến trận to
Vài ba tháng đi đứng đây bỡ ngỡ
Bến Đá pháo về bạn chết như mơ
Thả súng biển xanh, khóc anh, ngần ngại
Sau lưng Gò Công trước biển, dặm mờ
Bến Đá pháo về bạn chết như mơ
Thả súng biển xanh, khóc anh, ngần ngại
Sau lưng Gò Công trước biển, dặm mờ
Cuối một đường xa tháng không từ tạ
Chỉ cặp thẻ bài, lủng lẳng theo ta
Số súng - số quân - số nhà - số tuổi
Chưa biết số ngày nương tạm phương xa
Chỉ cặp thẻ bài, lủng lẳng theo ta
Số súng - số quân - số nhà - số tuổi
Chưa biết số ngày nương tạm phương xa
Bài thơ trên có thể được xem là một bài tổng quan, chưa đầy đủ những cuộc hành quân, Nguyễn Nam An đã tham dự. Những địa danh từng hằn sâu dấu đạn, hố bom đều được nhắc nhớ trong trìu mến, bùi ngùi. Hoà Ninh, Nam Ô, Túy Loan, Xuân Lộc, Trảng Bom, Bình Giã, Gò Công... Còn, và còn nhiều nữa. Mỗi bước quê hương một vùng đất khổ... Chỉ tám chữ hiền lành, bình dị vậy thôi, mà tác giả đã nói lên được tất cả sự bất an, bất hạnh, trên từng thước đất của quê hương thân yêu chúng ta, trong thời chiến loạn. Hoàn toàn không có sự bi thảm hóa trong bài thơ. Xúc cảm của tác giả cũng là tâm trạng của người lính, được biểu lộ một cách trung trực không cường điệu. Điều này giúp người đọc, hòa mình vào cảnh ngộ một cách tự nhiên. Chi tiết của từng chiến trận, chỉ thu hẹp trong những lần gọi tên địa danh. Nhưng những nét tiêu biểu, cảm nhận về từng đụng độ khá rõ nét:
Đêm trũng Túy Loan trùng trùng bóng tối
Pháo giặc bay ngang Đà Nẵng ngậm ngùi
Pháo giặc bay ngang Đà Nẵng ngậm ngùi
Ngột ngạt đêm hè tiếp giấc mong manh
Vẫn sống cầm hơi trong vòng đai hẹp
Vẫn sống cầm hơi trong vòng đai hẹp
Đất Đỏ chào nhau còn đây sự sống
Đồi trọc nhìn quanh lính mơ thị thành
Đồi trọc nhìn quanh lính mơ thị thành
Vài ba tháng đi đứng đây bỡ ngỡ
Bến Đá pháo về bạn chết như mơ
Bến Đá pháo về bạn chết như mơ
Thật ra chẳng cần phải trích dẫn lại như trên. Bởi gần như mỗi một câu thơ, đều có đủ giá trị thuyết minh về tâm trạng lẫn sự mô tả. Nguyễn Nam An đã rất tài hoa trong việc chọn hình ảnh, sử dụng từ ngữ. Tôi có cảm tưởng như anh thò tay vào kỷ niệm của mình, và bóc ra những vụn sống có thật, có đủ hơi thở, hơi thơ, rồi đặt lên trang giấy. Bài thơ hoàn tất. Làm thơ khó biết bao nhiêu nếu phải cố gắng ngụy tạo. Làm thơ dễ dàng như chơi, nếu đã sống, đã cảm, đã chân thành cùng những tư duy của mình. Nguyễn Nam An đương nhiên làm thơ dễ dàng quá. Nhưng dễ dãi có lẽ không. Căn cứ vào chất thơ của từng câu chữ, căn cứ vào sự dẫn dắt của từng cụm thơ, trôi theo diễn biến thật sự của chiến cuộc, ta nhận ra điều này. Thú thật, tôi đã ngồi lặng yên khá lâu, mặc cho đôi mắt chạy đi chạy lại nhiều lần trên hai đoạn cuối bài thơ. Không ứa nước mắt nhưng quả tình tôi đã khóc. Tôi nhìn lên tấm thẻ bài của mình còn treo trên vách tường cạnh bàn viết. Nỗi ngậm ngùi xót xa ùa về, ngỡ như những bàn tay vỗ vai, mà không phải, mà chỉ là những câu thơ:
Vài ba tháng đi đứng đây bỡ ngỡ
Bến Đá pháo về bạn chết như mơ
Thả súng biển xanh, khóc anh, ngần ngại
Sau lưng Gò Công trước biển, dặm mờ
Bến Đá pháo về bạn chết như mơ
Thả súng biển xanh, khóc anh, ngần ngại
Sau lưng Gò Công trước biển, dặm mờ
Cuối một đường xa tháng không từ tạ
Chỉ cặp thẻ bài, lủng lẳng theo ta
Số súng - số quân - số nhà - số tuổi
Chưa biết số ngày nương tạm phương xa
Chỉ cặp thẻ bài, lủng lẳng theo ta
Số súng - số quân - số nhà - số tuổi
Chưa biết số ngày nương tạm phương xa
Tôi trực nhớ ra tôi là một cựu quân nhân. Tôi vừa nhớ ra tôi có thời cầm súng. Tôi có đủ các loại số như Nguyễn Nam An liệt kê, và cũng như anh, tôi bâng khuâng chưa rõ số năm lưu lạc của mình. “... đời lưu lạc mỗi ngày là một tuổi / dài vô cùng nhưng không đủ xót xa...” (Luân Hoán)
Viết về thơ mà lẩn thẩn thế này, hẳn làm hỏng bài viết. Rất may, tôi chỉ mượn thơ người để tản mạn qua giờ. Nguyễn Nam An không cho phép, tôi sẽ níu những Trần Trung Đạo, Nguyễn Đông giang, Xuyên Trà và nhiều nữa...
Chẳng phải vì đã làm lính nên tôi khoe khoang. Thật sự, đời lính dù ngắn ngủi, cũng là một giai đoạn phong phú vốn sống. Các bạn đừng tưởng chỉ loanh quanh trong các công việc đánh đấm mà trở nên chai lì. Trái lại, qua những độc kích, phục kích, mở đường, đóng chốt, tăng viện... người lính trở nên mềm mại, lãng mạn ra rất nhiều. Trong âm nhạc và thi ca đã không thiếu những bài ngợi ca kẻ cầm súng. Ở dây, tôi không dám bàn đến giá trị nghệ thuật. Tôi chỉ xin được giới thiệu thêm vài nét mượt mà trong tình lứa đôi, mà chính Nguyễn Nam An đã trồng tỉa xanh tốt:
“... đêm nhớ lòng giếng vô danh ở Quế Sơn lại nhớ đến người
tôi rớt giữa lặng câm làm thơ khóc tình niên thiếu
hai mươi năm qua vàng cát Nam Ô vòng lên Liên Chiểu
con sóng vẫn âm thầm vọng lời biển ru em”
(Khi Nhớ Về Ngọn Đồi Quế Sơn - BTCA)
“...khi anh vào đời em còn áo trắng
còn sân trường xưa tập nặng lòng tay
đạp xe mini theo chiều xuống phố
còn nỗi đợi chờ Lê Lợi có hay
(giờ anh về đây những ngày sống động
những ngày Nam Ô nhớ phố buồn tênh
những chân theo chân níu chiều áo lộng
tuổi mới lớn em xanh lá anh tìm
đã lạc như mây giăng giăng đầu núi
đã lạc như trường lớp cũ hồng vôi
anh giăng poncho đón ngày sống vội
mắt lớp người đi non nước ngậm ngùi)
...
gọi tên giòng sông mưa giăng đêm xuống
trắng áo miền xa trắng áo quê hương
gọi em buồn không bao mong ước muốn
chưa nói một lần, nói nhỏ anh thương...”
(Gọi Tên Dòng Sông - BTCA)
Xin đọc chậm bài thơ này:
từ em đất đá hư vô
là tôi lây lất về vu vơ tìm
trăng trầm hương ngát mùa riêng
dậy lên bàng bạc nỗi buồn... có hay
(mới lớn anh có tình này
anh mang lên núi gối ngày ba lô
anh mang theo chạy. Lần hô
“tan hàng cố gắng” thành thơ nhớ hoài)
em về Nam Ổ còn ai
Chân Mây ngó xuống biển hoài ngóng lên
Em là trăng của đôi miền
là Tiên Sa nhớ thuở biền biệt khi
là Đà Nẵng một lần đi
quan tài. đứng lại. Nhớ gì trường không
em về đâu sóng mênh mông
thời anh. đi. ở. còn trông ngóng hoài
(Đêm Nhớ - BTCA)
Quả là một bài thơ tình nhẹ nhàng nhưng bi thương. Người em tác giả nhắc đến, có lẽ là một nữ sinh trường Trung Học tại Đà Nãng, đã bất hạnh qua đời. Nàng không hẳn là người yêu của thi sĩ. Bởi vì “tôi với nàng đây không biết nhau / mà tôi thương nhớ bởi vì đâu / than ôi: ‘tự cổ bao người đẹp / chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu’” (Nguyễn Bính).
Trong bài thơ nhắc đến một số địa danh. Có thể có bạn chưa hề thấy qua, hoặc nghe đến. Tôi xin dài dòng: Chân Mây còn được gọi là mũi Chân Mây. Đây là một phần núi nhô cao trên đèo Hải Vân, nằm trên địa phận Quảng Nam. Tiên Sa nằm trong bán đảo Sơn Trà, cách Đà Nẵng khoảng 9 cây số về hướng Đông Bắc.
Bên cạnh những “Người Yêu Của Lính” (Trần Thiện Thanh), những “Em Gái Hậu Phương” (Minh Kỳ)... Người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa còn có những người để thương, để nhớ, để sẻ chia những nhọc nhằn, đau xót từ chiến cuộc. Những người này không ai khác hơn là những đồng đội, cùng kề cận những rủi may của số phận. Một viên đạn tình cờ, một tiếng nổ vô tâm, Từ “sống chuyển sang từ trần” không lường trước được. Bốn chữ “huynh đệ chi binh” đã ghi sâu trong tâm hồn mỗi người cầm súng, ngay những ngày đầu tiên bước vào quân trường. Càng gian khổ càng hiểm nguy, mối tình thanh cao này càng sáng chói. Trong vài ba bộ môn nghệ thuật, nhiều tác giả đã để lại vô số tác phẩm thực hiện theo chủ đề đáng quí này. Nguyễn Nam An cũng đã góp tay không ít. Điều đặc biệt, anh đã vẽ lại chân dung của người lính hết sức sinh động:
một năm anh đi mười hai tháng
buồn vui thầm đọng mái poncho
có những hôm nhớ nhà đứng ngó
thôi thì đâu cũng thế thôi mà
thân sơ đó làng thôn xóm lạ
đường quân hành móc móc ba lô
nón sắt nước soi mặt ngày chinh chiến
tóc ba phân che giấu cổ thụ hờ
anh vốc nước dội cho qua ngày khổ
nước xuống đầu chui qua cổ nằm im
áo ngụy trang che nỗi niềm lính mới
ngày vui ngủ vùi xao xác tiếng chim
trong đáy ba lô trong tờ thư cất
một lúc tình cờ trở lại... rồi quên!
ngó nhau muốn xa mà anh cố với
nhưng chinh chiến mà nên chịu... niềm riêng
một năm anh đi mười hai tháng...
chưa biết lùi dầu nặng Ải Trần Gian (tên sách của Phan Nhật Nam)
(Đêm Nhớ Ngày Ở Núi - BTNA)
Chuyện “rách áo” (bị thương), “đi phép dài hạn” (tử thương) là điều đương nhiên trong đời quân ngũ. Nếu không sớm hy sinh, không có người lính nào không có cơ hội khóc bạn mình. Tham chiếm vào một thời điểm sôi động nhất, Nguyễn Nam An đã phải lặp đi lặp lại những giây phút ngậm ngùi, uất hận. Từ nhiều năm sau cuộc chiến kết thúc, những dòng thơ thương tiếc vẫn nhưng nhức bồi hồi. Người đọc trân quí tình bạn ngát hương của nhà thơ. Những nối kết thâm tình đi từ thời sách vở. Ấm áp trải dài theo những cuộc chơi. Cây đàn, quả bóng, con hẻm, hiên trường, cả những bóng hồng chưa định hình nhớ nhung, cũng đã vì nhau chia xẻ. Tình bạn của những thập niên bảy mươi về trước, dường như chan chứa bao la. Mỗi sự chia lìa là một vết sướt lớn. Thơ, quả thật còn có thơ để trị liệu đôi phần:
mày chết xác không mang về được
hồn vất vưởng đâu, đất lạ Tuy Hòa
tháng của đời nhau mở những đường xa
đâu biết tuổi xanh mày tàn như lá
...
tác chiến sao mày cứ khơi khơi
như chiều học thi mang đàn hát vọng
như vỗ banh bóng rổ tàng tàng
theo nắng chiều sang sân Phan Thanh Giản
như thương người về rớt mất Tú Tài đôi!
mày chết chín năm hồn phách chơi vơi
tụi tao theo đời rẽ dăm ba nhánh
nhánh đông, nhánh tây đều mang ảo ảnh
đêm nhớ chắc đau - tơi tả những mảnh đời...
..
chiếc xe đạp chở ba qua thành phố... xa xôi
mộng gì đây - bảy thằng - nay chơi với
có còn ai về bên hàng hiên bóng tối
hương trầm giỗ người chết tuổi hai mươi
...
(Giỗ Chín Năm Mày Bạn Ấu Thời Ơi - BTCA)
Bài truy niệm còn chín câu giàu hình ảnh, ấm chân tình nữa, nhưng tôi muốn dừng trích ở đây. Ở ngay câu xót xa nhất của tuổi trẻ Việt Nam. Tôi không được quen biết những người bạn của tác giả. Nhưng qua thơ anh, tôi nhận ra đó là những người không xa lạ với tôi. Chúng tôi gần nhau trong tình huynh đệ chi binh. Chúng tôi là bạn của nhau trong những bất hạnh của dân tộc, của đất nước. Đọc thơ Nguyễn Nam An, tuy không đủ tài hoa, tôi cũng có cảm tưởng như chính mình, đã viết lên những dòng tâm sự nồng nàn hơi thở nhân sinh. Giá như được là bạn của Nguyễn Nam An thú vị biết chừng nào.
Mà không khéo tôi là bạn của anh thật. Một người bạn cùng cảnh ngộ, cùng mục kích. Hơn thế nữa, đã sống với những gì anh giới thiệu:
cái nón sắt thằng nào rớt lại
đêm về nam chân ngại đường dài
đêm về nam trăm đời ở lại
trơ trơ lòng đá núi đợi ai
đường xe đêm phố bôn ba vội
lòng phi trường hối hối gì quanh
đêm tản quân lòng quan tài nổi
đất mù sương che uất hận đành
trên độ cao mắt đêm nhìn xuống
chất ưu phiền trăm nỗi ba lô
lính về quê trong quan tài sắt
đứa toàn thân hướng trận mạc hờ
thôi chào em tháng ba mưa nắng
đất lòng tay ruộng rẫy mìn chông
đêm pháo động vỡ lòng phố cũ
vỡ lòng ngày phía trước trông mong
chiếc nón sắt bạn bè sót lại
gối đường xa oan trái quê hương
trên tuyến cuối chiều lao xao núi
anh vội vàng phút cuối nhìn thương
khi áo xưa nắng ngày dài tắt
lòng phi cơ trăm mắt phương nam
em yêu dấu phố quen ngày hiu hắt
tháng ba lệ tràn màu cờ đỏ. tan hoang!
(Tháng Ba Nhìn Phía Trước Tan Hoang - BTCA)
Hình ảnh vẽ lại một “Tháng Ba Gãy Súng” của nhà văn Cao Xuân Huy đã mở ra chặng tình thứ ba của Nguyễn Nam An. Trong chặng đường này, thơ đến với tác giả TiCi phong phú nhất. Tâm sự của một người tị nạn, như là một loại hương vị, ướp vào từng cảnh sống. Từ cô đơn lạc lõng đến hội nhập, nẩy mầm. Từng ngày từng ngày đổi thay theo nhịp thở vội. Trong cái vô vàn khó khăn của một cuộc đổi đời, ý chí và niềm hy vọng, là cái phao chính đã giúp chúng ta đến được cõi tự do. Khi sự sinh tồn đã không còn là nỗi lo chính. Tự ái bẩm sinh và tự hào dân tộc, đã đẩy mỗi một lưu dân đến giai đoạn hoạt động, cầu tiến. “Đường đi không khó” nhưng chẳng thể nào dễ dàng lẫn lách những đắng cay.
“... ta đi chốn cũ không người nhớ
cuối một đường xa đất lạ tên
cuối một chiều hoang lơ ngơ phố
cuối một nỗi buồn lại có thêm”
(Ta Đi - TiCi)
“đâu chỗ đi về mùa trăng tháng sáu
không chỗ đi về tôi ngủ đậu phố xa
‘rồi cũng là ta một thằng lạc xứ’
ngày bôn ba đứng thở khói chiều qua...”
(Đứng Lặng Giữa Bao La - TiCi)
“... anh đã biết áo cơm từ thân nợ
vẫn buồn thầm khi đứng ngó lơ ngơ...”
(Thơ Ở Fremont CA - Tici)
Tuy thế những khó-khăn-nhất-định rồi cũng qua đi. Và khi đời sống vật chất ổn định, tức thì lộ ra những trống vắng, nhớ nhung. Trong y học đông phương, tĩnh tọa, hít thở là một phương pháp tốt để ổn định tinh thần. Làm thơ cũng là một động tác hít thở. Nguyễn Nam An đã chọn phương cách này. Thơ đã cùng Nguyễn Nam An hồng hào từng ngày. Anh viết mạnh, phổ biến nhiều. Với tâm hồn mênh mang thi ca, cộng với tài năng Nguyễn Nam An đã đến với người yêu thơ, đến với gia đình văn hóa nghệ thuật bằng những tác phẩm có tầm vóc. Thơ anh trở nên giàu có những lạc quan. Anh lại có dịp nói về quê quán của mình hết sức tế nhị:
“thưa rằng quê quán Quảng Nam
vốn dân Đà Nẵng - vô vàn cãi nhau
nhưng mà cuộc đất nương dâu
đi vẫn nhớ dẫu nát nhầu tang thương
và thưa phố thị con đường
quán quê giờ vẫn chút buồn đó em”
Anh cũng không quên khoe cái tôi. Nhưng chẳng có ai có thể chê trách anh, khi đọc những dòng thật khéo léo, đầy ắp những hãnh diện về cái chất Quảng Nam Đà Nẵng của mình:
“em gọi làm vui anh Đà Nẵng
thôi thì cho đổi lại thành thằng
thằng Đà Nẵng những khi đời đắng
nở rồi tan bong bóng nước chiều mưa
bây giờ đi chưa quên chi rứa
răng mô tê nhiều ở môi xưa
anh Đà Nẵng một chân Đà Nẵng
còn chân kia móc đại qua đèo
hay xuôi nam về quê xanh biếc
trọ trẹ mình bè bạn ngơ ra
ngày ở lính quê nhà không thấy
giọng nghe ra quá xá Sài Gòn
nhưng đà nẵng một hai thằng Đà Nẵng”
Ngay đến việc làm thơ, nhịp thở hệ trọng của anh, cũng được nhìn ngắm, và tự đánh giá rất nhẹ nhàng:
“ngồi viết ‘procedures’
ngồi ‘generate specifications’
không vui bằng ngồi làm thơ
làm thơ nhớ tóc em thơm hương bồ kết
làm thơ đỡ mệt hơn ngồi ‘design’
đỡ bâng khuâng hơn khi nhìn thư ký
trước ngực áo không đủ vải
chết bao thằng !...”
(Có Những Ngày Khi Ở Đây Nhớ Đó - TiCi)
hay:
“buồn buồn tôi viết thơ chơi
ở trên tờ báo đất trời quắt quay
hình như em cũng như ngày
đôi khi mưa nắng quay tôi vòng vòng...”
(Quay Quay Giữa Đời - TiCi)
Uống, viết và thương nhớ trở thành những thói quen, những nhu cầu, đôi khi người làm thơ huyênh hoang, nhưng không làm phiền lòng ai:
“9:00 giờ vua xỉn rưng rưng
nhà thuê vắng quá nên lừng khừng say
10:00 giờ vua viết mỏi tay
bài thơ gởi lại những ngày dấu yêu
‘em cho anh bay như diều
thả cao đừng cắt giữa chiều gió lên’
đêm nay vua nhớ vua quên
nhìn quanh vẫn một mình thêm nỗi buồn”
(Thơ Gởi Về ữĐâu - BTCA)
Trong tháng ngày tha phương không vì cầu thực, lại được sống giữa thủ đô của người tị nạn, việc giải trí thích thú nhất của những người dan díu với văn chương là ngồi quán. Nhâm nhi cà phê. Tán dóc chuyện bao đồng vô thưởng vô phạt, vòng vòng trong thế giới cầm bút, hát hò quả là một cái thú. Factory, Bistro có vẻ như là căn cứ địa, của những vị hữu-danh-vô-chức-nghiệp, khắp cả thế giới. Hình như chẳng tay cầm bút nào đến thăm quận Cam Cali mà không ghé, hoặc được kéo đến đây. Một ông khách đến từ Canada đã mô tả nhân dạng đám ham chơi này “... mỗi thằng thòng một nhúm râu / thằng để, thằng cạo hơn nhau điểm nào? / nhìn chung một đám tào lao / viết hay nói cũng tầm phào quanh năm.../ cà phê từng ngụm lai rai / cái ngon ở chỗ cụng vai nói cười”. Trong khi đó, đương nhiên, chủ nhà Nguyễn Nam An, giới thiệu cái chỗ ngồi của anh em tinh tế và linh động hơn:
ngồi quán vào đây coi như kẹt
đường ra khó lắm Factory
một dãy anh hùng hào kiệt dữ
cộng thuốc lá bay hít nghe đừ
em ở tây qua: đây mỹ quốc
bên này ngồi hỏi: quận mười ba
thuở ấy anh đi tây đâu lạ
tới mé sông Seine vì câu ca
lội xuống và nhúng tay vào nước
chẳng động lòng
như ngó sông quê nhà
em ở tây qua coi bộ lạ
hàng quán thăm hoài thấy vui không
ngồi thêm tiếng nữa nơi đây quán
chụp hình rồi chút xíu lông bông
qua con phố thấy toàn đen tóc
xe chạy tỉnh bơ như quê nhà
trời ơi trái phải đều quẹo tỉnh
nhường
[không có trong tự điển]
đừng la!
ngồi quán, ai kia kêu ơi ới
bút hiệu, đều tên thuở làm vui
viết đại câu thơ trời đất hỡi
đụng ai ráng chịu, không đụng thôi
mà nếu đụng thì hỏi trời sao lạ
(Ngồi Quán)
Còn quá nhiều điều đáng nói trong những thi phẩm của tác giả truyện ngắn Tiểu Triệu Minh. Nhưng sự sa đà của tôi cũng đã đến giờ phải biết dừng lại. Một cái kết hoàn hảo cho bài viết về thơ Nguyễn Nam An chợt như làm khó tôi. Không được mời viết lời vào tập, nên khó bắt chước nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, mượn lời danh sĩ Cao Bá Quát để kết luận thật tế nhị, thật văn học.
“Cái chuyện thơ, nói thật là khó vậy” sao tôi lại làm khổ tôi làm gì? Nguyễn Nam An đâu có cầu, đâu có ép. Nhưng ngẫm nghĩ cho kỹ, tôi có khổ chút xíu nào đâu. Được đoc thơ hay, được tự do nói ba hoa, chẳng là cái thú tuyệt vời nhất hay sao? Có đọc mới biết cái ngộ nghĩnh khác lạ trong lối viết thơ có vần của Nguyễn Nam An: “... những gì buồn, bỏ theo mây / những gì vui, có ngón tay gọi về...”. Có đọc mới thấy cách sắp chữ rất mới, trong những hình ảnh khá cũ “khi hiu hắt buồn hoài sợi tóc mai... hoài con sông già khô nước buồn đêm”. Có đọc mới gặp nhiều hình ảnh biết nói lời tâm sự “xe lên núi em chia lìa / xuống bình nguyên kiếm tình khuya ngủ rồi / trạm xăng thôi nghỉ nhì trời / trạm đời tôi thắp nụ cười thuốc đêm”
Và cuối cùng, có đọc mới thấm cái... mệt. Chi bằng trích thêm một bài cho ăn chắc. Cảm ơn Nguyễn Nam An. Tôi trở thành bạn của anh đấy nhé. Bài thơ trích có tên Ngó Ở Cà Phê Lú, gồm hai đoạn:
1
nỗi buồn đã chẳng giống ai
mày giờ thất nghiệp nằm dài ngó con
résumé chữ méo còn
chữ mờ chức phận chữ mòn công danh
bần thần lên net dạo quanh
xuống ra ngoài quán Lú anh em cùng: ngó!
nỗi buồn đã chẳng giống ai
mày giờ thất nghiệp nằm dài ngó con
résumé chữ méo còn
chữ mờ chức phận chữ mòn công danh
bần thần lên net dạo quanh
xuống ra ngoài quán Lú anh em cùng: ngó!
2
trưa tôi ngồi trong cầu tiêu của một hãng
cầm schematic của thằng mới bị đuổi sở
chợt nghĩ đến nó giờ đang nằm co
mà nhớ đến cái mặt thằng chủ hãng tò mò nhìn tôi sáng nay, trong lab
hình như nó cười mà thằng bị đuổi trước lễ Lao Động đang mếu
tôi cần làm xong design của thằng xấu số nếu
tôi còn làm ở đây!
trưa tôi ngồi trong cầu tiêu của một hãng
cầm schematic của thằng mới bị đuổi sở
chợt nghĩ đến nó giờ đang nằm co
mà nhớ đến cái mặt thằng chủ hãng tò mò nhìn tôi sáng nay, trong lab
hình như nó cười mà thằng bị đuổi trước lễ Lao Động đang mếu
tôi cần làm xong design của thằng xấu số nếu
tôi còn làm ở đây!
sau ngày lễ tình cờ tôi viết được bài thơ không có trời mây
giấc mơ Mỹ Quốc nụ cười kim chích
bài thơ trong cầu mặt sau trang giấy của schematic
thằng vừa bị đuổi đã làm tối tăm mặt mũi những ngày với hai tay
nào ngờ một hôm bị chúng nó đẩy bay
không dấu hiệu một giờ trước đấy
đây tờ giấy
you’re gone.
giấc mơ Mỹ Quốc nụ cười kim chích
bài thơ trong cầu mặt sau trang giấy của schematic
thằng vừa bị đuổi đã làm tối tăm mặt mũi những ngày với hai tay
nào ngờ một hôm bị chúng nó đẩy bay
không dấu hiệu một giờ trước đấy
đây tờ giấy
you’re gone.
Hà Khánh Quân
13-5-2010