
1.
Hôm nay thời tiết đã vào mùa đông và lòng người cũng như ảnh hưởng theo. Chúng ta lại có thêm một Giáng Sinh ở xứ người và hình như bất cứ ai trong chúng ta đều có những nỗi niềm riêng tư, những kỷ niệm không quên về thời điểm ấy. Từ quê nhà sang đến xứ người, trong tâm tư dồn chứa bao nhiêu điều tích lũy, có khi muốn nói mà chưa diễn tả hết. Cũng may, chúng ta còn có những nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ, cảm chung nỗi niềm và dùng nốt nhạc, câu thơ, lời văn để chia sẻ với chúng ta. Giở những trang sách, nghe lại những băng nhạc để thấy những dòng nhạc, những bài thơ, những truyện ngắn và tác giả của nó qua chủ đề Giáng Sinh.
Đối với tín đồ Thiên Chúa giáo, ngày Giáng Sinh có ý nghĩa thiêng liêng lắm. Nhưng còn người theo đạo ông bà như phần đông người Việt Nam thì ra sao? có cảm nghĩ gì về ngày lễ Noël Thiên Chúa ra đời?
Với đại đa số dân chúng, lễ Giáng Sinh được coi như một ngày lễ lớn của dân tộc và đó là một nét văn hóa đẹp của chúng ta. Ngày lễ Noël như một ngày lễ của tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Trong sinh hoạt xã hội và cả sinh hoạt về văn học, ngày lễ ấy có một vị trí rất quan trọng. Mặc dù Thiên Chúa Giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 19 cho tới nay, nhưng lễ Giáng Sinh đã trở thành một ngày lễ nhân gian của cả nước. Và riêng tôi, có ý nghĩ rằng tôn giáo nào cũng tốt cũng dạy người ta làm việc thiện nên những ngày lễ là những ngày nhắc nhở tất cả mọi người đi trên con đường tu thân tu tập ấy...
Thời điểm này là thời điểm của nhạc Giáng Sinh. Ở khắp nơi đều vang vang những bản nhạc quen thuộc. Nghe nhạc, biết là mùa Giáng Sinh về.
Về nhạc ngoại quốc hay thánh ca Giáng sinh quen thuộc với ngưới Việt Nam thì White Christmas, Holy Nights, Santa Claus Is Coming To Town, Jingle Bells, Feliz Navidad, The Little Drummer Boy, Ave Maria,… Còn nhạc Việt thì nhiều lắm, nào Đêm Thánh Vô Cùng, Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời, Mùa Sao Sáng, Chiều Bên Giáo Đường, Kinh Chiều, Bài Thánh Ca Buồn, Tà Áo Đêm Noël,.. Còn nhạc phổ từ thơ thì Tha La Xóm Đạo, Mimosa Thôi Nở, Nguyện Cầu, Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím,..
Chúng ta thấy không khí của Giáng Sinh trong ngần ấy những bài hát không? Trên truyền hình, trên đài phát thanh, trên những chương trình DVD, CD,.. hay trong quán cà phê, trong các thương xá, mọi nơi mọi chỗ, không khí Giáng Sinh tràn đầy trong những dòng nhạc ấy.
Và trong những bài thơ, có biết bao nhiêu thi sĩ đã nhân ngày lễ này để viết lên tâm sự của mình. nhưng, phải kể đầu tiên đến thơ Hàn Mặc Tử.
Ông là một thi sĩ lớn của thi ca Việt Nam. Ông làm thơ bằng cả cuộc đời đau đớn của mình, bằng bệnh tật ác nghiệt phong cùi giày vò thể xác ông. Mỗi mùa trăng là mỗi lần ông bị chết điếng trong đau đớn khi vi trùng Hansen đục khoét trong xương tủy. Thơ của ông kết tinh từ những cảm giác ấy, từ những nỗi bất hạnh tột cùng của thể xác tận tâm hồn. Thơ của ông là:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
mỗi lời thơ đều dính não cân ta
bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
như mê man chết điếng cả làn da
cứ để ta mênh mang trong vũng huyết…”
Ông mất khi 28 tuổi sau chuỗi ngày bệnh tật đau đớn. Mộ của ông được chôn ở nghĩa trang Quy Hòa chỉ cách trại cùi có hơn 200 thước và sau được gia đình với sự phụ giúp của nhà thơ Quách Tấn đem cải táng tại bãi biển Ghềnh Ráng gần tỉnh Quy Nhơn. Mộ của ông được coi như một thắng cảnh trong vùng và được nhắc nhiều đến trong văn chương và âm nhạc. Linh Mục Trần Quý Thiện đã mô tả như sau:
“Mộ phần Hàn Mặc Tử được kiến trúc hình chữ nhật. Trước mộ là một cây thánh giá lớn bằng xi măng cao 0m50. Trên đầu bia mộ là tượng Đức Mẹ Maria hai tay dang rộng mắt nhìn xuống mộ vì trước khi chết Hàn Mặc Tử ước mong được một lần trong đời đến kính viếng Đức Mẹ tại thánh địa La Vang Quảng Trị nhưng không thực hiện được. Bước lên ba bậc tam cấp hiện nay du khách có thể nhìn thấy trên tấm bia mộ ghi rõ tên thánh, họ và tên nhà thơ, ngày sinh và ngày tử cùng tên cha mẹ và anh chị em lập bia mộ. Năm 1991, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (tức ca sĩ Nhật Trường người viết bản nhạc Hàn Mặc Tử) cùng một số anh chị em nghệ sĩ trong nước đã bảo trợ kinh phí để ban Giám Đốc trại phong cùi Quy Hòa xây một đài tưởng niệm nơi nhà thơ được an táng đầu tiên tại Khe Nước Ngọc, nghĩa trang Quy Hòa và một nhà Lưu Niệm Hàn Mặc Tử cũng được thiết lập ngay tại địa điểm mà nhà thơ trút hơi thở cuối đời.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận định về Hàn Mặc Tử trong bộ Nhà Văn Hiện Đại như sau:
“Hàn Mặc Tử có lẽ là người Việt Nam đầu tiên làm thơ ca ngợi Thánh Nữ Đồng Trinh Maria và Chúa Giêsu. Ông ca tụng đạo Thiên Chúa với một giọng rất chân thành. Đây là lần đầu tiên thi ca Việt Nam thấy được một nguồn cảm hứng mới. Tôi dám chắc rồi đây sẽ còn nhiều thi sĩ Việt Nam đi tìm nguồn cảm hứng trong đạo giáo và đưa thi ca Việt Nam vào con đường triết học”.
Chúng ta không thể nào quên khi nói đến Hàn Mặc Tử mà không nhắc đến bài thơ Ave Maria. Thi sĩ đã làm thơ với lời chào mừng trân trọng cung kính Mẹ Maria, người nữ tuyệt vời thánh thiện. Cái buốt đau của thân thể khi cầm bút với những ngón tay co quắp rút lại vì bệnh đã làm cho thi sĩ như xuất thần để quên đi thực tại và đắm mình trong một niềm tin tôn giáo vô biên.
Như sóng lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và Tổng Lãnh Thiên Thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Gương xông lên lời ca ngợi sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh
Maria! linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thanh vẹn
Giàu nhân đức giàu muôn lộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
Giọng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi ướp bao nhiêu là khi vị
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang...”
Nếu nói Hàn Mặc Tử là một nhà thơ Công giáo, liệu nhận định ấy có chính xác không? Có người đã đặt câu hỏi ấy.
Đã có một nhận định khá chính xác tương tự như vậy: “Với Hàn Mặc Tử, thơ là một nét nghệ thuật cao độ đi vào chủ nghĩa siêu linh, là cõi xuất thế, là bến trăng sao an toàn cho con người ẩn náu khi sống trong tuyệt vọng khổ đau trong cô đơn của của nhân tình thế thái. Không ai có thể phủ nhận nét Công giáo trong thơ Hàn Mặc Tử vì chính ông đã mở rộng biên giới thi ca Việt nam bằng những sáng tạo độc đáo mà nền giáo dục Công giáo từ cha mẹ, gia đình, trường Pellerin và gương sống các nữ tu Phan Sinh đã hun đúc hồn thơ của ông. Trong những ngày cuối đời, ông đã sống như một nhà tu thực sự, cuộc sống chìm lặng trong câu kinh, lời nguyện pha lẫn với những đớn đau do bệnh phong hành hạ. Chính nhà thơ đã thổ lộ: ”Trong những ngày cuối đời, tôi chỉ biết ngâm thơ và cầu nguyện mà thôi…”
* * *
Thơ Giáng Sinh mà lãng mạn trẻ trung nhất phải kể đến nhà thơ Nhất Tuấn và Truyện Chúng Mình. Năm nay kinh tế suy trầm, chắc cũng phải cảm giác nhẹ nhàng như vậy để quên đi những lo lắng mệt mỏi cuối năm. Ngày trước 1975, Nhất Tuấn là một nhà thơ mặc dù là quân nhân nhưng làm thơ trẻ trung mùi mẫn nhất và cũng được phổ nhạc bay bướm nhất.
Nhà thơ Nhất Tuấn và tập thơ Truyện Chúng Mình có những bài thơ được phổ nhạc: “Chúa Nhật Này Trẫm Nhớ Ái Khanh Không?”, Nguyễn Đức Quang phổ nhạc, ”Con Quỳ Lạy Chúa Trên Trời” Phạm Duy phổ bài thơ Cầu Nguyện "Mimosa Thôi Nở” Đan Thọ phổ nhạc ”Xin Trả Lại Em” Hoàng Lang phổ nhạc, ”Hoa Học Trò”, “Niềm Tin” Anh Bằng phổ nhạc… Tổng cộng có hơn 40 bài thơ được phổ nhạc trong thời gian từ 1959 đến bây giờ… ông là một sĩ quan cấp Tá tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt, làm Quản Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội. Nhưng thơ của ông được giới trẻ ưa thích vì có những tâm tình ngôn ngữ trẻ trung thơ mộng giống họ. Tập thơ Truyện Chúng Mình gồm 5 tập và được coi là một tập thơ có nhiều độc giả nhất. Truyện Chúng Mình kể về chuyện đôi lứa. Nhưng cũng có nhiều bài thơ về Giáng Sinh và lại được phổ nhạc nữa.
Trong cái không khí lạnh lẽo của mùa đông, nghe bản nhạc phổ thơ Nhất Tuấn do nhạc sĩ Đan Thọ: ”Mimosa Thôi Nở” làm cho người ta hay nghĩ về quá khứ. Có chút tình tứ lãng mạn dù hơi buồn một chút vì “tình chan chứa” mà … “mộng không thành”!
Trong Truyện Chúng Mình có bài Mimosa Thôi Nở với những câu:
“Noël xưa anh nhớ
khi hãy còn yêu nhau
nhà thờ nơi cuối phố
thấp thoáng sau ngàn dâu
anh chờ em đi lễ
chung dâng lời nguyện cầu
Mimosa bừng nở
đẹp như tình ban đầu
Đà Lạt mờ trăng lạnh
Đường về ta bước mau...”
Cùng nhau đi lễ Noël, hỏi nhau về ước vọng xưa sau. Em nắm tay anh và hồng đôi má. Sao tình tứ quá. Nhưng…Kết cuộc bài thơ đích thị là một chuyện buồn bã dở dang:
“mới bốn mùa thu qua
Mimosa vẫn nở
sao mối tình đôi ta
ai làm cho dang dở
đêm này Noël đây
chuông nhà thờ khắc khoải
gió đồi lang thang bay
mưa buồn giăng ngõ tối
anh quỳ bên tượng Chúa
cúi đầu chắp hai tay
lạy chúa con chờ đợi
người ngày xưa về đây
nhưng em không về nữa
đường khuya mưa bay bay
Mimosa thôi nở
Trong hồn anh đêm nay.
Nhạc sĩ Đan Thọ phổ bài thơ này thành nhạc làm bao nhiêu con tim thanh xuân nhức nhối. Một bản nhạc khác từ bài thơ ”Con Quỳ Lạy Chúa Trên Trời“ mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thì cũng hay không kém.
Bài thơ lục bát “Cầu Nguyện“, bài thơ đầu của tập thơ Truyện Chúng Mình tập 1, được chuyển thể cũng lãng mạn tình tứ không thua “Mimosa Thôi Nở”...
Bài thơ ấy nguyên văn như sau với một câu chuyện kể lại bằng thơ, rất mộc mạc nhưng lại gần gũi với cuộc đời thường. Cũng là chuyện một chàng trai quỳ bên tượng Chúa cầu nguyện cho có được giai nhân cùng mình chung sống đến cuối đời. Nhưng lại là cuộc chia phôi. Vì người tình đã bỏ đi. Thơ man mác, tuy chỉ buồn thôi và vắng giọt nước mắt. Thơ nén trong tim những nỗi buồn bằng ngôn ngữ đơn sơ...
“Con quỳ lạy Chúa trên trời
để cho con thấy được người con yêu
đời con đau khổ đã nhiều
kể từ thơ dại đủ điều đắng cay
số nghèo hai chục năm nay
xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
mối tình đầu chót bọt bèo
vì người ta thích chạy theo bạc tiền
âm thầm trong mối tình điên
cầm bằng Chúa định nên duyên bẽ bàng
bây giờ con gặp được nàng
không giàu, không đẹp không màng lợi danh
chúng con hai mái đầu xanh
chắp tay khấn nguyện trung thành với nhau
thề nhau sóng gió bể dâu
để yêu... trước cũng như sau,.. giữ lời
Người ta lại bỏ con rồi
Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con”
Mỗi lần khi Giáng sinh về, nghe lại bản nhạc ấy, tự nhiên sao tôi nhớ quá những ngày mình còn trẻ. Cũng ngây ngô và mộng ước như thế. Nhưng, chỉ là giấc mơ không thực mà thôi. Mấy ai, trong mối tình đầu tiên mà không vấp ngã... Có người hỏi. Chứ không phải là thi sĩ thường hay dùng cái lối “thơ viết đừng xong, thuyền xuôi chớ đỗ / cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa” như Hồ Dzếnh sao? Ông thi sĩ nào cũng kêu ầm lên thất tình như một cái mode. Như trường hợp thi sĩ Nhất Tuấn, đào hoa trong đời thường nhưng vẫn rên lên vì bị thất tình và người yêu phụ rẫy…
Thơ phổ nhạc của Truyện Chúng mình còn nhiều lắm... Đơn cử như bài Niềm Tin chẳng hạn. Thơ được phổ nhạc và được hát mỗi mùa Giáng Sinh từ trước năm 1975 ở trong nước và sau năm 1975 ở hải ngoại.
“lại một Noël nữa
mấy mùa Giáng Sinh rồi
anh ở đồn biên giới
thương về một khung trời
chắc Đà Lạt vui lắm
Mimosa nở vàng
anh đào khoe sắc thắm
hương ngào ngạt không gian
mấy mùa Giáng Sinh trước
chỗ hẹn anh chờ hoài
lần này không về được
hồi hộp đợi tin ai
em biết không đời lính
nắng sớm với sương chiều
gió rừng rồi mưa núi
đã làm anh vui nhiều
ở đây anh chờ sẵn
đón Thánh lễ truyền thanh
xin Chúa ban ơn xuống
cho em và cho anh
cũng cầu cho thế giới
cho nhân loại hòa bình
cho đôi ta gặp lại
trong một mùa Giáng Sinh.”
Nhạc sĩ Anh Bằng đã phổ nhạc bài thơ này. Vẫn ngôn ngữ bình thường ý tứ đơn sơ nhưng lại tạo được sự thích thú cho người nghe chính vì cái đơn giản, dễ hiểu, dễ cảm ấy.
Ưu điểm nổi bật nhất của Nhất Tuấn là sự chân thành đến nỗi ngây thơ. Trong cái hồn nhiên của tuổi trẻ, thi sĩ thi vị hóa những hành động vụng dại của những người trẻ yêu nhau. Chúng ta, thời tuổi trẻ ai mà không có những lúc ấy, lúc mà con tim thôi thúc để vượt qua những rào cản kỷ luật của trường học và trường đời. Bài thơ này cũng được phổ nhạc và cũng là một bản nhạc làm xao xuyến bao nhiêu con tim đang yêu đang mộng:
“Chỉ tại anh nên hôm qua về trễ
cứ ”phim hay tài tử trứ danh” hoài
anh quảng cáo và “tô màu" giỏi thế
hỏi ai còn nỡ thất hẹn ngày mai?
Chỉ tại anh nên trời thu đổi gió
Mimosa.. phủ kín mặt đường khuya
Vương đầy tóc em bắt đền anh đó
Gỡ giùm đi, đứng cười mãi.. ô kìa
Chỉ tại anh em về nhà không ngủ
Trằn trọc hoài thao thức suốt một đêm
Và bỗng thấy hình như là thoáng nhớ
Đến một người.. không biết lạ hay quen
Chỉ tại anh nên hôm nay dậy muộn
Sáng thứ Hai bỏ mất một giờ đầu
Bốn “công si” cô giáo gìa… ác gớm
Còn bắt em chép phạt mấy trăm câu
ngày thứ tám em vào ngồi chép phạt
Mấy trăm câu mà chép mãi không xong
Bà giám thị cầm giấy xem, chỉ thấy:
- Chủ Nhật này ”Trẫm“ nhớ Ái Khanh không?
Hồn nhiên, vô tư, ngây thơ, táo tợn, nhưng lại dễ thương! Cô gái trẻ đang yêu của thơ Nhất Tuấn. Tập thơ Truyện Chúng Mình chỉ là chuyện riêng của ông và người tình thôi mà sao lại được hâm mộ đến như thế?
Tuy tập thơ ấy chỉ là kể chuyện riêng của hai người nhưng đọc thơ xong độc giả sẽ tưởng rằng có mình ở trong đó và chữ “chúng mình” là của riêng người đồng điệu chứ không phải ai khác. Xem thơ mà tưởng có mình ở trong, vì lời thơ hồn nhiên, ý thơ thành thật, điệu thơ nhẹ nhàng như ngầm chứa nhạc tính ở trong. Thơ viết về những kỷ niệm, rất bình thường vì có thể ai cũng có kỷ niệm và tâm sự như thế. Tình yêu trẻ trung thường đẹp và gợi nhớ đến những giấc mộng ngây thơ. “Truyện Chúng Mình“ có nhiều độc giả ái mộ không phải là chuyện lạ!
Có rất nhiều người đồng điệu đã sẻ chia ý nghĩ với thi sĩ Nhất Tuấn. Thái Thủy, Đỗ Tấn, Thẩm Thệ Hà, Thanh Nam,.. và nhất là Đinh Hùng:
“... Bài thơ đầu tiên của nhân loại là một bài thơ tình giữa Adam và Eve. Kẻ nào không biết yêu hoặc không thể yêu được nữa là kẻ bị thiệt thòi nhất. Cộng sản cũng chỉ vì không biết thương yêu, không có thơ tình, không biết bói tiếng “anh” và tiếng “Em” cho ngọt ngào uyển chuyển cho nên mới làm nhiều chuyện phi nhân, người chiến sĩ phụng sự cho Tự Do Chính Nghĩa từ trong tâm linh chính là người chiến sĩ vẫn hằng ấp ủ một bài thơ tình diễm tuyệt để tặng “Em”… Tôi chờ đợi Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn như một kẻ tình nhân chung thủy chờ đợi tình thư của người yêu. Chắc rằng tất cả những người ”đã yêu, đang yêu và sắp yêu” cũng sẽ tìm thấy phần nào bóng dáng tâm hồn họ khi đọc Truyện Chúng Mình…
Ngày mười bảy tuổi, thi sĩ thành một người trưởng thành sớm hơn tuổi để trong dịp Giáng Sinh cao giọng cất rao lời kêu gọi loài người. Thơ chững chạc trong sự suy nghĩ của một cậu bé òa vỡ những cảm giác của một thời những giấc mơ, những mộng uớc của mai sau:
“Hỡi loài người hãy quỳ gối cùng tôi
đêm nay sẽ thấy ý đời trở lại
đêm nay sẽ thấy ý đời thôi khổ ải
sẽ thấy đời tràn ngập cảnh yêu thương
những tràng chuông dồn dập giữa đêm trường
cùng bao ánh mắt dịu hiền trao trả
hỡi loài người hãy cùng tôi quì gối
đón hòa bình trong sóng nhạc đêm nay
mỗi âm thanh là ánh mặt trời này
ôi bất diệt hòa bình ơi bất diệt”
Tôi đọc bài thơ Giáng Sinh ấy trong tập thơ “Sinh Nhật Của Một Người Không Còn Trẻ” của nhà thơ Lữ Quỳnh. Cái cảm giác "không còn trẻ” có phải là chưa về già, hình như trong tâm cảm và thơ có điều gì, nửa như tiếc nuối, nửa như nhớ về. Ở đời thường, thi sĩ là một người dễ mến với nụ cười trên môi qua đôi mắt long lanh sau đôi kính cận. Thế mà, đọc thơ sao nghe như có một điều gì lặng lẽ tha thiết trong tâm. Thơ là ngôn ngữ của lặng thầm, và là những hồi ức mà suốt đời thi sĩ không bao giờ quên được. Thời gian mấy chục năm, đối với lịch sử đất nước chỉ là một chớp mắt. Nhưng với một đời người, thì lại là khoảng cách rất lâu. Thi sĩ đã đi và về, trong khoảng cách ấy bằng thơ. Nếu nói thơ là đời sống, không biết có phải là nhận định vội vàng không? Ở cảm quan của một người đọc, tôi thấy như vậy!
Những câu thơ đã thành ý tưởng tiền chế cho một cảm giác chia sẻ, để như thấy lại một không gian cũ, một thời gian xưa. Thơ không phải kể chuyện đời sống, mà, chính nó là cuộc sống.
Sinh nhật tôi
Một ngày tháng Chạp
Những ngọn nến thắp
Là hồi ức buồn.
Những người sinh vào tháng Chạp, ở thời điểm cùng tận của một năm đã thắp lên một ngọn nến để soi tỏ lại dung nhan cái hồi ức của mình. Giản dị chỉ có vậy, nhưng trong liên tưởng tôi thấy bàng bạc một mùa đông. Một nỗi niềm nào từ không gian, thời gian lan tỏa tới làm bước chân quay trở lại về quá khứ. Không gian ấy, thời gian ấy, có phải là vương quốc của thơ đang ngự trị?
Một nhận xét đầu tiên, là một nghịch lý. Trong khi chúng ta nói về tình yêu lúc tuổi trẻ và thời thế lúc tuổi già. Thì ngược lại, Lữ Quỳnh đã làm thơ để suy nghĩ về đời sống, nói lên những cảm nhận về thời cuộc lúc còn trẻ, rất trẻ. Và, ông làm thơ về tình yêu với những tình cảm trầm lắng vào lúc tuổi già. Nếu không có những dòng ghi ngày tháng sáng tác ở cuối mỗi bài thơ, có lẽ tôi sẽ bị sai lầm mà nghĩ theo lệ thường như vậy… Trẻ và già, ở tùy từng người. Có khi trẻ ở tuổi bảy mươi tám mươi và già ở tuổi hai mươi, hai mốt. Điều đó, đâu có gì là lạ lùng, nhất là đối với những thế hệ đã trải qua nhiều biến động thử thách của thời thế như Lữ Quỳnh. Với người thơ, cái ý niệm thời gian và không gian có khi chỉ là biểu kiến. Thơ vượt qua những khoảng cách tháng năm, có thể chứ sao không? Trong cảm giác của người đọc thơ, tôi lờ mờ thấy qua con chữ những ngỏ lời rất lặng thầm nhưng lại hằn dấu trong tâm thức, Thơ về hồi ức hay là hồi ức, tôi tự hỏi khi đọc từng bài trong “Sinh Nhật Của Một Người Không Còn Trẻ”… Bài thơ trên tác giả làm vào dịp Giáng Sinh năm 1956, đất nước chưa chiến tranh nhưng không hiểu tại sao một cậu bé như thế lại viễn kiến xa hơn một tương lai sẽ đến của một đất nước khói lửa…

2.
Viết về các văn thi nhạc sĩ qua đề tài Giáng Sinh tuy tạo nhiều thích thú nhưng khó có có thể đầy đủ được. Thực ra có rất nhiều thi, văn, nhạc sĩ có những tác phẩm về ngày lễ này rất hay và độc đáo nhưng chúng tôi vì bài viết có hạn nên chỉ đề cập đến một vài tác giả tiêu biểu mà thôi. Nhưng điều cốt tủy là chúng tôi muốn chia sẻ với cuộc đời, với thời tiết, với nhân loại những tâm tư và ý nghĩa của ngày Chúa sinh ra đời. Và tất cả đã thể hiện trong những tác phẩm xuất hiện có thể từ thời tiền chiến, thời kỳ hai mươi năm văn học miền Nam hoặc văn học ở hải ngoại…
Có người đã nhắc nhở đến nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên và các bài thơ về Giáng Sinh của ông. Trong không khí của ngày Noël năm nay, có lẽ chúng ta cũng nên nhắc lại những bài thơ ấy.
Nguyễn Tất Nhiên có những bài thơ rất lạ. Hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ được nhà thơ sử dụng phương cách độc đáo, chuyên chở được tình cảm một cách dễ thương. Từ “Vì Tôi Là Linh Mục” đến “Chuông Mơ”, rồi "Em Hiền Như Ma Soeur” đến "Hai Năm Tình Lận Đận”, thơ và nhạc hình như đã bổ túc cho nhau để làm nổi bật hơn cá tính của người thơ. Thuở sinh thời, ông thường bực bội vì nghĩ rằng độc giả chỉ biết đến Nguyễn Tất Nhiên qua những bản nhạc mà ít để ý đến cốt tủy là chính những bài thơ của ông. Những bài thơ mà ông cho là biểu hiện rõ nét thi ca của ông. Những câu thơ tràn đầy nhạc tính và cũng chan chứa thi tính...
Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và đã làm ông nổi tiếng.
Như bài thơ nhan đề “Nguyện Làm Cây Thánh Giá“ đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn số Giáng sinh năm 1972 và sau dổi thành “Hai Năm Tình Lận Đận“ và Phạm Duy phổ nhạc. Bài thơ ấy có đoạn như sau:
“... em bây giờ có lẽ
toan tính chuyện lọc lừa
anh bây giờ có lẽ
nên làm người tình thua
nhà thờ chuông đổ chậm
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian, mưa
(dù sao thì Chúa cũng
một thời làm trai tơ
dù sao thì Chúa cũng
làm đàn ông… dại khờ)
anh bây giờ có lẽ
thiết tha hơn tín đồ
nguyện làm cây thánh giá
trên chót đỉnh nhà thờ
cô đơn nhìn bụi bặm
làm phân bón rêu xanh
(dù sao cây thánh giá
cũng được người nhân danh)
hai năm tình lận đận
em đã già hơn xưa.”
Chỉ có hai năm lận đận cuộc tình thôi mà nhà thơ bắt “em” già đi thì hơi ác! Nhã Lan khi đọc thơ và nghe nhạc, cảm giác hơi khác nhau. Ở thơ, có một điều gì buồn buồn, nhẹ nhàng và hơi chút mỉa mai. Còn ở nhạc, thì có vẻ ngây thơ lãng mạn hơn.
Với tôi, khi đọc thơ, lại cảm vì những chi tiết rất đời thường nhưng lại tạo được nét mới lạ. Từ trước tới giờ, có lẽ chưa có ai có ý nghĩ như Nguyễn Tất Nhiên: dù sao thì Chúa cũng / có một thời... trai tơ / dù sao thì Chúa cũng / làm đàn ông dại khờ. Chính cái nét ngang ngang khác người ấy làm bài thơ sinh động. Còn khi nghe nhạc thì cảm giác khác hơn. Cái nét ngang ngang tinh nghịch ngầm không giống ai ấy biến dạng đi. Và thay thế là cảm giác của sự trẻ trung đầy nét lãng mạn. Đó là nhận xét thô thiển của riêng tôi, khi đặt mình vào vị trí người thưởng ngoạn…
Có một tập thơ của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên mà hình bìa là hai tháp giáo đường cao vút với bức tranh của họa sĩ Nguyễn Thị Hợp. Đó là tập thơ Chuông Mơ mà Nguyễn Tất Nhiên xuất bản vào dịp Giáng sinh năm 1999. Bài thơ mà nhan đề được chọn cho tập thơ là bài thơ gửi về cho người xưa còn ở Việt Nam:
“chiều nay em còn mảng tóc mai
hay đã lao tâm luống bạc rồi
chiều nay vừa đến giờ tan học
hay vừa buông cuốc chặm mồ hôi?
Chiều nay em bước trên quê hương
Chắc tóc không còn óng ả chuông
Chắc chuông không mượt nâng tà tóc
Chắc tóc và chuông đã… đoạn trường!
Chiều nay em trên quê hương
Chắc Chúa chẳng nhìn như mọi hôm
Bởi vì mắt Chúa và em đã
Lóng lánh vùi chôn lệ ngấn lòng
Áo trắng cả sân trường trắng
Tan học trong đời anh thẩn thơ
Đời anh quên, nhớ, quên, nhiều lắm
Chiều chiều xứ Mỹ cũng chuông mơ.”
Thơ Giáng sinh của Nguyễn Tất Nhiên chắc còn nhiều lắm. Nhiều bài thơ khác như “Em Hiền Như Ma Soeur”. “Vì Tôi Là Linh Mục”,... và cũng được phổ nhạc thành những bài hát mà chưa bị thời gian làm cho phai phôi…
* * *
Thơ tình Giáng Sinh còn có bài nào khác của thi sĩ khác làm tôi thích thú. Tôi có đọc một bài thơ của nhà thơ Trần Vấn Lệ. Ngày Giáng Sinh, giở đúng bài ”Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời, Bình Yên Dưới Thế Cho Người Tôi Thương” thì đúng là thích hợp quá rồi còn gì!!! Cái nhan đề gợi lại một điều gì tuy quen mà lạ, tuy dài mà ngắn. Nó gợi lại một giây phút của hai người tình nhân xưa sau hai mươi năm gặp lại trong ngày Giáng Sinh. Chỉ có như vậy, nhưng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên như những lời kể chuyện và nhất là man mác trong đó nỗi niềm hoài vọng. Hoài vọng một thời đã qua. Hoài niệm mối tình đã lỡ...
Bài thơ gồm 14 đoạn mỗi đoạn 4 câu. Khá dài nhưng là một truyện kể của một người đã luốn tuổi nhưng vẫn còn vương vấn mối tình xưa khi gặp người tình cũ.
“ngày này năm ngoái nhớ không em?
Mình gặp nhau qua một cái nhìn
Mười bảy năm trời trên đất Mỹ
Vẫn là ánh mắt tối Noël
ôi em kinh ngạc trông mà tội
anh cũng tội gì cứ đứng run?
Em vẫn là em cô gái nhỏ
Và anh vẫn vậy, lính băng rừng
Hai mươi năm cũ như cơn mộng
Mười bảy năm trời một tiếng kêu
Rất khẽ. Bởi lòng hai đứa nghẹn
Dù đêm ròn rã tiếng chuông reo
Lạy Chúa cho con gặp lại người
ôi lời anh thốt giống em thôi
Đưa tay muốn nắm mà không được
Đối diện trời ơi lỡ hết rồi
Lỡ hết rồi em! Lỡ hết anh
Em mừng sao mắt lệ long lanh
Anh mừng mắt chớp sau làn kính
cảm tạ trời! Con đã đứng im
dăm ba câu hỏi như bè bạn
em tiếp đường em, anh bước lui
mình gặp nhau đây không ước hẹn
tình cờ em nhỉ chuyện vui vui
chuyện vui tình ý ai không biết?
Thôi giả đò em nhé, Chúa thương
Anh giả đó than hoàn cảnh khổ
Để em dìu dịu ”mắt Tây phương”
Bài thơ đôi mắt người Sơn Tây
Em chép ngày xưa ”kính tặng thầy”
Anh nhắc một câu mà nuốn khóc
Một năm đằng đẵng mắt còn cay!”
Sau một năm kể từ giây phút gặp gỡ ấy, người thơ vẫn còn cảm xúc. Và đến tối Noël năm sau, thì cảm giác ấy lại càng rõ nét.
”Hồi năm ngoái đó với bây giờ
anh giật mình như tỉnh giấc mơ
trọn tối Noël nhìn ảnh Chúa
tưởng chừng đôi mắt của người xưa
em nhớ hay là em đã quên
lạy trời em mãi mãi bình yên
anh làm thầy giáo rồi đi lính
lết tới quê người đạn trúng tim
thôi lỡ rồi em lỡ hết rồi
đường Em đi tới – Con Đường Vui
đường anh trở lạnh đêm năm ngoái
gục xuống quỳ ôm Chúa ngậm ngùi
tha hương kỳ ngộ, ôi lòng Chúa
xin hãy vì người con mến thương
chấp nhận những điều con khấn nguyện
cho nàng hạnh phúc ở nhân gian
em ơi anh tắt từng cây nến
hai chục năm mờ bóng cố nhân
chuông giáo đường vang, tim Chúa đập
đường Em đi tới rộn ràng xuân
đường anh trở bước trăng soi sáng
vẫn bóng trăng rằm quá khứ xưa
đôi mắt Sơn Tây thời lãng mạn
dụi hoài cứ ướt những câu thơ...”
* * *
Có một bài thơ khá nổi tiếng của một nhà thơ người miền Nam Bộ. Bài thơ ấy cũng được phổ nhạc bởi nhạc sĩ Huỳnh Anh và nhạc sĩ Anh Bằng. Một bài thơ mà thành hai bản nhạc. Đó là bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” bài thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà.
Nhà thơ khi ăn mừng thượng thọ 81 tuổi đã mang bức di ảnh của người xưa để công bố một hình bóng nàng thơ áo tím, một nhân vật có thực của đời mình và là một hình bóng thân yêu trong bài thơ. Theo bài viết đăng trên web-site của nhà văn Lê Thiếu Nhơn thì nàng thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà (tên thật là Trương Khương Trinh) là bà Nguyễn Thúy Nhiều, người bạn học của chàng hay đi ngang qua nhà thờ mỗi khi xem lễ với tà áo tím. Hà Huy Hà đã mang hình ảnh ấy vào thơ với cảnh giáo đường, với chuông nhà thờ. Và ông cũng lồng vào khuôn cảnh một thời tao loạn để có cảnh tử biệt sinh ly. Thơ Kiên Giang Hà Huy Hà rặc ròng âm hưởng Nam Bộ, có lúc thật giống với thơ Nguyễn Bính nhưng cũng có khi y khuôn như những câu ca dao của miền sông nước Cửu Long. Về khuynh hướng chính trị, Kiên Giang thiên cộng trong thời kỳ trước năm 1975 và là một người được chế độ Cộng sản cho tham dự vào các sinh hoạt văn chương sau 1975 nhưng dường như chẳng có đãi ngộ nào đáng kể mặc dù được xưng tụng là có hơn 60 năm phục vụ nghệ thuật cho cách mạng. Lúc đến tuổi hưu ông phải bán đi căn nhà nhỏ bé của mình và sinh kế cũng khá chật vật.
Bài thơ khá dài. Đoạn mở đầu:
“lâu quá không về thăm xóm đạo
từ ngày binh lửa cháy quê hương
khói bom che lấp chân trời cũ
che cả người thương nóc giáo đường
mười năm trước em còn đi học
áo tím điểm tô đời nữ sinh
hoa trắng cài duyên trên áo tím
em là cô gái tuổi băng trinh
quen biết nhau qua tình lối xóm
cổng trường đối diện ngó lầu chuông
mỗi lần Chúa Nhật em xem lễ
anh học bài ôn trước cổng trường
thuở ấy anh hiền và nhát quá
nép mình bên gác thánh lầu chuông
để nghe khe khẽ lời em nguyện
thơ thẩn chờ em trước thánh đường...”
Tình yêu rồi cũng phai phôi. Nàng áo tím đi lấy chồng. Chàng nghe ròn rã chuông xóm đạo như tiễn nàng vu quy. Rồi sau đó chiến tranh, và nàng áo tím ngày xưa đã thành chiến sĩ và chết dưới bóng cờ.
Và kết cuộc:
”Hoa trắng thôi cài trên áo tím
mà cài trên cỗ nắp quan tài
điểm tô công trận bằng hoa trắng
hoa tuổi học trò mắt thắm tươi
xe tang đã khuất nẻo đời
chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu
từ đây tóc rũ khăn sô
em cài hoa trắng trên mồ người xưa.”
Nhưng, đó là bốn câu thơ cuối của bài thơ đầu tiên. Về sau này, người chồng của bà Thúy Nhiều ghen tức khi bà này đặt tên con đầu lòng bằng tên ghép của hai người: chính bà và người thơ ngày xưa. Bản sau của bài thơ, Kiên Giang Hà Huy Hà sửa lại đoạn kết bài thơ là:
“Lạy chúa con là người ngoại đạo
nhưng tin có Chúa ở trên trời
trong lòng con giữa màu hoa trắng
cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!”
Thơ Kiên Giang ngôn ngữ chất phác, những bài thơ như Xe Trâu hay Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím nhờ sự hồn hậu bình dân biểu lộ tính tình của người dân Nam Bộ nên đã có vị trí trong thi ca Việt Nam…
* * *
Tức cảnh sinh tình tôi cũng có làm vài bài thơ về Giáng Sinh của đời mình. Trong đó, có bài thơ làm khi vừa từ đảo đến Mỹ định cư:
Vào thương xá giọt nhạc rơi
Giờ thánh tẩy, chợt cõi đời bù hao
Từ khi gươm súng vẫy chào
Ngẩn ngơ tiền kiếp lao đao bóng hình
Soi gương mù mịt nhân sinh
ngọn thông đèn thắp nỗi mình ở đâu?
Đứng bên hang đá u sầu
Thấy cây thập giá nỗi đau hình thành
Tượng Mẹ giọt lệ long lanh
Hồng ân thiên cổ trên cành còn treo
Chiếc xe đò cũ qua đèo
Nghe sương khói chạnh cuối chiều bâng khuâng
Đứng trên đỉnh dốc phong trần
Áo cơ hàn cũ thế thân vẫn vừa
nhạc rơi ẩm sáng lạnh trưa
Giáng sinh tôi, quạnh đêm mưa ngang đầu.
Nói về mình đã kỳ mà nói về thơ của mình lại kỳ cục hơn. Đại khái bài thơ này chỉ là tâm sự của một người sắp bước chân vào một cuộc sống mới và sẽ phải gánh nặng trong tâm một quá khứ có từ những thời gian đã qua của đời mình…
Một bài thơ khác, ghi lại một thời gian khác một kỷ niệm khác. Giáng Sinh ở Sài Gòn. Bài thơ đã để lại từ một thành phố đầy ắp trong trí nhớ những kỷ niệm.
1
Hãy xuống đường và mặc áo mới.
Chiếc áo ngày Chúa bị đóng đinh
Còn khô vệt máu
Hãy xuống đường và xưng tội
Thân phận Việt Nam.
Âm như dao sắc
Thánh ca xoáy tròn
cấu da nỗi đau có thực.
2
Giáng Sinh ở Sài gòn
Con phố không còn gió
Ngọn cờ ủ ê.
Lặng lẽ.
Giáng sinh ở Sài Gòn
Thắp trong mắt mỗi người ngọn nến nửa đêm
Đầu mang vòng gai buốt
Hân hoan hành xác mình
Giáng sinh ở Sài Gòn.
Mọi người đi ra đường
Cầm trái tim
Làm vũ khí.
Lời đồng dao của quỉ
Bắt đầu chuông báo tử mùa xuân.
3
hát cho rõ tiếng guốc nàng.
Hai mươi năm trẻ dại
Hát và thở ký ức chàng
Thác reo lũng gió
Hát và vỗ tay thế kỷ chúng ta.
Khúc hoan ca thinh lặng
Hát và long lanh hạt lệ
Giáng sinh ba mươi năm trí nhớ.
4
bây giờ nửa đêm
phơi khô dây hạnh phúc
ngọn nắng phai phai
ru tôi tóc sợi.
Bây giờ ở Sài gòn
Tôi trốn vào đám đông
Mặt nạ che tông tích
Tự hỏi có phải là dòng sông
Trôi qua những ấu thơ tinh nghịch
Cánh cửa khuya đóng lại bình minh.
5
Giáng sinh ở Sài Gòn
nhớ ly cà phê gạo rang đắng chát.
Cho cũ một ngày.
Ngọn đèn dầu nhỏ tăm tối
Sao không thắp hỏa châu
Sân ga không tàu đợi
Giáng sinh ở Sài gòn.
Ngực khan đám đông đau
Than vừa ngún
Bếp đỏ lửa rồi bè bạn ta ơi
Giáng Sinh ở Sài gòn
Sống lại chính chúng ta
Hàng hàng lớp lớp
Tôi phục sinh anh phục sinh
Từ dòng máu giọt…
Nguyễn Mạnh Trinh