Ngày 21 Tháng Sáu, 2022, hạ chí, ngày mặt trời hiện diện trên bầu trời dài nhất trong năm ở Bắc Bán Cầu, báo hiệu lúc chuyển mùa. Hè về!

Hoa nắng. (Hình minh họa: Gerd Altmann/Pixabay)
Chẳng thế mà trong “Ngày Hạ Chí” của Trần Mộng Tú, những con chữ hớn hở reo vui:
“ngày hạ chí như có ngàn nến thắp
soi buổi chiều trong suốt hồn em
anh đứng đó như mặt trời không tắt
tự nhóm than nung đỏ đời mình”
soi buổi chiều trong suốt hồn em
anh đứng đó như mặt trời không tắt
tự nhóm than nung đỏ đời mình”
Nhà thơ chào mặt trời, chào nắng và chào… người tình từ xa trở về. “Anh” là mặt trời, là nắng. Cả hai tự “nung đỏ đời mình” trong tình yêu ngay vào ngày đầu tiên, và có lẽ đi xuyên suốt hết, của mùa Hè… 2006.
Hè chan hòa nắng. Tia nắng, sợi nắng, ánh nắng, hoa nắng, làn nắng, màu nắng, nắng vàng, nắng tươi, nắng hồng, nắng ửng, nắng cựa, nắng xôn xao, nắng rung, nắng sáng, nắng lóa, nắng trong, nắng vui… Hình ảnh nắng Hè vốn cũng đã đi vào thi ca tiền chiến.
“Hè” của Đoàn Văn Cừ là một bức tranh vui:
“Trưa hè nắng rọi vàng hoe
Nhà tranh khói bám, cổng tre gió lùa
Tàu cau xanh dưới trời lơ
Ngọn rơm vàng ánh gương hồ long lanh
Nhà tranh khói bám, cổng tre gió lùa
Tàu cau xanh dưới trời lơ
Ngọn rơm vàng ánh gương hồ long lanh
Nước mưa trong, nước chum sành
Vườn cây lủng liểng bòng xanh, ổi hồng
(…) Trưa ngồi nghỉ bóng đa xanh
Sớm ra chợ đón gặt quanh các làng
Vườn cây lủng liểng bòng xanh, ổi hồng
(…) Trưa ngồi nghỉ bóng đa xanh
Sớm ra chợ đón gặt quanh các làng
Đêm thanh đập lúa, trăng vàng
Nến sao thắp trắng trên màn trời xanh”
Nến sao thắp trắng trên màn trời xanh”
Hè, với nhà thơ này, ngày nắng đẹp, đêm trăng thanh. Trưa Hè đã vui nhộn, êm đềm, thì “Trăng Hè,” lại càng êm đềm hơn: từ con chó ngủ lơ mơ đến bóng cây bên hàng dậu; từ ông lão nằm giữa sân đến thằng cu đứng bên thành chõng, từ con mèo quyện dưới chân đến mấy cô gái gánh nước đêm, tất cả tạo thành một cảnh làng quê thanh bình, nhàn nhã:
“Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa,
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ,
Bóng cây lơi lả bên hàng giậu,
Đêm vắng, người im, cảnh lặng tờ.
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ,
Bóng cây lơi lả bên hàng giậu,
Đêm vắng, người im, cảnh lặng tờ.
Ông lão nằm chơi ở giữa sân,
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân.
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng,
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân.
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng,
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đàn vui vẻ rủ nhau về,
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước,
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.”
Từng đàn vui vẻ rủ nhau về,
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước,
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.”
Nhưng, khác với thứ nắng và trăng đáng yêu của nhà thơ họ Đoàn, nắng của Anh Thơ và Bàng Bá Lân đồng nghĩa với nóng. Cả hai nhà thơ này đều mô tả “Trưa Hè” bằng những hình ảnh tiêu cực. Trước hết là Anh Thơ:
“Trời trong biếc không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
Trong thôn vắng, tiếng gà xao xác gáy
Các bà già đưa võng hát, thiu thiu…
Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy
Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu.”
Các bà già đưa võng hát, thiu thiu…
Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy
Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu.”
Không thấy nắng, chỉ thấy nóng. Dù khéo giấu, nhưng rõ ràng, nhà thơ không mặn mà gì với nắng (trưa) Hè: lơ đãng, xao xác, thiu thiu, buồn lê, rời rạc. Cái gì trông cũng phờ phạc, mệt nhọc, chán nản, lười biếng. Không kém gì Anh Thơ, “Trưa Hè” của Bàng Bá Lân, từ cái quán cũ, cánh diều cho đến chim chóc, cây trái và người đều rã rời, buồn bã:
“Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm…
Đứng lặng trong mây một cánh diều.
Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm…
Đứng lặng trong mây một cánh diều.
Cành thưa, nắng tưới, chim không đứng
Quả chín bâng khuâng rụng trước hè
Vài cô về chợ buông quang thúng
Sửa lại vành khăn dưới bóng tre.
Quả chín bâng khuâng rụng trước hè
Vài cô về chợ buông quang thúng
Sửa lại vành khăn dưới bóng tre.
Thời gian dừng bước trên đồng vắng
Lá ngập ngừng sa nhẹ lướt ao
Như mơ đường khói lên trời nắng
Trường học làng kia tiếng trống vào.”
Lá ngập ngừng sa nhẹ lướt ao
Như mơ đường khói lên trời nắng
Trường học làng kia tiếng trống vào.”
Nếu những nhà thơ bày tỏ tình cảm của mình chỉ bằng chữ, thì ở một lãnh vực nghệ thuật khác, âm nhạc, Hùng Lân pha âm thanh vào chữ. Cũng như Đoàn Văn Cừ, người nhạc sĩ này yêu nắng Hè. Chả thế mà, giai điệu vui nhộn, phấn khởi của ca khúc “Hè Về” đã gieo một không khí rộn ràng, lạc quan, yêu đời vào ký ức của hàng bao nhiêu thế hệ học sinh miền Nam ngày trước và tiếp tục kéo dài đến bây giờ.
Câu hát khởi đầu “Trời hồng hồng sáng trong trong” vang vang trên đài phát thanh hồi đó nghe như khúc “điểm mùa,” báo hiệu những ngày nắng Hè rực rỡ. Nếu đọc kỹ lời ca, ta thấy hiếm có ai ca ngợi nắng Hè một cách dồi dào và hào phóng bằng nhạc sĩ Hùng Lân qua một ngôn ngữ khá trau chuốt và đẹp, đẹp hơn cả… thơ! Hùng Lân vừa viết nhạc, vừa làm thơ và vừa vẽ. “Hè về” là một bức tranh rạng rỡ, chứa chan hiện thực với cách dùng chữ gây nhiều ấn tượng: phượng “rung” nắng, gió “lọc” màu mây, cánh chim “đo” bầu trời, lúa vàng “leo” dốc đồi, hương sen “ướp” gió:
“Trời hồng hồng sáng trong trong
Ngàn phượng rung nắng ngoài song
Cành mềm mềm gió ru êm
lọc màu mây bích
ngọc qua mầu duyên
(…) Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng
đàn chim cánh do trời
Phân vân đôi mái chèo lữ thứ
thuyền ai biếng trôi
Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng
leo dốc chân đồi
Thanh thanh hương sen nồng
ướp gió trắng khi chiều rơi”
Ngàn phượng rung nắng ngoài song
Cành mềm mềm gió ru êm
lọc màu mây bích
ngọc qua mầu duyên
(…) Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng
đàn chim cánh do trời
Phân vân đôi mái chèo lữ thứ
thuyền ai biếng trôi
Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng
leo dốc chân đồi
Thanh thanh hương sen nồng
ướp gió trắng khi chiều rơi”
Chắc không mấy ai lưu ý đến một chữ khá lạ trong ca khúc này: “trắng.” Tôi không rõ tác giả muốn nói cái gì trắng? Hương sen hay gió hay nắng hay buổi chiều, hay là tất cả tổng hợp lại?
Sau này, một nhạc sĩ khác, Trịnh Công Sơn, chính thức gọi mùa Hè là “Hạ Trắng.” Nắng làm trắng cả mùa Hè và Hè làm trắng cả mùa nắng. Trong thơ Trần Mộng Tú, nắng là “Anh” thì ở Trịnh Công Sơn, nắng là Em. Ông lên tiếng da diết gọi nắng và gọi em suốt cả mùa Hè:
“Gọi nắng!
Trên vai em gầy
Đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn
Lòng hoa bướm say
Lối em đi về
Trời không có mây
Đường đi suốt mùa
Nắng lên thắp đầy
Gọi nắng!
Cho cơn mê chiều
Nhiều hoa trắng bay
Cho tay em dài
Gầy thêm nắng mai
Bước chân em về
Nào anh có hay
Gọi tên cho nắng
Chết trên sông dài”
Trên vai em gầy
Đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn
Lòng hoa bướm say
Lối em đi về
Trời không có mây
Đường đi suốt mùa
Nắng lên thắp đầy
Gọi nắng!
Cho cơn mê chiều
Nhiều hoa trắng bay
Cho tay em dài
Gầy thêm nắng mai
Bước chân em về
Nào anh có hay
Gọi tên cho nắng
Chết trên sông dài”
Nắng Hè ấy thế mà khác nhau. Nắng Trần Mộng Tú nồng nàn; nắng Hùng Lân khỏe khoắn, tự tin, yêu đời, thứ nắng của đất trời vạn vật, hồn nhiên, vô tư và là “nắng thật;” còn nắng của Trịnh Công Sơn bâng khuâng, lãng đãng, chập chờn y như “nắng giả,” thứ nắng chỉ quấn quýt theo một hình bóng: nắng đậu trên vai gầy, nắng đuổi theo tà áo, nắng len qua mắt, nắng thắp đường đi, nắng rơi trên tay và nắng lịm chết trên sông dài. Trịnh Công Sơn còn có một thứ nắng khác, không phải nắng Hè, mà là nắng thu: nắng thủy tinh. Rốt cuộc, nắng nào, với ông, cũng chỉ là người tình.
Khác với tất cả những nhà thơ và nhạc sĩ trên, Tô Thùy Yên đến với mùa Hè bằng những hình ảnh khác, thấm đẫm cuộc nhân sinh. Qua “Vườn Hạ,” ông mô tả buổi trưa Hè bằng một thứ ngôn ngữ tân kỳ:
“Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh
Ngoài quãng chói chang hư ảo múa
Dường như ai gọi ấu danh anh
Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc
Đất ẩm vương hương, cỏ trở màu”
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh
Ngoài quãng chói chang hư ảo múa
Dường như ai gọi ấu danh anh
Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc
Đất ẩm vương hương, cỏ trở màu”
Thì cũng nắng và nóng trưa đó thôi, nhưng cách diễn đạt khiến cho ta cảm thấy bỡ ngỡ, y như được sống trong một khung cảnh xa lạ. “Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh!” Một câu thơ đẹp cả lời lẫn ý. Mùa Hạ, với ông, là dịp đánh thức trong lòng những ký ức xa xôi thời còn trẻ dại. Suốt cả bài thơ là nỗi nhớ về những “hồn mùa cũ đọng xanh xao,” về “u minh ngày tháng, bóng lao đao:” cơn mưa, chú dế, con chó, tiếng ve, khúc hát, tiếng mõ… Cuối cùng, tất cả đều là nỗi tiếc nuối mênh mông:
“Em có tìm không mùa hạ trước?
Chiếc vành xưa đánh lạc về đâu?
Đám tranh thuở ấy cao là vậy
Vành lạc, chân không, ngại bước vào…”
Chiếc vành xưa đánh lạc về đâu?
Đám tranh thuở ấy cao là vậy
Vành lạc, chân không, ngại bước vào…”
Có thể có người không biết “chiếc vành” mà Tô Thùy Yên mô tả. Đó là một đồ chơi tự chế đơn giản làm bằng một thanh tre vót đều uốn thành một cái vành rồi cột hai đầu lại với nhau trông giống như bánh xe; trẻ con sử dụng một thanh tre khác, đẩy chiếc vành chạy quanh bằng cách cho nó tựa vào một sợi thép uốn thành hình chữ U cột ở phía đầu kia của thanh tre. Chiếc vành là hình ảnh sống động của tuổi thơ.
Đó là một mùa Hè bình thường. Tô Thùy Yên còn có một mùa Hè hết sức khác thường: Mùa hạn. Đó là tựa đề của một bài thơ làm ở trong nhà tù. Trong cơn hạn, nắng và nóng tịch thu hết cả sinh khí đất trời.
“Nắng kim khí chảy, đá rạn nứt
Gió táp, rừng khô rụm, cát tràn”
Gió táp, rừng khô rụm, cát tràn”
“Sông hồ nẻ đáy, giếng vô vọng”
“Côn trùng kiệt sức lìa hang ổ”
“Cây đa râu tóc già thiên cổ
Trụi lá, trơ cành, xương nám đen”
Trụi lá, trơ cành, xương nám đen”
Tất cả, không còn gì, chỉ là cõi Chết! Mùa hạn của trời đất mà cũng là mùa hạn nhân sinh, hạn đổi đời, hạn thịnh suy, hạn thay ngôi đổi chủ. Dẫu vậy, những tù nhân vẫn không nguôi mơ ước. Mơ về “miền xanh bóng cây,” “nước giếng khơi,” “suối thần tiên,” “bóng chim huyền diệu,” “cụm mây hư ảo,” “trận gió thênh thang”… với tấm lòng bao la của những người không xem hận thù là dưỡng chất trần gian:
“Những ai hôm trước từng gây tội
Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình
Tự tại, thời gian chôn chính nó
Đời lên lại mãi tựa bình minh.”
Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình
Tự tại, thời gian chôn chính nó
Đời lên lại mãi tựa bình minh.”
Trần Doãn Nho/Người Việt