
Tôi lái xe vào con đường đất đá ngổn ngang, thẳng đến phía trước khoảng vài chục thước rồi ngừng lại. Trước mắt tôi và Thanh Đạm, vợ tôi, khu đất rộng lớn đã được dọn sạch cây cỏ, phân thành từng lô tương đối đều nhau. Khung cảnh chung quanh vắng lặng vào buổi chiều Chủ Nhật. Cạnh gốc cổ thụ già lởm chởm rễ ngã nghiêng trên nền đất, một chiếc xe ủi đất nằm ngất ngưởng nửa trên nửa dưới một hố sâu. Vài cái caravan dã chiến dành cho nhân viên của công ty xây dựng nằm phía sau. Gần đó là tấm bảng gỗ lớn với tên công ty được kẻ sơn màu, cho biết đây là công trường xây dựng sáu mươi căn nhà của thành phố.
Thanh Đạm đi trước với mảnh họa đồ nhỏ trong tay. Sau một lúc lội bộ tìm kiếm, chúng tôi dừng lại trước một lô đất. Thanh Đạm nhìn lại họa đồ lần nữa, cười hể hả tuyên bố:
“Cuối năm nay mình sẽ đặt cây Giáng Sinh ở nơi này.”
Tôi đứng im nhìn lô đất hình chữ nhật bị cày xới lởm chởm. Sau thời gian dài sống ở xứ người, chúng tôi mới ký giấy mua nhà trả góp. Arie, bạn đồng nghiệp của tôi, đã vồn vã báo cho tôi biết dự án xây sáu mươi căn nhà của thành phố, hùng hồn thuyết phục chúng tôi phải ghi danh mua cho bằng được một căn nhà của dự án này. Phần Arie thì khỏi nói. Anh chàng dự định mua nhà từ lâu, chạy đôn chạy đáo tìm kiếm, dọ hỏi giá nhà khắp các văn phòng địa ốc. Có điều mua một căn nhà của dự án này coi vậy mà không đơn giản. Chỉ có sáu mươi căn nhà nhưng đến hàng trăm người ghi danh mua. Phải qua một vòng cứu xét mức lương thu nhập hàng năm. Trên một trăm người bị loại ra. Đến vòng thứ hai, công ty địa ốc phải mướn văn phòng công chứng bắt thăm để chọn sáu mươi kẻ may mắn trong số trên hai trăm người bon chen còn lại. Tên tôi nằm trong số người may mắn đó. Arie cũng vậy. Anh chàng bắt thăm được căn nhà cách chúng tôi sáu số.
Sau khoảng thời gian bận rộn với mọi thứ thủ tục, thể thức mượn tiền ngân hàng, chúng tôi mới bình tĩnh nhìn căn nhà tương lai với ý nghĩa đích thực hơn của nó. Cái ý nghĩa nhà lần này đã bớt đi dấu vết của niềm kiêu hãnh ngầm về sự thành công hay một thứ status nào đó trong đời sống. Khoảng không tinh khôi của căn nhà mới sẽ bao bọc những con người trong lòng nó được an toàn, ấm áp dưới mưa tuyết bão bùng. Nó sẽ dần dần chứng kiến đời sống riêng tư, rồi cả giây phút đầu đời của những đứa con của chúng tôi trong tương lai. Theo thời gian, nó sẽ cất giữ trong lòng khối kỷ niệm vui buồn của chúng tôi, cái quá khứ bắt đầu hình thành, càng lúc càng lớn dần.
Trước đây hai năm, tôi cùng anh bạn đến bệnh viện thăm một người bạn thân khác. Anh lớn hơn tôi hơn cả con giáp, sống độc thân, không may bị chứng tai biến mạch máu não. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in hình ảnh anh nằm trên giường với gương mặt trắng bệch, giương đôi mắt mệt mỏi nhìn chúng tôi. Nửa thân hình bên phải theo chiều dọc của anh hoàn toàn bất động. Một phần bộ não đã tạm ngưng hoạt động.
Anh bạn lắng nghe chúng tôi thăm hỏi, hiểu gần như tất cả những gì chúng tôi nói với anh. Nhưng anh không thể diễn tả được những gì anh muốn bày tỏ cùng chúng tôi. Miệng anh méo xệch thảm hại, mệt nhọc tuôn ra thứ tiếng ê a như rên rỉ. Dĩ nhiên về phần chúng tôi chẳng ai hiểu anh muốn nói gì. Anh cố gắng thêm vài lần. Vẫn vô ích. Cánh tay trái còn lại của anh bỗng đập mạnh xuống nệm giường. Cái đập phẫn nộ về sự bất lực của mình. Cuối cùng anh phải dùng cánh tay đó để bút đàm với chúng tôi. Cố gắng đến cả vài phút, anh mới vẽ được nguệch ngoạc một chữ mà chúng tôi cũng cố gắng lắm mới đọc ra. Chữ nhà. Chúng tôi phân trần rằng anh đang bị bệnh nặng, bác sĩ không cho phép anh về nhà vội. Cánh tay anh lại nện xuống nệm giường. Chúng tôi nhìn nhau khó xử. Sau cùng anh bạn cùng đi với tôi nhanh trí hỏi, phải anh muốn nói đến nhà anh ở Việt Nam. Như có phép lạ, cánh tay anh nằm êm xuôi dịu dàng trở lại, nhưng miệng anh lại thốt ra những âm thanh ê a ngắt quãng. Một dòng lệ tuôn chảy ướt một bên gối. Cố gắng tiếp xúc với anh đến quá giờ thăm bệnh, chúng tôi mới hiểu ra. Trong giây phút tuyệt vọng, anh chỉ còn mỗi niềm mong ước mãnh liệt được gởi thân ở quê nhà.
Nhìn nét chữ gãy gập quái gở và nhìn lại số tuổi bốn mươi của anh, tôi bỗng lạnh cả sống lưng. Bấy lâu nay, tôi tưởng mình cũng rất bận tâm đến một nơi chốn trở về. Một thứ quê hương tâm linh nào đó. Hay một quê hương hiện thực hơn đang nằm oằn oại ở phần bên kia quả đất. ĺt ra, tôi cũng là con người còn có ý thức, một kẻ có lòng. Giờ đây, tôi mới khám phá ra tất cả sự hời hợt, phè phỡn của mình trong cuộc tìm kiếm này. Có nhiều việc quan trọng hơn tôi cần phải ưu tiên thực hiện trong cuộc sống. Mua một căn nhà chẳng hạn. Đợi đến lúc thật sự cần một nơi chốn trở về — dù chỉ để gởi thân xác mình như anh bạn tôi — mới chợt nhận ra thân phận bi thảm của kẻ còn mải mê lang thang trên vạn dặm trường. Chưa kể, nếu rất nghiêm túc trong cuộc tìm kiếm này, tôi có tìm được cái mà tôi muốn tìm hay không. Rồi còn quê hương bên kia quả đất. Ɖất nước đó vẫn muôn đời thật sự là nhà như tôi vẫn nghĩ hay không? ĺt ra là cho anh bạn tôi. Cho tôi. Chữ nhà ngả nghiêng xiêu vẹo của anh bạn ngày hôm đó tựa như một dấu ấn lạnh lùng, đóng thật sâu vào não bộ tôi. Nhưng đồng thời nó lại là cái phao bềnh bồng, cứu giúp tôi không chìm hút vào khoảng không mênh mông của đời sống cơm áo hàng ngày.
***
Một tháng sau buổi đi thăm đất, tôi và Thanh Đạm ngồi dùng điểm tâm vào sáng thứ Bảy. Tôi có thói quen nhâm nhi thêm một tách cà phê sau buổi điểm tâm của ngày cuối tuần. Cũng là cách nhâm nhi thời gian thật sự của chính mình. Lúc đang nâng tách thoải mái, tôi bỗng nghe Thanh Đạm reo lên, anh xem nè. Nàng mở rộng tờ báo địa phương, trải ra trước mặt tôi, chỉ vào một tấm hình được in giữa trang báo. Tôi tò mò nhìn vào, đọc chú thích bên dưới. Tấm hình chụp nguyên một cái stonehenge vào cuối thời đại đồ đá, mới vừa được khám phá trong lòng đất. Thật ra bài báo sử dụng danh từ này cũng không ổn lắm, bởi vì stonehenge là ngôi mộ hoặc một thứ đài kỷ niệm cổ sơ được người tiền sử tạo thành bằng cách chồng chất những khối đá to lớn lên nhau. Tôi và Thanh Đạm đã được nhìn thấy những khối đá như thế lần đầu tiên trong chuyến du lịch miền nam nước Anh cách đây mấy năm. Nhưng ‘stonehenge’ trong hình lại là những cây trụ bằng gỗ, được dựng lên với những khoảng cách tính toán chính xác nào đó để theo dõi sự di chuyển của mặt trời. Đó là một thứ đồng hồ hay lịch của những con người cổ sơ. Những trụ gỗ bị thời gian gặm nhấm, mục nát rất nhiều.
Nhưng chuyện gỗ hay đá không thành vấn đề. Dẫu cho mấy cây trụ vẫn còn bướng bỉnh trơ gan cùng tuế nguyệt, chúng cũng không thể hấp dẫn tôi và Thanh Đạm nếu tờ báo không chú thích nơi chốn các nhà khảo cổ vừa tìm được. Nơi chốn đó nào có xa lạ gì. Chính là thành phố này, đúng ngay trong khu đất có căn nhà tương lai của chúng tôi sắp mọc lên. Tại sao khi vừa mới phát hiện, người ta biết ngay đó là một thứ cổ vật giá trị để gìn giữ nguyên vẹn hình hài thì bài báo không đề cập đến. Chỉ biết rằng tin tức khám phá được giữ kín cho đến khi các nhà khảo cổ đã kiểm chứng cẩn thận, tái tạo lại nguyên vẹn hình hài của thứ dụng cụ theo dõi thời gian thô sơ này.
Nhìn gương mặt cao hứng của Thanh Đạm lúc đọc bài báo lần thứ hai, tôi cũng cảm thấy thú vị lây. Một ngày êm đềm trôi qua. Nhưng buổi tối, khi đặt lưng xuống giường, cái ‘stonehenge’ gỗ lại hiện hình nguyên vẹn, lơ lửng trước mắt tôi. Tôi nằm đó, ngắm nó qua bóng đêm trong khi vẫn nghe tiếng thở đều nhịp trong giấc ngủ say của Thanh Đạm bên cạnh. Trước khi đọc bài báo, tôi chỉ nhìn khu đất rậm rạp cây cỏ nằm sát ranh thành phố — khu đất sẽ có sáu mươi căn nhà tọa lạc — như một thứ đất hoang. Nó không gây cho tôi ấn tượng nào trong những lần có dịp lái xe ngang qua. Tôi không hề lẩn thẩn nghĩ đến chuyện có những con người đã từng sinh sống nơi đó, trải qua bao biến động thịnh suy, đã nằm xuống và xương thịt của họ đã hòa tan vào lòng đất.
Nhưng giờ đây nằm chờ giấc ngủ, mảnh đất đó lại làm tôi bận tâm. Thật ra nó cũng đã quấy rầy tôi suốt cả ngày hôm nay. Tôi lờ mờ nghĩ đến khoảng thời gian lúc những con người cổ sơ dựng lên cái stonehenge trên khu đất, có lẽ bên Việt Nam còn đang ở vào thời kỳ các vua Hùng. Chắc chắn những con người cổ sơ này cũng không hề nghĩ đến chuyện vài ngàn năm sau sẽ có một cặp vợ chồng trẻ, từ một xứ sở xa xôi diệu vợi nào đó đến lập nghiệp trên mảnh đất này. Nếu đời sống quả thật là những liên hệ nhân duyên trùng điệp, những tiến trình luân hồi sinh diệt biến chuyển không ngừng, thì biết đâu chính tôi hay Thanh Đạm cũng ít nhiều đã từng là một trong những con người này, đã từng tham dự vào sinh hoạt cổ sơ hỗn mang của họ. Chúng tôi có thể đã từng vui sướng, sợ hãi, thương tâm với họ. Đã từng đứng trong ánh nắng, ngắm bóng những trụ gỗ ngã trên nền đất để có ý niệm thời gian đang trôi qua. Và mối liên hệ nào đó dẫn dắt chúng tôi ngày hôm nay trở lại chốn cũ. Biết đâu trong tận cùng tiềm thức của tôi vẫn còn đọng lại chút xíu ký ức nào đó trong khoảng thời gian xa xưa này. Nếu quả thật như vậy, cái ý niệm về khoảng cách không gian, thời gian sẽ thật hạn hẹp, vô nghĩa biết bao trong cuộc phù thế này. Bỗng dưng tôi bắt gặp mình chợt cất tiếng cười khan trong bóng tối. Giật mình quay qua, tôi yên tâm nghe Thanh Đạm vẫn nằm yên thở đều đặn.
***
Đến chiều hôm nay, việc dọn nhà của chúng tôi tạm ổn định. Công việc phải làm vẫn còn đầy ăm ắp. Nhưng ít ra chúng tôi đã lo liệu xong chỗ ăn, chỗ ngủ trong căn nhà mới này. Đồ đạc vẫn còn nằm ngổn ngang trong phòng khách. Thỉnh thoảng anh bạn đồng nghiệp Arie của tôi — giờ cũng trở thành ông hàng xóm — chạy qua thăm hỏi, tiếu lâm vài câu, uống vội ly cà phê đen rồi lại hối hả chạy về. Arie cũng bận rộn tối tăm mặt mũi. Nhưng tôi đọc được niềm vui có nhà riêng, lại là nhà mới toanh, toát ra trong mỗi dáng điệu, câu nói của Arie. Anh chàng lăng xăng chạy qua chạy lại chỉ vì niềm vui đó đang bùng vỡ trong lòng. Niềm vui tương tự cũng hiện rõ trên gương mặt, trong ánh mắt và nụ cười của Thanh Đạm trong khi tôi vẫn chưa thật sự cảm nhận được đây là căn nhà của mình.
Dù bận rộn đến đâu, chúng tôi cũng tạm gác qua mọi chuyện để chuẩn bị cho việc quan trọng nhất trong ngày: cúng đất đai dương trạch. Tôi nhìn đồng hồ. Đã quá trễ, tám giờ rưỡi tối rồi. Thật ra chuyện cúng kiến do tôi đề xướng, nhưng Thanh Đạm đã mau mắn đồng ý. Nghi thức phải được thực hiện chính xác như thế nào, trước hay sau khi dọn nhà, cả hai chúng tôi đều mù tịt. Ngay cả ý nghĩa hai chữ ‘dương trạch’, chúng tôi cũng chưa có thời giờ tìm hiểu thêm. Tôi chỉ lập lại máy móc cụm từ của bà ngoại tôi thường sử dụng ngày xưa. Nhưng dù sao thì Thanh Đạm cũng đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết.
Tôi bày biện lễ vật theo những gì bà ngoại tôi đã làm mà tôi còn nhớ được ít nhiều. Bày lễ vật trên bàn mà lòng tôi cứ bất an. Tôi chỉ sợ lúc mình đang cúng kiến trang nghiêm, khói hương nghi ngút, ông hàng xóm Arie của tôi lại chạy qua bấm chuông, xông vào phòng khách như cơn lốc theo cung cách thăm viếng chớp nhoáng, bất ngờ như vẫn làm từ mấy ngày qua. Mà điều đó có thể xảy ra ngay lúc này. Tôi hoàn toàn không cảm thấy hứng thú để giải thích cho Arie hiểu rõ chuyện tôi làm. Tôi không hề sợ hãi một thế lực huyền bí nào trong ngôi nhà mới cất này. Tôi cũng không tin rằng chuyện cúng kiến sẽ mang đến sự bình an cho đời sống của chúng tôi sau này. Nhất là tôi cũng không thể nói cho Arie biết rõ về một tập quán hay tín ngưỡng dân gian mà chính tôi cũng hiểu biết rất cạn cợt. Nhưng tôi hiểu rõ động lực nào đã thúc đẩy tôi bày chuyện cúng kiến đất đai, một điều cả chục năm nay tôi không hề nghĩ tới.
Sau khi lâm râm khấn vái những câu tôi suy nghĩ rất tùy tiện, cắm một nén nhang vào chiếc lọ nhỏ, tôi và Thanh Đạm ngồi trên ghế dựa, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng. Nhìn cảnh khói hương nghi ngút, hai ngọn lửa nến phất phơ, tôi cảm thấy căn phòng khách bừa bãi đồ đạc bỗng trở nên trang nghiêm, tịch mịch. Không khí như chùng xuống. Thanh Đạm vặn đèn sáng vừa phải. Mùi nhang lãng đãng pha đậm thêm nồng độ tĩnh lặng trong phòng. Mọi bận rộn trong mấy ngày qua tạm thời lắng xuống. Tôi cảm nhận lại ít nhiều khung cảnh lúc bà ngoại tôi cúng giỗ khi tôi còn ở quê nhà. Cái không khí trầm lắng của âm dương, đất trời quyện lẫn vào nhau.
Thanh Đạm bước lên lầu tiếp tục sắp xếp đồ đạc trong phòng ngủ. Tôi ngồi một mình dưới phòng khách, đắm mình trọn vẹn trong thứ không khí tôi vừa cảm nhận. Càng lúc tôi càng nhận rõ động lực thúc đẩy tôi cúng đất đai vào buổi chiều nay. Dĩ nhiên tôi khó giải thích được cho Arie hiểu có một cái gì đó rất mong manh, đặc thù mà tôi muốn tìm. Hay muốn trở về. Rồi lại còn thêm chuyện khám phá cái ‘stonehenge’ bằng gỗ trong khu đất này cứ bám chặt vào tâm trí tôi trong suốt thời gian qua. Mảnh đất dưới căn nhà mới sau đó như đang phập phồng nhịp thở, chuyển động từng đường gân thớ thịt. Cảm giác cuốn hút tôi kỳ lạ, đến nỗi tự dưng tôi cứ nghĩ đến những con người đã từng sống, đã chết và hòa thân xác của họ vào lòng đất này. Một quá khứ hỗn mang cứ lừng lững chờn vờn, dai dẳng ám ảnh tôi, muốn nuốt trọn con người tôi vào cái mịt mù mênh mông của nó. Tôi biết chắc chắn anh chàng hàng xóm kiêm bạn đồng nghiệp Arie của tôi sẽ cười thật to, cười chảy nước mắt, cười chết bỏ nếu nghe tôi nghiêm trang bày tỏ điều này.
… Chỉ mình ông ngoại tôi với đồng lương căn bản của một thầy giáo, còn phải nuôi vợ và bầy con, không thể nào tạo dựng được một khu đất gia đình rộng lớn như vậy. Ngoài đồng lương thầy giáo cố định của ông ngoại, bà ngoại còn phải kiếm thêm lợi tức cho gia đình bằng cách làm và trữ mắm. Bạn hàng đến lấy mắm đi bằng ghe bầu rộng lớn, chèo chống vô tận con rạch trong vườn. Sau này bà ngoại còn có thêm một sạp vải ngoài chợ thị xã. Ăn nên làm ra, ông bà ngoại mua dần từng mảnh đất của hàng xóm chung quanh để có được khu đất nhà rộng lớn như ngày nay. Khi tôi bắt đầu ghi nhận được ít nhiều sinh hoạt gia đình trong ký ức, một ngôi trường Trung Học do ông ngoại và cậu Ba tôi hùn nhau xây cất đã nằm sừng sững tự bao giờ, chiếm gần một phần ba mảnh đất nhà. Phần đất còn lại, trên đó có căn nhà của ông bà ngoại, hầu hết là vườn cây ăn trái. Mặc dù vẫn còn tráng kiện, ông ngoại đã làm xong di chúc chia các phần đất còn lại cho đám con cháu.
Là vợ của thầy giáo, nhưng bà ngoại mù chữ. Bù lại, bà có trí nhớ rất tốt. Bà tính nhẩm nhanh cấp kỳ, thuộc nằm lòng vài bộ kinh Phật, hầu hết các bộ truyện Tàu, các tuồng tích hát bội và cải lương. Chính bà là người chủ động mọi sinh hoạt gia đình. Một mình bà cưu mang cả một quá khứ mênh mông dày đặc với những tập tục cổ truyền, những ngày giỗ lớn nhỏ trong năm, những buổi cúng ngày rằm, xá tội vong linh… Trong ngôi nhà lợp ngói âm dương, bà ngoại vẫn âm thầm làm những công việc thường ngày. Một trong những niềm vui của bà là làm các món ăn ngon, tụ họp đám con cháu quây quần trong ngày cuối tuần, ngày giỗ, ngày Tết. Tôi dần dần lớn lên trong khoảng thời gian này. Hết lòng với những người đã khuất phía trước, bà ngoại còn gánh gồng cả tương lai thăm thẳm phía sau. Niềm mơ ước thiết tha của bà là được nhìn thấy đám con cháu sẽ cùng nhau sống quây quần, thuận hòa trên mảnh đất do chính phần lớn bàn tay bà tạo nên.
Cuối tháng Sáu Năm Bảy Mươi Lăm, người cậu thứ bảy của tôi trở về từ đơn vị đóng gần biên giới Miên. Cậu mặc quân phục, cỡi chiếc Honda cũ, đèo theo túi hành trang nhỏ và một con chó cò. Chàng trai trẻ vất bút nghiên ra đi kháng chiến năm nào trở thành thượng úy bộ đội, mái tóc ngắn hoa râm, gương mặt gày gò chằng chịt nếp nhăn. Ȏng ngoại, các người cậu khác của tôi đã lần lượt qua đời. Mộ ông ngoại nằm cuối lô đất dành cho cậu Bảy. Bà ngoại tôi vẫn còn khỏe mạnh, sáng suốt nhưng đôi mắt đã lòa. Nỗi vui mừng mẹ con sum họp sau mấy chục năm xa cách không xóa nhòa được niềm đau khi bà ngoại nhìn thấy cảnh con cháu đứa bị đi học tập cải tạo, đứa từ bỏ đất nhà tứ tán vượt biên. “Nếu trong nhà mình, anh em, con cháu không phục vụ cho Mỹ, Ngụy, tôi đã là sĩ quan cấp tá”, cậu Bảy kể. “Nên tự nguyện hiến ngôi trường cho Cách Mạng”, lời khuyên đầu tiên của cậu Bảy. Với hoàn cảnh sống ngày càng khó khăn, nhiều căn nhà trong khu đất sau này cũng bị đám cháu bán đi khi thủ tục giấy tờ trở nên dễ dàng hơn. Mảnh đất nhà rụt rè thu nhỏ lại. Gió bão lịch sử cuốn phăng đi niềm mơ ước của bà ngoại dành cho đám con cháu. Trên mảnh đất Âu Châu, sau hơn ba năm kể từ ngày vượt biên, tôi nhận được tin mẹ tôi báo bà ngoại mất.
Phải qua nhiều năm sau khi đã an ổn định cư trên xứ người, nhớ lại cảnh mẹ tôi cúi gập người xuống khóc nức nở, đóng sập cánh cửa lúc tôi từ giã bà ra đi vượt biên, tôi mới phần nào cảm nhận được nỗi thống khổ của bà ngoại khi nghe kể về chuyện thời các cậu đồng loạt rủ nhau ra đi kháng chiến. Tôi không biết ngày xưa bà ngoại từ giã các cậu như thế nào. Nhưng ngày tôi ra đi, bà ngồi chồm hổm trên nền đất, dáng người nhỏ thó, khóc thút thít. Bà cầm chéo khăn vắt trên vai lau nước mắt liên tục.
Và bà ngoại, chính bà, mới làm hiển lộ rõ ràng, trọn vẹn cái động lực sâu xa cho việc tôi tẩn mẩn cúng kiến trên một mảnh đất ở Âu Châu vào buổi tối hôm nay. Bà trở về trong tâm tưởng tôi, nhưng không một mình, vẫn cùng với cái quá khứ mênh mông và ước mơ mà bà đã cưu mang giữa cuộc sống. Khối quá khứ đặc quánh sương mù đó dần dần hé mở, để lộ ra hình bóng ông ngoại, các cậu tôi. Để lộ dần bóng dáng những con người không rõ mặt, những con người xa lạ đã nằm xuống trên đất nước từ bao nhiêu năm. Rồi hàng hàng lớp lớp những con người cổ sơ — những con người còn xa xăm mịt mù hơn cả những người đã dựng cái ‘stonehenge’ trong khu đất này — vụt trỗi dậy từ lòng đất. Nhưng tựa hồ như họ vẫn đứng đấy tự bao giờ. Không chủng tộc, không quốc tịch. Bình thản, an nhiên. Từng đám bụi dày đặc của thời gian, bao tầng lớp chớn chở của vô số biến cố lịch sử trên trái đất chỉ là làn gió thoảng, nhẹ nhàng xuyên suốt qua cái đám đông im lặng đó, cái đám đông đang có tôi tham dự. Trời ơi, lát nữa đây, tôi chỉ có thể kể cho Thanh Đạm nghe ít nhiều về giây phút này, nhưng làm sao san sẻ cùng nàng cái kinh nghiệm tôi đang trải qua…
“Trí ơi, cúng như thế chắc đủ rồi. Nhang gần tàn rồi đó anh.”
Hình như Thanh Đạm lập lại câu nói của nàng lần thứ hai hay thứ ba gì đó. Nàng đứng bên tôi từ lúc nào, nhìn tôi với đôi mắt dò hỏi lẫn đôi chút chế riễu nghịch ngợm. Chắc nàng nghĩ tôi thiếp đi vì mỏi mệt sau mấy ngày quá bận rộn. Nén nhang trong lọ cắm đã cháy gần hết phần màu vàng nghệ. Hãy còn bàng hoàng, tôi tảng lờ truớc ánh mắt của Thanh Đạm, lẳng lặng đến rút nhang rồi mở cửa sau bước ra vườn. Tình cờ đêm nay trời có trăng. Nhưng mặt trăng như mẩu bánh bị cắn dở, ngập ngừng lộ ra trong khoảng không còn sót lại giữa những đám mây đen đặc. Ánh sáng nhờ nhờ, nhợt nhạt rơi tà tà xuống đất vườn, phản chiếu trong mấy vũng nước còn đọng lại của trận mưa vừa qua. Mảnh đất vườn hãy còn là đất hoang mới được dọn sạch cây cối, hang ụ lởm chởm, nhớp nháp bùn lầy. Tôi ngồi xuống, cắm phần màu hồng của chân nhang vào lòng đất. Vẫn giữ thế ngồi chồm hổm như vậy, tôi nhìn về khoảng tối đen ở cuối vườn, trầm ngâm về kinh nghiệm tôi vừa trải qua. Đám mây đen nuốt dần mảnh trăng còn lại. Khu vườn trống trải trở nên tối tăm hơn. Trộn lẫn trong hương nhang thoang thoảng, một thứ mùi nồng nàn, mộc mạc xông mạnh vào khứu giác. Bỗng nhiên, một niềm vui dâng lên nhè nhẹ trong lòng cùng với sự thanh thản mà tôi không hề có được trong suốt thời gian qua. Tôi nhận ra rõ ràng mùi hương quen thuộc, thân thương: mùi hơi đất của vườn nhà ông bà ngoại bốc lên sau cơn mưa đầu mùa.
Nguyễn Hoàn Nguyên