Nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương (1935 -2021)
(Kính tặng Anh Trần Bá Thùy và Chị Tôn Nữ Hỷ Khương)
Chị Hỷ Khương điện thoại mời vợ chồng tôi, “tối Chủ Nhật tới chị ăn một bữa cơm gia đình cho vui, nhớ đi nghe, chị sẽ đãi tụi em một món hết sức đặc biệt!”
Quả thật, đối với chị thì “còn gặp nhau thì hãy cứ… ăn.’’ (*)
Dĩ nhiên là không phải chỉ có vợ chồng tôi được mời, hôm đó có mặt vợ chồng giáo sư Lăng, vợ chồng bác sĩ Thân, vợ chồng thầy Lê – người “Giải mã truyện Tây du ký”, bác sĩ Trương và một vị khách đặc biệt là chị giáo sư tiến sĩ Thái, một Việt kiều ở Đức, từ Huế vội bay vào để được dịp thưởng thức món ăn hết sức đặc biệt của chị Hỷ Khương.
Bàn ăn đã bày sẵn. Mọi người ngồi vào bàn và chỉ thấy toàn những món Huế quen thuộc. Ai cũng thắc mắc sao không thấy món ăn hết sức đặc biệt đâu. Anh Thùy, chồng chị cười nói: “Mấy anh chị cứ thời những món đó trước đã. Ăn uống có chờ đợi, có bất ngờ mới thích”.
Không biết mọi người có thích chờ hay không, riêng tôi thì thấy anh Thùy nói cũng có lý. Chờ đợi món ăn mà mình chưa biết cũng giống như… ngày xưa những chàng trai đi coi mắt vợ và ngày nay những ông bố tương lai ngồi chờ vợ sinh, chưa biết mặt mũi vợ hay mặt mũi con ra sao nhưng cũng thấy “sướng” trong sự chờ đợi rồi.
Và cái thời điểm quyết định như tôi nói đã đến! Anh Thùy từ nhà bếp đem ra một gói cơm mo cau. Mọi người đều hớn hở “ồ” lên! Ai cũng buông đũa chờ thưởng thức cơm mo cau giữa lòng thành phố. Đặc biệt vì ở thành phố này mà tìm cho được cái mo cau vừa rụng để gói cơm không phải dễ dàng. Anh chị Thùy quý khách lắm mới bỏ công như vậy. Chị Hỷ Khương giới thiệu, “đó là công trình của anh Thùy, vì chị chân yếu tay mềm không thể nào vắt cơm cho nhuyễn, cho chặt được”. Chị thân mật nói:
– Trong bàn ăn này, tôi biết ai cũng có những kỷ niệm êm đẹp với cơm mo cau, nên hôm nay tôi đãi quí vị ăn món kỷ niệm, sướng không? Như mọi lúc, chị “đệm” thêm một tràng cười sảng khoái.
Ăn món kỷ niệm! Đúng vậy, vì cơm mo cau không phải là món ăn hàng ngày. Nó vừa là cơm nhà giàu, vừa là cơm nhà nghèo, mang đậm nét miền Trung, vùng đất trồng nhiều cau, được “chế” ra khi cần thiết theo nhu cầu của mỗi gia đình, chẳng hạn như đãi người thân, đi dã ngoại, làm bữa ăn trưa cho những người đi làm thuê, cho những nông dân ra đồng cày thuê, gặt mướn, cho những trẻ mục đồng, cho thế hệ học trò nhà quê ngày xưa mà bây giờ tuổi đã 50 trở lên đi học xa nhà, buổi trưa phải ở lại trường…
Muốn có cơm mo cau, dĩ nhiên phải có mo cau. Ở quê miền Trung thì dễ tìm, vì hầu như nhà nào cũng có trồng vài cây cau bên giếng nước để lấy trái ăn trầu. Có nhà trồng cả vườn cau để bán. Nếu ai có dịp trông thấy vườn cau dù bất cứ ở đâu, không riêng gì ở Vỹ Dạ, sẽ thấm thía những câu thơ bất hủ của nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc…”. Đúng là lá cau xanh mướt khi ánh nắng sớm mai rọi vào. Thường mùa xuân cau bắt đầu rụng lá già bọc ngoài để buồng tiếp xúc trực tiếp với nắng gió mây trời mà trổ hoa kết trái. Hoa cau trắng ngà, nhỏ bằng đầu đũa, giống như những đốm sao trên dải Ngân Hà, mùi thơm dìu dịu. Nếu bạn bước vào một vườn cau đang mùa nở hoa, bạn sẽ thấy mát cả ruột gan, tâm hồn lâng lâng sảng khoái, quên hết mọi lo toan đời thường và không muốn rời nửa bước. Có lẽ hoa cau đã thẩm thấu vào văn hóa ẩm thực cố đô nên người Huế chế ra món chè (giống như) bông cau hết sức hấp dẫn, dễ “chiêu dụ” lòng người… Cái bẹ cau có hai mặt, hai lớp da bọc những đường sứa ngược nhau. Lớp da ngoài khi còn non mang màu xanh da trời, rồi theo thời gian dần dần ngả màu xanh thẫm, đến khi cau có chửa biến sang màu vàng nghệ. Lớp da trong mềm mịn, trắng ngà như da con gái bọc lấy buồng cau. Bẹ cau lâu ngày ấp ủ một thứ hương thơm được nuôi dưỡng bằng dưỡng chất của trần gian, tuy rơi xuống đất, trở về với cội, nhưng vẫn có ích cho người…
Tôi nhớ nhà ngoại tôi có hai hàng cau dẫn vào ngõ gạch. Mỗi năm, khi chiếc tàu cau đầu tiên rụng xuống thềm giếng, thường trước Tết vài hôm, ngoại luôn cắt bẹ ngâm vào ảng nước bên cạnh giếng để dành đến Mồng 6 Tết, bó cơm cho người anh con cậu tôi thả bò khai chuồng – cho ăn tận đồng xa – mang theo để ăn trưa. (Ở quê tôi, Mồng 4 Tết mới cúng đưa tổ tiên ông bà về tiên cảnh sau khi đã về trần gian ăn Tết với con cháu, Mồng 5 thì kiêng, Mồng 6 mới bắt đầu bước vào công việc làm ăn cả năm). Bẹ cau tươi ngâm vào nước không bao giờ thành mo, nghĩa là luôn luôn mềm như giấy, bẻ xếp chiều nào cũng dễ. Ngoại thức dậy rất sớm, nấu cơm nồi đồng rồi bới phần ăn trưa cho anh tôi lên bẹ cau mà tối hôm trước ngoại đã lấy vô để cho ráo nước, bày sẵn trên chiếc sàng gạo. Hai bàn tay ngoại thoăn thoắt vắt vắt cơm bọc trong bẹ cau, trông rất điệu nghệ. Đến khi vắt cơm chật cứng, không rời một hột, ngoại gói lại gọn gàng bằng lạt bẹ cau và không quên bỏ vào đó một gói muối ớt hay muối tiêu nướng than gói bằng lá chuối. Ngoại tôi còn cắt bẹ cau làm dép mang trong vườn.
Khi tôi còn trọ học ở nhà ngoại, những ngày nghỉ học nếu không về quê thăm gia đình thì tôi xin ngoại cho theo người anh họ đi chăn bò đồng xa, thường là cạnh bìa rừng. Anh tôi được bọn trẻ chăn bò trong xóm phong làm “thống soái”. Chức này khi lùa bò ra tới bãi thả cho ăn thì có “lính” trông coi, “thống soái” chỉ đi bẫy chim hay tìm bóng mát ngủ bù cho đêm trước đi coi hát bội về khuya. Tôi rất hãnh diện khi được “thống soái” cho làm chức “cận vệ trung thành” vì được mang gói cơm mo cau bên hông, trông rất… oai vệ. Đến trưa, khi mặt trời đứng bóng, “thống soái” dùng hai bàn tay chụm tròn lại, hai ngón cái áp vào môi, thổi ra một hiệu lệnh trầm bổng vang xa nhờ rung nhịp những ngón tay, đó là hiệu lệnh riêng của mục đồng, báo cho đám thuộc hạ biết tới giờ ăn trưa. Bọn trẻ mục đồng vội vã tập trung dưới một tàn cây râm mát, mỗi đứa bày gói cơm mo cau của mình ra trước mặt “thống soái”. “Thống soái” chắp hai tay trước ngực, thành tâm khấn mời ông bà khuất mặt khuất mày, “cây cao bóng cả” hiển linh về hưởng bữa cơm trưa đạm bạc. Vắt cơm trắng ngần nằm gọn trong mo cau tỏa ra mùi hương cơm dìu dịu, gợi thèm. Mồ hôi cơm đọng trên sớ mo lấp lánh ánh mặt trời. Tôi nghĩ giữa những giọt mồ hôi cơm và những giọt mồ hôi của bọn trẻ, cũng như những giọt mồ hôi của những trai cày gái gặt có sự giao hòa tương tác…
Lấy nhánh cây làm đũa, xắn một miếng cơm, chấm một chút muối ớt hiểm, hay sang hơn một miếng cá khô nướng, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả giữa cảnh thiên nhiên bao la thật ngon, thật sướng miệng vô cùng. Hôm nào “thống soái” hay ai đó bắn được vài con chim thì coi như có một bữa ăn trưa thịnh soạn. Ăn xong còn được tráng miệng bằng trái chim chim, dú dẻ, hay trái ngâu, trái duối mà bọn “lính” hái được trong vạt rừng ven bãi thả. Ăn mặn khát nước thì sẵn nước mương hay nước sông uống một bụng no nê rồi tắm luôn, và sau đó tìm bóng mát ngủ một giấc thẳng cẳng. Còn cái mo cau cũng được “tắm” cho sạch, cho thấm nước để ngày hôm sau còn sử dụng đươc. Một cái mo cau gói cơm vắt, nếu biết gìn giữ, đừng để khô, có thể dùng đến cả tháng.
Cơm mo cau đạm bạc chỉ ăn với muối ớt, muối tiêu, muối đậu phộng, mà ăn ở ngoài đồng, giữa khung cảnh thiên nhiên mới đúng điệu. Sang trọng hơn thì cơm mo cau ăn với ruốc kho với thịt ba chỉ xắt nhỏ như hạt lựu, sả và ớt – gọi tắt là ruốc kho sả ớt, món ăn rặt Huế thường dùng vào mùa đông, hay với tôm thịt rim.
Bữa cơm mo cau ở nhà chị Hỷ Khương có món muối đậu phộng đặc biệt do anh Thùy “sáng chế”. Thay vì rang đậu phộng khô rồi mới giã nhỏ, trộn muối như mọi người luôn làm, anh Thùy lại làm ngược quy trình, giã nhỏ đậu phộng khô rồi mới rang, nhờ vậy mà muối đậu phộng của anh thơm hơn, béo hơn và đậm đà hơn khi ăn cùng miếng cơm mo cau giữa thành thị.
Mấy gói cơm mo cau của anh chị Thùy được mọi người “tận hưởng” một cách ngon lành và nhanh chóng khiến cho những món ăn Huế thường ngày trên bàn có vẻ ganh tị vì sớm bị … bỏ rơi. Tôi nói nhỏ với vợ tôi:
– Giá mà trong ba ngày Tết, em làm cho anh một gói cơm mo cau để dành ăn thay mấy miếng bánh chưng, bánh tét thì hay biết mấy.
Vợ tôi không phải là người nội trợ giỏi, không thể phân biệt tôm rằn với tôm sú và cũng không biết cách rang đậu phộng cho vừa chín tới, bèn nguýt tôi và “đánh trả” lại ngay:
– Liệu anh có tìm được cái mo cau tươi và có đủ sức ém cơm cho chặt và ngon như anh Thùy làm không?
Lúc bấy giờ tôi mới hiểu tại sao chị Thái, đang bận công việc ở Huế, cũng phải bay vào dự bữa cơm mo cau dân dã của anh chị Thùy rồi bay ra trở lại.
Lê Ký Thương
Sài Gòn, 2001
Sài Gòn, 2001
(*) Nhại theo một câu thơ trong bài Còn Gặp Nhau của nữ sĩ TNHK.